Thứ Tư, 30 tháng 9, 2020

Sự khác biệt giữa người nhiều tiền và người giàu có

Thứ sáu, 28/8/2020, 05:00 (GMT+7)


Sự  khác  biệt  giữa  người  nhiều  tiền  và  người  giàu  có


Theo các chuyên gia tài chính, người giàu có (wealthy people) sẽ gần như không bao giờ phải quan tâm đến tiền vì tiền sẽ "tự động tìm đến họ".
Định nghĩa về tiền trong cuốn sách "Tâm lý học về tiền" (The Psychology of Money), Morgan Housel không phải là một vật lưu trữ giá trị, mà là vật dẫn của những cảm xúc, mang theo hy vọng, mơ ước, nỗi sợ hãi, đau khổ, tự tin, ghen tị, hối tiếc...

Người nhiều tiền nhưng vẫn phải lo lắng kiếm tiền và có thu nhập hiện tại cao nhưng không bền vững. Ảnh minh họa: Medium.
Người nhiều tiền nhưng vẫn phải lo lắng kiếm tiền và có thu nhập hiện tại cao nhưng không bền vững. Ảnh minh họa: Medium.








Ông đi tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra bằng cách kể một câu chuyện bản thân từng tận mắt chứng kiến: Một triệu phú công nghệ đã đưa cho một nhân viên khách sạn vài nghìn USD tiền mặt để đi mua những đồng xu vàng tại một tiệm nữ trang gần đó. Vị triệu phú đã ném số tiền này, ước tính khoảng 1.000 USD mỗi xu, xuống biển với mục đích "chỉ để cho vui mắt mọi người". Housel viết trong cuốn sách, sau này, vị triệu phú đã phá sản.
Tuy nhiên, đối với một trường hợp khác, đồng tiền lại là một khả năng. Morgan Housel đưa ra dẫn chứng về Ronald Read, một nhà từ thiện, nhà đầu tư, người gác cổng và nhân viên trạm xăng người Mỹ. Người đàn ông đặc biệt này đã dành nhiều chục năm cho công việc bơm xăng, dọn dẹp vệ sinh và đầu tư từng cắc bạc mình có vào chứng khoán. Khi qua đời ở tuổi 92 (năm 2014), tài sản ông để lại là 6 triệu USD, được quyên góp cho nhiều các tổ chức từ thiện địa phương.
Qua những ví dụ của mình cùng nhiều dẫn chứng khác nhau trong cuốn sách, Morgan Housel rút ra sự phân biệt quan trọng giữa người có tiền (rich people), tức là người có thu nhập hiện tại cao và người giàu có thực sự là người có quyền tự do không cần tiêu đến tiền của mình.
Morgan Housel lập luận, nhiều người giàu thực chất không giàu vì họ cảm thấy cần phải chi nhiều tiền, để người khác thấy rằng mình giàu có như thế nào. Theo vị chuyên gia tài chính, giàu có thực sự là việc ít quan tâm đến những gì người khác nghĩ về bạn, và tập trung nhiều hơn vào việc sử dụng đồng tiền bạn có như thế nào, nhằm quản lý cách bạn sử dụng thời gian của mình.
Người giàu có không cần phải chi tiêu để thể hiện cho người khác thấy họ có nhiều tiền như thế nào. Ảnh: The Finance Twins.
Người giàu có không cần phải chi tiêu để thể hiện cho người khác thấy họ có nhiều tiền như thế nào. Ảnh: The Finance Twins.



Morgan Housel chỉ rõ: "Khả năng làm những gì bạn muốn, khi bạn muốn, với người mà bạn muốn, miễn là bạn muốn, chính là sự trả cổ tức cao nhất trong lĩnh vực tài chính".
Vậy, sự khác biệt giữa một người có tiền và một người thực sự giàu có là gì?
Doanh nhân, nhà đầu tư nổi tiếng Robert Toru Kiyosaki viết trong cuốn sách của mình: "Người có tiền sẽ sở hữu nhiều tiền, còn người thực sự giàu có thì không lo lắng về tiền".
Ví dụ, là bác sĩ, một người có thể có nhiều tiền nhờ lương cao hơn mặt bằng chung. Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta bị chi phối bởi chi phí sinh hoạt, và đôi khi do những quyết định kém, khiến chúng ta khó có thể tích lũy được của cải thực sự. Trong khi đó, giàu có thực sự liên quan mật thiết đến sự tự do tài chính. Nó có nghĩa là bạn không sống bằng đồng lương được trả, tức là tiết kiệm đủ để một người không cần phải làm việc hàng ngày mà vẫn duy trì lối sống hiện tại của mình, tức là có thể từ bỏ công việc mà không gặp bất cứ áp lực tài chính nào.
Cũng theo Robert Toru Kiyosaki, sự giàu có thực sự không được đo bằng đồng đô la, mà đo bằng thời gian. Ông cũng nhận xét, sự khác biệt đơn giản giữa một người có tiền, và một người thực sự giàu có chính là sự bền vững của giá trị tài sản mà người đó sở hữu. Nói cách khác, một người giàu sẽ luôn giàu có, trong khi một người có tiền sẽ có thể rơi vào tình trạng hết tiền.
Sự khác biệt giữa người giàu có thực sự và một người có tiền còn liên quan đến kiến thức, theo ông. "Người giàu có thực sự là người biết cách kiếm tiền, tiền luôn không ngừng đến với họ".
Thùy Linh (Theo WSJ)

Phố lồng đèn Sài Gòn nhộn nhịp trước Trung thu

 Thứ bảy, 19/9/2020, 14:30 (GMT+7)

Phố lồng đèn Sài Gòn nhộn nhịp trước Trung thu

Hai tuần trước Trung thu, phố lồng đèn Lương Nhữ Học tấp nập người tới tham quan, chụp hình.

Khoảng hai tuần trước Trung thu (rằm tháng 8 âm lịch), phố lồng đèn trên đường Lương Nhữ Học, quận 5, đông đúc người dân tới tham quan, mua sắm, nhất là dịp cuối tuần.

Phố lồng đèn Lương Nhữ Học hình thành hơn nửa thế kỷ, chuyên sản xuất và bán nhiều loại lồng đèn, dụng cụ lân sư rồng... Ngày nay, khoảng 500 m con phố vào dịp Trung thu đều bày đủ loại lồng đèn nhiều sắc màu.

Gian hàng của ông Mười chuyên bán các lồng đèn thủ công bằng giấy kiếng và loại thắp sáng bằng pin với nhiều hình thù, màu sắc.

Hơn 20 năm bán buôn ở phố lồng đèn, năm nay tình hình kinh doanh của ông Mười cũng như nhiều tiểu thương khác ế ẩm hơn hẳn. "Doanh thu giảm gần nửa so với năm ngoái vì ảnh hưởng của Covid-19. Cũng may gần Trung thu tình hình ổn trở lại, khách đến tham quan, mua sắm có đông hơn", ông cho biết.

Mỗi gian hàng lại có cách trang trí lồng đèn khác nhau và hầu hết chỉ bán một vài loại chính. "Tôi bán ở đây hơn 30 năm nay rồi, chủ yếu là lồng đèn giấy thủ công", ông Trần Phú nói khi đang ngồi trước cửa nhà trông hàng.

Bà Lý Ngọc Hiền đội trên đầu chiếc mũ cách điệu "hoàn châu cách cách" để thu hút du khách khi bán hàng. Bà cho biết, tuy đông người qua lại nhưng lượng khách chủ yếu tham quan, còn mua đèn và các vật dụng trang trí Trung thu không nhiều.

Các tiểu thương cho hay, năm nay loại lồng đèn bằng giấy do Việt Nam sản xuất bán chạy nhất, với giá khoảng 30.000 đồng một cái. Nhiều loại lồng đèn có kích thước lớn hoặc được chế tác tỉ mỉ có giá hàng trăm nghìn đồng.

"Không khí ở phố lồng đèn rất nhộn nhịp. Em đi ngày thường nhưng vẫn khá đông người, nên không dễ có được góc đẹp chụp hình", Nguyễn Như Quỳnh (quận Thủ Đức) chia sẻ.

Cô gái cười tươi tạo dáng bên những chiếc lồng đèn đủ màu sắc. Năm nay việc chụp ảnh khá thoải mái, các gian hàng không còn để bảng cấm chụp hình như trước.

Đôi bạn Vĩnh Nguyên - Phương Uyên với hai tấm ảnh "check in" vừa được in ngay tại phố lồng đèn.

"Đây là năm đầu tôi ra chơi phố lồng đèn nên thích lắm, thuê cả trang phục để chụp hình. Tôi cũng mua thêm lồng đèn để chủ gian hàng thoải mái cho chụp", chị Trang (38 tuổi, ở giữa) cho biết.

Cậu bé thích thú nhìn ngắm những chiếc lồng đèn truyền thống sặc sỡ treo lủng lẳng trong nhà.

Sau khi dạo một vòng, anh Phạm Ngọc Anh chọn mua cho con gái chiếc lồng đèn truyền thống.

Con phố trở nên vui tươi hơn với hình ảnh Tôn Ngộ Không xuất hiện mỗi tối và rủ mọi người cùng chụp hình

Phố lồng đèn Lương Nhữ Học mở cửa từ sáng đến tối muộn. Để khám phá khu phố, bạn có thể gửi xe ở dọc đường Trần Hưng Đạo từ khúc giao Triệu Quang Phục đến Châu Văn Liêm, vòng sang Nguyễn Trãi với giá 10.000 - 15.000 đồng rồi đi bộ.

Quỳnh Trần

THUỐC PHIỆN CỦA KARL MARX

THUỐC  PHIỆN  CỦA  KARL  MARX

Sun, 13/09/2020 - Trầm Thiên Thu


 

Điều bỉ ổi nhất trong những nhận xét của Karl Marx về tôn giáo là đánh giá thấp rằng tôn giáo là “thuốc phiện” ru ngủ con người. Tuy nhiên, rất ít người quen với bối cảnh rộng lớn của bản đánh giá đó, đoạn văn lớn hơn không kém phần cam đoan, và điều đó, giống như phần lớn các bài viết của Marx và các đệ tử của ông, thậm chí còn trở nên nhàm chán và ấu trĩ hơn khi người ta cố gắng mở nó ra. Đây là phần trích từ một bài của Marx viết nguệch ngoạc từ tháng 12-1843 đến tháng 01-1844, bốn năm trước khi công bố bản Tuyên Ngôn của ông và Engels:

“Con người tạo ra tôn giáo, tôn giáo không tạo ra con người. Thật vậy, tôn giáo là ý thức và lòng tự trọng của những con người chưa chiến thắng được chính mình, hoặc đã đánh mất chính mình một lần nữa. Nhưng con người không trừu tượng khi ngồi xổm bên ngoài thế giới. Con người là thế giới của con người – nhà nước, xã hội. Nhà nước và xã hội này sản sinh ra tôn giáo, là ý thức đảo ngược của thế giới, bởi vì chúng là một thế giới đảo ngược. Tôn giáo là lý thuyết chung về thế giới này, bản tóm lược bách khoa của nó, sự hợp lý của nó ở dạng phổ biến, quan điểm tinh thần về danh giá của nó, sự nhiệt tình của nó, sự trừng phạt luân lý của nó, sự bổ sung nghiêm túc của nó, nền tảng phổ biến của sự an ủi và sự biện minh của nó. Đó là sự nhận thức lập dị về bản chất con người vì bản chất con người không có bất kỳ thực tế nào. Do đó, cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo gián tiếp là cuộc đấu tranh chống lại thế giới có hương thơm thiêng liêng là tôn giáo.

Đau khổ tôn giáo là biểu hiện của đau khổ và cũng chống lại đau khổ. Tôn giáo là tiếng thở dài của sinh vật bị áp bức, là trái tim của một thế giới vô tâm, và là linh hồn của những thân phận vô hồn. Đó là thuốc phiện của con người.”

Theo Marx, chính điều đó đã đủ tiêu cực, đủ gây chán nản, đủ lạnh lùng và nhẫn tâm. Tuy nhiên, như thường lệ, Marx còn lâu mới trút hết những uẩn khúc trong bộ não gay gắt của mình.

Việc xóa bỏ tôn giáo như một thứ hạnh phúc hão huyền của con người là sự đòi hỏi hạnh phúc thực sự của họ. Kêu gọi họ từ bỏ ảo tưởng về tình trạng của họ là kêu gọi họ từ bỏ điều kiện đòi hỏi phải có ảo tưởng. Do đó, sự chỉ trích tôn giáo trong phôi thai, sự chỉ trích về thung lũng nước mắt mà tôn giáo là ánh hào quang.

Sự chỉ trích đã nhổ những bông hoa tưởng tượng trên sợi dây, không phải để con người tiếp tục mang sợi dây mà không có sự tưởng tượng hay an ủi, mà để vứt bỏ sợi dây và nhổ bông hoa còn sống. Chỉ trích tôn giáo làm con người thất vọng, vì vậy con người sẽ suy nghĩ, hành động và tạo hình cho thực tế của mình như người đã vứt bỏ ảo tưởng và lấy lại giác quan, để con người sẽ di chuyển vòng quanh như mặt trời đích thực của chính mình. Tôn giáo chỉ là mặt trời hư ảo xoay quanh con người chừng nào con người không xoay quanh chính mình.

Do đó, nhiệm vụ của lịch sử, một khi thế giới khác của chân lý đã biến mất, là xác lập chân lý của thế giới này. Nhiệm vụ của triết học là phục vụ lịch sử, vạch trần sự tự xa cách dưới những hình thức vô đạo của nó một khi hình thức tự xa cách thánh thiện của con người đã được vạch trần. Như vậy, sự chỉ trích của Thiên Đàng biến thành sự chỉ trích của thế gian, sự chỉ trích về tôn giáo trở thành sự phê bình của luật pháp, và sự phê bình của thần học trở thành sự phê bình của chính trị.

Đó là điều thú vị và không đáng để lãng phí những khoảnh khắc quý giá của cuộc đời chúng ta khi cố gắng giải mã toàn bộ đoạn văn trong sự vô ích của nó. Nhưng một vài suy nghĩ nổi bật và đáng nhấn mạnh vì ngụ ý tai hại của chúng.

Lưu ý rằng Marx đã bắt đầu bằng việc nhấn mạnh vào “cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo,” một cách khá tiêu cực để định khung mối quan hệ của nhân loại với tôn giáo. Đây là một “cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo” mà ông cho rằng chỉ là do con người tạo ra. Giống như người bạn xã hội chủ nghĩa Mikhail Bakunin, cũng giống như Saul Alinsky, đã ca ngợi Luxiphe là “người nổi loạn vĩnh cửu, người suy nghĩ tự do đầu tiên,” Marx khăng khăng cho rằng con người rất cần sự giải phóng. Ông phỏng đoán rằng tôn giáo là mưu mô của con người, sự sáng tạo không phải là của Chúa mà là của con người. Do đó, con người tạo ra tôn giáo bởi vì con người cần tôn giáo một cách tệ hại. Đó là con người đã “đánh mất chính mình” và rồi đòi hỏi có “tôn giáo.” Nhà nước và xã hội “sản sinh ra tôn giáo,” đó là một “ý thức đảo ngược về thế giới” bị biến dạng. Cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo cũng là “cuộc đấu tranh chống lại thế giới có hương thơm thiêng liêng là tôn giáo.” Đó là lý do tại sao mọi người thèm khát tôn giáo như một loại ma túy, hoặc “thuốc phiện.” Marx lạnh lùng đánh giá: “Tôn giáo là tiếng thở dài của sinh vật bị áp bức, là trái tim của thế giới vô tâm, và là linh hồn của những thân phận vô hồn. Nó là thuốc phiện của nhân dân.”

Vay mượn từ cách nói hiện đại, và với lời xin lỗi đối với Marx, điều đó là dòng quan trọng của đoạn văn. Các nhà bình luận hiện đại chỉ quen câu thứ hai về thuốc phiện của con người. Tuy nhiên, dòng trước cũng tiết lộ không kém. Nó thiết lập sự xác định về thuốc phiện. Hãy xem lại cả hai câu song song với nhau: “Tôn giáo là tiếng thở dài của sinh vật bị áp bức, là trái tim của thế giới vô tâm, và là linh hồn của những thân phận vô hồn. Nó là thuốc phiện của nhân dân.”

Cách đánh giá đầy đủ đó của Marx thậm chí còn cay độc hơn mảnh vụn “thuốc phiện của con người” và thường được viết tắt. Thật đáng nguyền rủa. Câu “Tôn giáo là tiếng thở dài của sinh vật bị áp bức, của thế giới vô tâm, của những thân phận vô hồn” là một quan điểm tuyệt vọng!

Tiếp theo, Marx sử dụng ba từ quan trọng mà ông cũng dùng trong bản Tuyên ngôn Chủ nghĩa Cộng sản: “Xóa bỏ tôn giáo.” Với những gì ông đã nói ở dòng trước, ông thản nhiên nói rằng “việc xóa bỏ tôn giáo” là cần thiết để mọi người đạt được “hạnh phúc thực sự,” đặc biệt là khi họ bám vào tôn giáo, cách nói của Barack Obama đã nói năm 2008 mỉa mai người Mỹ “bám vào Chúa của họ,” thì chỉ là “hạnh phúc ảo.” Do đó, Marx nói rằng người ta phê phán những người như ông chỉ trích tôn giáo bởi vì tôn giáo là “vầng hào quang” của “thung lũng nước mắt.” Tất nhiên, ở đây, Marx đã chọn một phép ẩn dụ tôn giáo nổi bật, biến hình ảnh Kitô giáo lên đầu, như ông đã thích làm trong suốt quá trình viết lách và trong suốt đời mình. Ví dụ, câu nói nổi tiếng của Marx: “Tùy khả năng mỗi người theo nhu cầu của mình.” Đó là cách pha tạp về ngôn ngữ Kitô giáo, trong trường hợp đó là chính Kinh Thánh. Như người Công giáo đã biết, lời kinh “Kính chào Nữ Vương” có đề cập “ở nơi khóc lóc, trong lũng đầy nước mắt.”

Marx nói rằng con người phải “vứt bỏ xiềng xích” của “những bông hoa tưởng tượng.” Chính ông ta phải loại bỏ “ảo tưởng” và lấy lại “giác quan” của mình mới đúng. Tại sao? Câu trả lời của Marx thuần túy – chủ nghĩa tương đối về luân lý đầy mâu thuẫn, tự thua cuộc, đầy ngớ ngẩn đã lôi cuốn và tàn phá những suy luận của hệ tư tưởng rộng lớn hơn còn sót lại trong nhiều thế kỷ: “Để con người tự di chuyển quanh mình như mặt trời đích thực của chính mình. Tôn giáo chỉ là mặt trời hư ảo xoay quanh con người chừng nào con người không xoay quanh mình.”

Dĩ nhiên, đây là thực phẩm mang tính tương đối. Thật không may, chính sự ngụy biện đó là hệ tư tưởng tiến bộ thế tục hiện đại đang thống trị nước Mỹ và Tây phương rộng lớn ngày nay. Chính sự ngớ ngẩn mang vẻ triết học đó đã làm cho phe cánh tả xác định lại mọi thứ, từ cuộc sống đến hôn nhân, từ giới tính đến phòng tắm.

 Khi con người tự biến mình thành mặt trời của mình – tức là Thượng Đế của chính mình – thì người ta sẽ hủy hoại thế giới của mình. Như Whittaker Chambers, cựu đảng viên cộng sản đã nhận xét, Marx và tay sai của ông ta chỉ nhắc lại sai lầm đầu tiên của con người, được khai tâm cách trở lại Vườn Địa Đàng: các người sẽ như các vị thần.

Cũng cần lưu ý nỗi ám ảnh của Marx đối với việc chỉ trích. Chữ “chỉ trích” được dùng gần 30 lần trong bài tiểu luận này, bắt đầu câu mở đầu: “Đối với Đức quốc, việc phê bình tôn giáo đã hoàn thành về cơ bản, và việc phê bình tôn giáo là điều kiện tiên quyết của mọi sự chỉ trích.” Đó là châm ngôn nổi tiếng khác và được những người theo chủ nghĩa Mác trích dẫn, thường tóm tắt đơn giản: “Chỉ trích tôn giáo là khởi đầu của mọi sự chỉ trích.”

Đây là suy nghĩ của Marx. Cũng khoảng thời gian này, trong lá thư năm 1843 gởi Arnold Ruge, Marx đã kêu gọi “chỉ trích tàn nhẫn đối với tất cả những gì hiện hữu.” Marx rất thích Mephistopheles (ác ma trong vở kịch Faust của Goethe) với câu nói này: “Mọi thứ tồn tại đều đáng bị diệt vong.” Điều này không có gì ngạc nhiên, nó phản ánh chính suy nghĩ của người kêu gọi “phê phán tàn nhẫn tất cả những gì tồn tại,” và là người đã tuyên bố trong Tuyên Ngôn rằng “chủ nghĩa cộng sản tìm cách xóa bỏ tình trạng hiện tại của mọi thứ,” và cuối bản Tuyên Ngôn có lời kêu gọi “bắt buộc phá bỏ mọi tình trạng xã hội hiện có.”

Để tuyệt giao với cái gì đó ở mức sâu và rộng lớn thì tôn giáo bắt buộc phải bị chỉ trích. Đối với Marx, chỉ trích tôn giáo là khởi đầu và nền tảng của mọi sự chỉ trích.

Marx kết thúc đoạn văn mang tính hủy diệt của mình bằng một lời khuyến khích đối với lịch sử, triết học, luật pháp, chính trị để thực hiện “nhiệm vụ” công bình thế tục là “thiết lập chân lý của thế giới này.” Cái gì là thật? Than ôi, đó là “sự thật mê hoặc” của Karl Marx.

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

Lễ Thánh Danh Đức Mẹ, 12-09-2020

Thứ Ba, 29 tháng 9, 2020

Trí tuệ của cổ nhân: Nước quá trong thì không có cá

 

Trí tuệ của cổ nhân: Nước quá trong thì không có cá

An Hòa•Chủ Nhật, 20/09/2020 • trithucvn


Tục ngữ nói: “Vàng không thuần khiết, người không hoàn hảo”. Lão Tử cũng giảng: “Trị nước lớn giống như nấu cá nhỏ”, tức là đạo trị quốc giống như nấu ăn, đừng thường xuyên khuấy nồi, lật lên lật xuống, sẽ làm cá bị nát, món ăn mất ngon. “Nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền”, trị quốc mà không bao dung, làm dân chúng khổ sở thì sẽ có thể mất nước. Một gia đình, một đoàn thể cho đến từng cá nhân cũng là như vậy, nếu như quy củ quá, nghiêm khắc quá, không độ lượng thì sẽ khó tồn tại và phát triển được lâu dài.

 

nghiêm khắc quá

 

Sống ở đời ai mà không có lỗi lầm, ai mà không từng phạm phải sai sót? Nếu có thể lấy khoan dung độ lượng mà đối đãi với mọi người thì chúng ta sẽ biết cách ứng xử khi người khác có khuyết điểm hoặc phạm phải sai lầm.

 

Đạo lý là như vậy, nhưng lại có rất nhiều người không hiểu được điều này. Có một vị cao nhân tu Đạo từng nói rằng: “Nếu như bạn là một thánh nhân thì đều có thể nhìn thấy ưu điểm của người khác, nhìn ai cũng có thể sinh ra từ tâm. Nếu bạn là người tiểu nhân thì trong mắt bạn người khác đều là đê hèn thấp kém, nhìn trên nhìn dưới đâu đâu cũng thấy chướng tai gai mắt. Người có được tâm đại từ bi thì nhìn núi non, sông nước, hoa cỏ, muôn loài đều thấy đáng yêu”.

 

Cổ ngữ nói: “Thủy chí thanh tắc vô ngư, nhân chí sát tắc vô đồ”, nước quá trong thì không có cá, người quá xét nét thì không có bạn đồng hành. Người nghiêm khắc quá mức, hay bới móc khuyết điểm của người khác, không thể bỏ qua lỗi lầm của người khác thì bản thân mình sẽ bị cô lập. Người quá so đo tính toán với khuyết điểm hoặc sai phạm của người khác thì cũng không thể nào khoan dung được người khác, cũng không giữ được người tài ở bên mình. Bởi vậy, đối với những vấn đề phi nguyên tắc thì không nên hà khắc, tránh mất đi bè bạn, người thân.

 

Văn hóa truyền thống coi việc đối đãi nghiêm khắc với bản thân là một đạo đức tốt đẹp. Nhưng đối đãi nghiêm khắc với mình và dùng khoan dung đối đãi với người khác là hai khái niệm khác nhau. Một người có thể dùng tiêu chuẩn nghiêm khắc nhất để yêu cầu mình nhưng không thể lấy tiêu chuẩn của mình để yêu cầu người khác. Khi đặt yêu cầu và kỳ vọng quá cao vào người khác thì kết quả rất có thể sẽ hoàn toàn ngược lại, thậm chí cuối cùng sẽ đánh mất các mối quan hệ ấy.

 

Trong gia đình, ngoài xã hội hay trong công việc, nếu một người mà luôn yêu cầu nhất cử nhất động của người khác phải phù hợp với tiêu chuẩn của mình thì cuối cùng cũng chuốc lấy thất bại mà thôi, không thể được như ý. Mỗi người đều có tính cách và phương thức xử sự, đối đãi với người khác không giống nhau, ngoài ra cảnh giới tinh thần của mỗi người cũng là khác nhau. Do đó sự xuất hiện các loại xung đột, mâu thuẫn giữa người này với người khác là một kết quả tất yếu. Nếu một người không có tấm lòng khoan dung, luôn dùng sức mạnh hay quyền lực để áp chế người khác thì nhất định sẽ khiến người khác không phục, thậm chí còn sinh tâm oán hận.

 

Trong lịch sử có rất nhiều câu chuyện lấy khoan dung độ lượng đối đãi với người khác mà được lòng người, lưu danh thiên cổ. Thôi La thời Bắc triều là một ví dụ điển hình. Trong “Bắc Tề thư” có ghi chép: Thôi La giữ chức tả Thừa tướng của nước Bắc Tề thời Bắc triều và rất được Hoàng đế kính trọng.

 

Thôi La vui với việc tiến cử nhân tài. Ông đề cử Hình Thiệu với Thế Tông đảm nhiệm việc phụ tá phủ Thừa tướng, kiêm quản lý việc chính trị cơ mật. Thế Tông nghe lời Thôi La đề cử, bèn bổ nhiệm Hình Thiệu. Hình Thiệu quả nhiên rất được Thế Tông tin cậy và coi trọng.

 

Hình Thiệu bởi kiêm quản việc chính trị cơ mật, cho nên có cơ hội gần gũi với Thế Tông. Lúc nói chuyện Hình Thiệu thường hay gièm pha nói xấu Thôi La, đến nỗi làm cho Thế Tông mất vui.

 

Có một hôm, Thế Tông bảo Thôi La: “Khanh luôn kể những điều hay tốt của Hình Thiệu, mà Hình Thiệu lại chuyên nói xấu khanh, khanh quả thực là ngốc!”

 

Thôi La độ lượng nói: “Hình Thiệu kể ra những nhược điểm của thần, thần nói đến những chỗ hay của Hình Thiệu, hai người nói đều là sự thật, không có gì sai cả!”

 

Thôi La khoan dung đối đãi với người khác, đối với bản thân thì nghiêm khắc, ông không chỉ biết chắc được sở trường của người khác, bao dung những chỗ thiếu sót của người khác, mà còn thản nhiên đối mặt với những điều chưa tốt của chính bản thân, đó là phong thái vô cùng khoan dung độ lượng.

 

An Hòa

Sỏi thận - bệnh thường gặp của người Việt



Sỏi  thận - bệnh  thường  gặp  của  người  Việt
Chủ nhật, 23/8/2020-vnexpress.net


Bác sĩ nội soi tán sỏi thận qua da tại Bệnh viện Bình Dân. Ảnh: Trần Nhung.


2-12% người Việt mắc sỏi tiết niệu, trong đó sỏi thận chiếm đến 40%, khiến Việt Nam nằm trong nhóm "vùng sỏi thế giới".

Phó giáo sư Vũ Lê Chuyên, Chủ tịch Hội Tiết Niệu - Thận học Việt Nam, cho biết thông tin trên, ngày 22/8. Sỏi tiết niệu có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào trong đường tiểu như thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo nam giới. Niệu đạo nữ rất ngắn nên không tạo sỏi. Đây là những tinh thể rắn hình thành từ các khoáng chất trong nước tiểu, bàng quang, thận, niệu đạo.

Nguy cơ mắc sỏi tiết niệu nói chung phụ thuộc vào các yếu tố như địa lý, khí hậu, chủng tộc, chế độ ăn uống và di truyền. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm góp phần làm tăng tỷ lệ sỏi niệu tại Việt Nam, trong vùng có tỷ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu cao, gọi là "vùng sỏi thế giới".

Sỏi thận thường gặp nhất, có thể gây đau quặn bụng, thận ứ nước, tiểu rắt, buốt... Các viên sỏi, còn gọi là sạn, thường nhiều kích cỡ, số lượng ít hay nhiều tùy cá thể, có người mắc hàng trăm viên sỏi thận.

Bệnh có thể gặp ở nhiều lứa tuổi và các giới tính.

Kỹ thuật điều trị sỏi thận hiện nay có nhiều tiến bộ. Theo phó giáo sư Chuyên, với sỏi thận kích thước nhỏ, người bệnh có thể điều trị bằng cách uống nước nhiều và dùng thuốc tan sỏi hoặc tống xuất sỏi. Với sỏi thận có kích thước lớn, không thể điều trị bằng nội khoa, cần đến các phương pháp như tán sỏi ngoài cơ thể, tán sỏi thận qua da, phẫu thuật nội soi hay mổ mở.

Các hướng dẫn mới nhất về điều trị sỏi thận từ các Hội Tiết niệu Mỹ, châu Âu hiện không còn đề cập vai trò mổ mở, thay vào đó là phương pháp tán sỏi thận qua da với nhiều ưu điểm. Phương pháp này đang được áp dụng tại nhiều nơi trên thế giới và tại các bệnh viện chuyên điều trị sỏi thận ở Việt Nam.

"Trong phẫu thuật tán sỏi thận qua da, bác sĩ tạo ra một đường hầm tiếp cận viên sỏi từ ngoài da tại vùng hông lưng", phó giáo sư Chuyên phân tích. Đường hầm có kích thước khoảng một cm nên vết rạch da rất nhỏ. Bác sĩ sẽ đưa thiết bị vào qua đường hầm này để tán vỡ vụn sỏi và lấy các mảnh nhỏ ra ngoài.

Nếu mổ mở, người bệnh phải chịu một đường mổ dài khoảng 15 cm ở vùng hông lưng. Vết mổ cắt đứt cơ vùng hông lưng, tổn thương thần kinh, xương sườn số 12 và mô xung quanh thận. Trong mổ mở, các lớp cân, cơ dùng dao điện để cắt đốt, bể thận hoặc kèm chủ mô thận được xẻ ra để lấy sỏi.

Bác sĩ nội soi tán sỏi thận qua da tại Bệnh viện Bình Dân. Ảnh: Trần Nhung.

Tổn thương sau mổ mở là khá lớn, đòi hỏi thời gian sau phẫu thuật kéo dài, lâu hồi phục và mức độ đau sau mổ nhiều. Sau phẫu thuật, vùng quanh thận đã xâm lấn sẽ hình thành mô xơ dính. Người bệnh có sỏi tái phát thì việc tiếp cận trong những lần sau khó khăn, tăng nguy cơ tổn thương như chảy máu, nhiễm trùng, phạm vào ruột, thoát vị vết mổ...

Phó giáo sư Chuyên đánh giá, lấy sỏi qua da thể hiện vai trò quan trọng trong điều trị các trường hợp sỏi thận tái phát. Kỹ thuật tạo đường hầm trực tiếp đến sỏi sẽ giúp giảm cảm giác đau do vết mổ ở các lần can thiệp sỏi tiếp theo.

Ưu điểm của kỹ thuật lấy sỏi qua da so với mổ mở là người bệnh được điều trị ít xâm hại, bảo tồn chức năng thận, phục hồi nhanh sau mổ và thời gian nằm viện ngắn. Phương pháp này có thể áp dụng cho cả các trường hợp sỏi lớn hoặc thất bại với điều trị nội khoa hoặc tán sỏi ngoài cơ thể.

Tuy nhiên, kỹ thuật này có một số biến chứng. Hướng dẫn điều trị sỏi niệu của Hội Tiết niệu châu Âu năm 2018 đề cập một tỷ lệ nhỏ các biến chứng gồm sốt, tràn khí, tràn máu, tổn thương phổi, nhiễm trùng huyết, tổn thương nội tạng, thuyên tắc mạch, rò nước tiểu, tử vong.

Sách Campbell-Walsh-Wein Urology phiên bản năm 2020, được xem là sách giáo khoa "gối đầu giường" của các bác sĩ tiết niệu thế giới, nêu: "Ngay cả đối với bác sĩ tiết niệu có kinh nghiệm nhất, các biến chứng có thể xảy ra sau phẫu thuật lấy sỏi qua da, với các biến chứng lớn 7% và các biến chứng nhỏ có thể đến 25%". Tuy nhiên tất cả những biến chứng này đều có tỷ lệ thấp hơn mổ mở.

Tỷ lệ sạch sỏi của tán sỏi thận qua da lên đến 90%, tùy mức độ kinh nghiệm của bác sĩ, đặc tính của sỏi và thiết bị được sử dụng. Các nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong tán sạch sỏi là không tiếp cận được các đài thận chứa các viên sỏi, hình ảnh phẫu trường khó quan sát rõ do máu che mờ, kỹ thuật và thành phần sỏi.

Lê Phương

“An tử luôn là tội ác chống lại sự sống

“An  tử  luôn  là  tội  ác  chống  lại  sự sống.  

Không  thể  chữa  được  không  có  nghĩa  là  chấm  dứt  chăm  sóc”

Vatican News-Ngày 22/09/2020




 Chủ đề an tử Từ khóa trợ tử 

“An tử luôn là tội ác chống lại sự sống. Không thể chữa được không có nghĩa là chấm dứt chăm sóc”

“Samaritanus bonus” – Người Samaria nhân hậu, thư của Bộ Giáo lý Đức tin được Đức Thánh Cha phê chuẩn, tái lên án mọi hình thức “an tử” và “trợ tử”, và kêu gọi hỗ trợ các gia đình và các nhân viên y tế.

“Không thể chữa được không bao giờ đồng nghĩa với không thể chăm sóc”: người bị bệnh nan y cũng như người chào đời được dự báo khó có thể sống sót đều có quyền được chào đón, chăm sóc, yêu thương. Giáo hội phản đối việc cố trị liệu khi không còn hy vọng, nhưng nhắc lại như một "giáo huấn chắc chắn" rằng "an tử là một tội ác chống lại sự sống con người"; "bất kỳ sự hợp tác trực tiếp nào vào việc thực hành an tử đều là một tội trọng" mà không một cơ quan có thẩm quyền nào "có thể áp đặt hoặc cho phép một cách hợp pháp".

Đó là những điều được nói đến trong tài liệu Người Samari nhân hậu, thư của Bộ Giáo lý Đức tin về "về việc chăm sóc những người bệnh nặng và ở giai đoạn cuối đời", được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn vào tháng 6 vừa qua và được công bố ngày 22 tháng 9 năm 2020.

 

Tính thời sự của văn kiện “người Samaria nhân hậu”

 Tài liệu tái khẳng định lập trường đã được Giáo hội nhiều lần trình bày về chủ đề này; nó cần thiết vì càng ngày càng có nhiều tin tức thời sự về vấn đề trợ tử và vì sự mở rộng của luật pháp, ngày càng nhiều quốc gia cho phép áp dụng an tử và trợ tử cho  những người bị bệnh nặng và cho cả những người đơn độc hoặc có vấn đề về tâm lý. Mục đích của lá thư là cung cấp những chỉ dẫn cụ thể để thực hiện sứ điệp của Người Samari nhân hậu. Ngay cả khi "việc chữa lành bệnh là không thể hoặc không thể xảy ra, thì việc đồng hành về mặt chăm sóc y tế, tâm lý và tâm linh là một nghĩa vụ không thể chối bỏ, vì làm ngược lại sẽ là hành động bỏ rơi người bệnh một cách vô nhân đạo".

 

Không thể chữa lành nhưng không bao giờ không thể chăm sóc

“Hãy chữa lành nếu có thể, hãy luôn chăm sóc”. Những lời này của Đức Gioan Phaolô II giải thích rằng không thể chữa lành không bao giờ đồng nghĩa với không thể chăm sóc. Chăm sóc cho đến cùng, "ở bên" bệnh nhân, đồng hành với họ bằng cách lắng nghe họ, giúp cho họ cảm thấy được yêu thương và quý mến, là những gì có thể tránh được sự cô đơn, sợ hãi, đau khổ và cái chết, và hậu quả là tuyệt vọng: đó là những yếu tố mà ngày nay là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến yêu cầu an tử hoặc trợ tử. Đồng thời tài liệu nhấn mạnh rằng "có nhiều vụ lạm dụng được chính các bác sĩ tố cáo rằng đã lấy đi mạng sống của những người không bao giờ muốn áp dụng an tử cho chính họ". Toàn bộ tài liệu tập trung vào ý nghĩa của đau đớn và đau khổ dưới ánh sáng của Phúc Âm và sự hy sinh của Chúa Giê-su: "Người ta chỉ có thể chịu được đau khổ trong cuộc sống khi có hy vọng" và hy vọng mà Chúa Ki-tô ban cho người đau khổ chính là "sự hiện diện gần gũi thực sự của Người". Chăm sóc giảm đau sẽ không đủ "nếu không có ai 'ở' bên cạnh bệnh nhân và chứng tỏ cho họ thấy giá trị độc nhất vô nhị của họ".

 

Giá trị bất khả xâm phạm của sự sống

Thư của Bộ Giáo lý Đức tin khẳng định: "Giá trị bất khả xâm phạm của sự sống là một chân lý cơ bản của quy luật đạo đức tự nhiên và là nền tảng thiết yếu của trật tự pháp lý”. "Giống như không thể chấp nhận người khác là nô lệ của chúng ta, ngay cả khi họ yêu cầu chúng ta, thì người ta cũng không thể trực tiếp lựa chọn tấn công sự sống của một con người, ngay cả khi họ yêu cầu". Giết chết một bệnh nhân yêu cầu được chết không có nghĩa là "công nhận quyền và đánh giá cao sự tự chủ của họ", nhưng trái lại, nó có nghĩa là "xem thường giá trị của tự do, bị điều kiện hóa mạnh mẽ bởi bệnh tật và đau đớn, và giá trị sự sống của họ". Khi làm như vậy, "người ta thay Chúa quyết định giờ phút của cái chết". Vì lý do này, "việc phá thai, cố ý trợ tử và tự sát đầu độc nền văn minh nhân loại, làm cho những người thực hiện những việc này bị thiệt hại nhiều hơn cả những người chịu những hành động này. Hơn nữa chúng là một sự từ chối tuyệt đối Đấng Tạo Hóa".

 

Những trở ngại làm lưu mờ giá trị thánh thiêng của sự sống

 Tài liệu đề cập đến một số yếu tố làm hạn chế khả năng hiểu được giá trị sự sống. Đầu tiên là việc sử dụng một cách phiến diện khái niệm "cái chết xứng đáng" khi liên kết nó với "chất lượng cuộc sống", với quan điểm nhân học thực dụng. Sự sống được coi là "xứng đáng" chỉ khi có một số đặc điểm tâm lý hoặc thể lý. Một trở ngại thứ hai là sự hiểu sai về "lòng trắc ẩn". Lòng nhân ái đích thực của con người "không bao gồm việc gây ra cái chết nhưng ở việc chào đón người bệnh, nâng đỡ họ" bằng cách đem đến cho họ tình cảm và phương tiện để giảm bớt đau khổ của họ. Một trở ngại khác nữa đó là sự gia tăng của chủ nghĩa cá nhân, gốc rễ của "căn bệnh tiềm ẩn nhất của thời đại chúng ta: sự cô đơn". Đứng trước các luật lệ cho phép an tử, "đôi khi nảy sinh những tình trạng tiến thoái lưỡng nan liên quan đến đặc tính luân lý của các hành vi đó, trong thực tế, đó không chỉ là những hành vi cần có để chăm sóc người bệnh, chẳng hạn như tiếp nước và cho người bệnh ăn trong tình trạng hôn mê không có triển vọng hồi phục".

 

Huấn quyền của Giáo hội

Đối mặt với sự phổ biến của các phác đồ y tế về giai đoạn cuối của cuộc sống, "sự lạm dụng quan điểm về an tử đang bị tố cáo rộng rãi hiện nay" mà không hỏi ý kiến ​​bệnh nhân hoặc gia đình gây nên lo ngại. Vì lý do này, tài liệu tái khẳng định như một giáo huấn quyết định rằng "an tử là một tội ác chống lại sự sống con người", một hành vi "tự bản chất là xấu xa trong bất kỳ trường hợp và hoàn cảnh nào". Do đó, bất kỳ sự hợp tác trực tiếp nào cũng đều là tội trọng chống lại sự sống con người mà không có thẩm quyền nào "có thể áp đặt hoặc cho phép một cách hợp pháp". Do đó, "những người phê chuẩn luật về an tử và trợ tử là đồng lõa với tội trọng" và "phạm tội gây xi-căng-đan vì những luật này góp phần làm biến dạng lương tâm, thậm chí của các tín hữu". Do đó, giúp đỡ tự tử là "một sự hợp tác thái quá vào một hành động bất hợp pháp". Việc áp dụng an tử vẫn không thể được chấp nhận ngay cả khi sự tuyệt vọng hoặc đau khổ có thể giảm nhẹ và thậm chí không quy trách nhiệm cá nhân cho người yêu cầu nó. "Do đó, đây luôn là một lựa chọn sai lầm" và các nhân viên y tế không bao giờ có thể cộng tác "thực hiện bất kỳ hành động an tử nào dù đương sự yêu cầu, huống chi là người thân của họ". Do đó các luật hợp pháp hóa an tử là không đúng. Những lời cầu xin của những bệnh nhân bệnh nặng cầu xin cái chết "không được" hiểu là một "biểu hiện của một ý muốn thực sự muốn chết" mà là một lời cầu xin giúp đỡ và tình thương.

 

Không “cố” điều trị

Tài liệu giải thích rằng "bảo vệ phẩm giá của cái chết có nghĩa là loại trừ sự dự đoán về cái chết cũng như sự trì hoãn nó bằng cái gọi là ngoan cố điều trị", được thực hiện bởi phương tiện y học hiện đại, có thể "trì hoãn cái chết một cách nhân tạo, mà trong một số trường hợp bệnh nhân không nhận được một lợi ích thực sự ". Và do đó, trước một cái chết không thể tránh khỏi, "việc quyết định từ bỏ các phương pháp điều trị chỉ giúp kéo dài tuổi thọ một cách bấp bênh và đau đớn là điều chính đáng", nhưng không dừng những chăm sóc bình thường mà bệnh nhân phải được có. Do đó, việc từ bỏ các phương tiện đặc biệt và không cân xứng là thể hiện sự chấp nhận thân phận con người khi đối mặt với cái chết. Nhưng cung cấp thức ăn và nước uống phải được đảm bảo hợp lý bởi vì "sự chăm sóc cơ bản một người phải nhận được là cung cấp thực phẩm và chất lỏng cần thiết". Điều quan trọng là các giai đoạn dành riêng cho chăm sóc giảm đau, "một công cụ quý giá và không thể thiếu" để đồng hành cùng bệnh nhân: việc áp dụng các phương pháp điều trị này làm giảm đáng kể số người yêu cầu an tử. Trong số các dịch vụ chăm sóc giảm đau, không bao giờ có thể bao gồm khả năng an tử hoặc trợ tử; tài liệu cũng bao gồm sự hỗ trợ tinh thần cho người bệnh và gia đình của họ.

 

Giúp đỡ gia đình

Trong điều trị, cần để bệnh nhân không cảm thấy mình là gánh nặng, nhưng để họ "có sự gần gũi và yêu thương của những người thân yêu của mình. Trong nhiệm vụ này, gia đình cần sự giúp đỡ và phương tiện đầy đủ”. Do đó, điều cần thiết là các quốc gia “thừa nhận chức năng xã hội cơ bản và nền tảng của gia đình và vai trò không thể thay thế của nó trong lĩnh vực này, bằng cách cung cấp các nguồn lực và cấu trúc cần thiết để hỗ trợ nó”.

 

Chăm sóc trước khi sinh và nhi khoa

Ngay từ khi được thụ thai, những đứa trẻ bị dị tật hay bất cứ dạng bệnh lý nào "là những bệnh nhi nhỏ bé mà y học ngày nay luôn có thể hỗ trợ và đồng hành theo cách trân trọng sự sống." Lá thư giải thích rằng "trong trường hợp mắc các bệnh lý trước khi sinh mà chắc chắn sẽ dẫn đến tử vong trong một thời gian ngắn - và trong trường hợp không có các liệu pháp có khả năng cải thiện tình trạng sức khỏe của những đứa trẻ này, thì chúng không nên bị bỏ rơi không được trợ giúp, nhưng chúng phải được đồng hành cho đến khi chết tự nhiên” mà không bị ngừng cung cấp dinh dưỡng và nước. Những từ này cũng có thể được dùng để chỉ một số tin tức thời sự gần đây. Tài liệu cũng lên án việc sử dụng "việc chẩn đoán trước khi sinh, đôi khi gây ám ảnh" và nền văn hóa thù địch với tình trạng khuyết tật thường dẫn đến việc lựa chọn phá thai, điều vốn "không bao giờ là hợp pháp".

 

Đưa vào hôn mê sâu

Để giảm đau cho người bệnh, liệu pháp giảm đau sử dụng các loại thuốc có thể gây mất ý thức. Giáo hội "khẳng định tính hợp pháp của thuốc an thần như là một phần của phương pháp điều trị dành cho bệnh nhân, để những giây phút cuối đời có thể đến trong sự bình an nhất có thể". Điều này cũng đúng trong trường hợp các phương pháp điều trị "đưa người bệnh đến gần với giờ chết (dùng thuốc an thần giảm đau đưa vào hôn mê sâu trong giai đoạn cuối), luôn luôn, trong mức độ có thể, với sự đồng ý của bệnh nhân". Nhưng thuốc an thần không thể được chấp nhận nếu nó được sử dụng để gây ra "cái chết trực tiếp và cố ý".

 

Trạng thái thực vật hoặc có ý thức tối thiểu

"Suy nghĩ cho rằng những người còn tự thở nhưng không còn ý thức là dấu hiệu cho thấy họ không còn là một con người với tất cả phẩm giá của họ" là suy nghĩ luôn luôn sai lầm. Ngay cả trong tình trạng "thiếu ý thức kéo dài, được gọi là trạng thái thực vật hoặc trạng thái ý thức tối thiểu", bệnh nhân "phải được công nhận giá trị của mình và được hỗ trợ chăm sóc đầy đủ", có quyền được cung cấp dinh dưỡng và nước. Tài liệu thừa nhận rằng ngay cả khi "trong một số trường hợp, các biện pháp này có thể trở nên không cân xứng", bởi vì chúng không còn hiệu quả hoặc do các phương tiện để thực hiện chúng tạo ra gánh nặng quá mức. Văn bản cho rằng cần phải cung cấp "hỗ trợ đầy đủ cho các thành viên trong gia đình trong việc mang gánh nặng kéo dài khi hỗ trợ người bệnh trong tình trạng thực vật".

 

Sự phản đối của lương tâm

Cuối cùng, lá thư yêu cầu lập trường rõ ràng và thống nhất từ ​​phía các Giáo hội địa phương về những vấn đề này, và mời gọi các cơ sở y tế Công giáo làm chứng tá, hạn chế các hành vi "rõ ràng là trái đạo đức". Các luật chấp thuận an tử "không tạo ra các nghĩa vụ lương tâm" nhưng "chúng gợi lên một nghĩa vụ nghiêm túc và chính xác chống lại chúng thông qua sự phản đối của lương tâm". Bác sĩ "không bao giờ chỉ là người thi hành ý muốn của bệnh nhân" nhưng luôn giữ "quyền và nghĩa vụ tự do không làm những điều trái với điều tốt lành luân lý được lương tâm nhận thấy". Mặt khác, cần nhắc lại rằng không tồn tại "quyền tự ý định đoạt tính mạng của mình, vì vậy không nhân viên y tế nào có thể là người giám hộ thực hiện một quyền không tồn tại". Điều quan trọng là các bác sĩ và nhân viên y tế phải được đào tạo để có sự đồng hành Ki-tô giáo đối với người hấp hối, như các sự kiện kịch tính gần đây liên quan đến dịch Covid-19 đã cho thấy. Đối với những người yêu cầu an tử, sự đồng hành thiêng liêng và bí tích "cần là một sự gần gũi luôn luôn mời gọi hoán cải", nhưng "không được có cử chỉ bên ngoài nào có thể bị hiểu là đồng thuận với an tử, ví dụ như ở lại, hiện diện trong giây phút trợ tử được thực hiện. Sự hiện diện này chỉ có thể được hiểu là sự đồng lõa”.

 

Nguồn: Vatican News