Fri, 18/11/2022 - Huệ
Minh
Niềm tin đời sau
Con người sinh ra từ đâu? Sống ở trên
đời này để làm gì? Chết rồi sẽ đi về đâu? Đó là những câu hỏi luôn làm bận tâm
và bám chặt vào thân phận con người. Các nhà khoa học, những nhà y khoa và các
triết thuyết tôn giáo cũng đã tìm hiểu và đưa ra nhiều những câu trả lời khác
nhau về cuộc sống mai hậu của loài người. Và dù có đưa ra được những bằng chứng,
những công trình nghiên cứu hay những giáo lý riêng của mình đi chăng nữa, thì
đó vẫn chỉ là những quan điểm khác nhau. Con người vẫn còn khắc khoải, chờ mong
một câu trả lời rõ ràng và xác đáng.
Niềm tin Ki-tô giáo khác hẳn những
triết thuyết và các giải thích của những trường phái trên. Niềm tin ấy cho biết
một cách cụ thể trong bài Tin mừng ngày hôm nay như thế này, sau khi nhóm Sa-đốc
chất vất Chúa Giê-su về sự sống đời sau, họ đưa ra bằng chứng về người phụ nữ
đã lấy bảy anh em trong một gia đình, vậy sau khi chết, ai sẽ là người chồng
đích thực của bà. Câu trả lời của Chúa Giêsu là, hạnh phúc vĩnh cửu đời sau,
trên thiên đàng không còn chuyện dựng vợ gả chồng.
Và Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống
chứ không phải của kẻ chết. Thật thế, căn bản của niềm tin vào sự sống lại là
chính Chúa Giê-su. Có nghĩa là người Ki-tô hữu chúng ta phải để niềm tin này
nuôi dưỡng mọi công việc chúng ta làm, và phải biết sống làm sao ở đời này để xứng
đáng thừa hưởng cuộc sống mai sau.
Hay nói cách khác, niềm tin vào sự sống
lại nơi người Ki-tô hữu là một ân ban, là một quà tặng Thiên Chúa dành riêng
cho chúng ta. Vì thế, ngay tại thế này, chúng ta có nhiệm vụ làm cho quà tặng ấy
được sinh hoa kết trái ngay nơi tâm hồn mình. Bằng chứng là chúng ta phải chịu
trách nhiệm về mọi tư tưởng, hành động của mình trong đời sống hàng ngày. Hay
nói rõ hơn, mọi việc chúng ta làm phải luôn hành động theo luật Chúa dạy và luật
tự nhiên.
Luật Chúa dạy là mến Chúa, yêu người.
Đây là hai thực tại đan xen lẫn nhau, đòi người Ki-tô hữu cùng lúc thực hành
song song để tạo ra hoa trái sinh động. Tôi không thể yêu Chúa nếu như tôi không
tôn trọng sự sống, cũng như tôi không thể yêu người nếu như tôi không thực sự mến
Chúa.
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có
trong Tin mừng là một ví dụ điển hình. Anh muốn đi theo Chúa, muốn được hưởng
kiến niềm vui Nước Trời, thế nhưng khi được Chúa đề nghị bán hết của cải cho
người nghèo, anh lại không dám. Anh chỉ muốn được ở bên Chúa. Anh không quan
tâm đến người khác. Như vậy, ơn gọi của anh bị thiếu mất vế sau. Trong lịch sử
Giáo hội, hẳn những con người thể hiện hoàn trọn hai vế ấy hẳn là các thánh
nhân. Họ không những đã thực hành Lời Chúa dạy một cách hoàn trọn, họ còn yêu
thương, giúp đỡ con người một cách đầy đủ. Họ đã giới thiệu Chúa cho mọi người
và đưa mọi người về cùng Chúa. Trái tim của họ đầy tràn tình yêu Chúa và cũng nồng
nàn hơi ấm tình người.
Đó là những người đã chu toàn đầy đủ
mười điều răn Chúa dạy và họ xứng đáng được diện kiến tôn nhan Chúa, sự chết
không làm gì được, họ sống một cuộc đời hạnh phúc bất diệt ngay tại thế này. Những
mẫu gương ấy chính là nền tảng mẫu mực đưa chúng ta vươn tới niềm hy vọng. Niềm
hy vọng được sống trường tồn vĩnh cửu với Chúa Ki-tô phục sinh.
Bên cạnh việc chu toàn 10 điều răn,
người Ki-tô hữa còn được thúc đẩy tuân giữ những luật tự nhiên. Xét như những
gì là thực tại gần gũi, chúng ta cần bảo vệ môi trường sống, không phá hủy rừng,
sử dụng nguồn nước và không khí có trách nhiệm. Xét về mặt luân lý, chúng ta
không được can thiệp vào sự sống, không được chọn những cách thức can dự vào sự
sống như sử dụng cái chết êm dịu, hay trợ tử; tất cả những việc làm đó đều đi
ngược lại luật tự nhiên mà Thiên Chúa đã ấn định. Thiên nhiên, sự sống là quyền
của Thiên Chúa, con người được thụ hưởng và có nhiệm vụ cộng tác nhưng không có
quyền định đoạt hay phá bỏ.
Tiếc thay con người ngày nay thường
nhân danh một chủ thuyết hay một cơ chế nào đó mà họ táng tận lương tâm hủy hoại
mạng sống của đồng loại một cách không thương tiếc như tàn phá môi trường sống
một cách vô tội vạ, hay lạm dụng chính sức lao động của đồng loại mình để tìm
kiếm, đào bới những tài nguyên dẫn tới cạn kiệt. Nơi suy nghĩ của họ, tiền bạc,
quyền hành và lợi tức vượt trên tất cả, và hậu quả là những người dân vô tội phải
lãnh nhận là mưa lũ, ngập lụt.
Với người Ki-tô hữu, sự sống đời sau
được khởi sự từ đời sống này. Một đời sống lấy chính Chúa và đời sống tha nhân
làm trung tâm điểm của đời sống mình. Một đời sống được gọi mời phụng thờ Chúa
và tôn trọng những giá trị tự nhiên, vì mọi sự đều là của Chúa, thuộc về Chúa.
Một khi tuân giữ và thực thi nền giáo lý như vậy, chắc chắn người Ki-tô đã được
hưởng trọn niềm vui đời sống mai hậu ngay nơi đời sống thực tại này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét