Sep 20, 2020 - Chúa nhật 25 thường niên năm A
Chân lý của Kito giáo
https://canhdongtruyengiao.net/loi-chua/chua-nhat-25-thuong-nien-a-thanh-vinh-dap-ca.html
Các Bạn thân mến,
Ngày nay chúng ta không
còn lạ gì cảnh thất nghiệp, cảnh phải làm việc không đúng khả năng, cảnh phải
lãnh lương không phù hợp...có người đổ lỗi cho tại vì văn minh khoa học kỹ thuật
phát triển!? Hiển nhiên vấn đề thất nghiệp không đơn giản, không thể dễ dàng
qui lỗi cho con người, khoa học hay xã hội...Chi biết rằng gần như các nước
trên thế giới đang vướng dần vào tình trạng kinh tế trì trệ, khó khăn, người ta
gọi là “suy thoái kinh tế toàn cầu”. Nên vấn đề việc làm trở nên bức xúc
với mọi tầng lớp xã hội. Không có việc làm giữa một xã hội được trang bị, cung
cấp nhiều thành qủa của nền văn minh tiên tiến hẳn ảnh hưởng nặng nề, tồi tệ đến
mọi vấn đề, mọi khía cạnh, mọi sinh hoạt. Nhiều bạn trẻ học hành bằng cấp
chuyên môn hẳn hoi nhưng cũng không kiếm được việc làm tương xứng. Tình trạng
đó làm nhiều người thất nghiệp mỏi mệt, mất niềm tin. Nhiều người phải chấp nhận
làm công việc khác, không phù hợp, không đúng chuyên môn, khả năng, thậm chí
còn thấp kém, với đồng lương bất xứng. Thật là phí phạm sức lao động trí óc
cùng chân tay, uổng công đào tạo, rèn luyện… ảnh hưởng không nhỏ đến ý chí con
người và tương lai đất nước!
Nhưng nếu người thất nghiệp
chờ đợi mãi mà giờ chót lại được thu nhận để làm việc mà lại được trả lương
cao, thi họ sẽ vui sướng biết chừng nào?! Không những họ, mà còn cả gia đình họ
đều biết ơn ông chủ quảng đại, đã thông cảm nỗi khổ tâm gần như tuyệt vọng của
họ.
Tin Mừng hôm nay Đức
Giêsu ví Nước Trời giống như câu chuyện một ông chủ vườn nho đi tìm
người làm vườn nho cho mình, và ông cũng đã thâu nhận tất cả những ai muốn
làm việc như vậy: khi đến mùa thu hoạch, vừa tảng sáng ông chủ đã ra mướn thợ
làm việc cho mình, rồi giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, và cả giờ thứ mười
một, ông cũng trở ra tìm người làm vườn nho.
Khi trả lương, chủ vườn nho lại trả cho
mỗi người đều bằng nhau là một quan tiền. Những người thợ làm việc
từ sáng sớm cằn nhằn vì chủ đã trả cho người vào làm sau cũng được
ngang bằng với họ. Đang khi họ đã phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả
ngày.
Ông chủ cho biết ông
không bất công khi trả lương sòng phẳng theo thỏa thuận ban đầu là một
đồng. Còn việc ông trả cho người sau bằng người đầu là do lòng nhân
hậu của ông. Rõ ràng ông không sai hợp đồng, đã thực hiện công bằng và cũng
thực hiện lòng tốt của ông. Cảnh như tưởng tượng này lại là câu chuyện thường xẩy
ra ở xứ Palestin. Nơi mà sau mùa thu hoạch nho là tới mùa mưa ngay. Nếu không kịp
trước mùa mưa thì nho sẽ bị hư hại; vì vậy người ta phải chạy đua với thời gian
để kịp thu hoạch. Nên bất cứ người nào muốn làm việc cũng được thu nhận dù người
đó chỉ có thể làm được một giờ.
Tiền công phần lớn là do
thỏa thuận. Ở Palestin, chợ là nơi trao đổi lao động. Tất cả những người làm
thuê, lao động thấp, hay những ai muốn làm việc, đều đến đó từ sáng sớm với dụng
cụ lao động của mình và chờ ở đấy cho tới khi có người đến mướn làm việc. Có
khi họ phải chờ đến năm, sáu giờ chiều, chứng tỏ họ muốn và cần làm việc như thế
nào. Những người này hoàn toàn sống nhờ lòng thương xót và dựa vào cơ hội làm
việc. Nên họ luôn sống trong de dọa bị đói khát nếu một ngày thất nghiệp, vì đối
với họ, thất nghiệp là một tai họa, bởi lương công nhật của họ chỉ có một đồng,
nên chẳng ai có thể để dành số tiền đó trong một ngày.
Đây là một dụ ngôn rực rỡ chứa đựng một chân lý
chính yếu của Kito giáo, mặc dù lần đầu nghe có vẻ như chỉ có thể áp dụng giới
hạn.
Cũng vậy, sau này
Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho mọi người gia nhập vào Hội Thánh, vào
Nước Trời. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ ban đầu,
đều được hưởng ơn cứu độ như nhau, miễn là có đức tin.
Đức Giêsu còn dạy chúng
ta đừng quá tự hào về bản thân mình. Mà hãy đổi mới cái nhìn về
người khác, để ngày càng thêm lòng tôn trọng tha nhân, phá bỏ hàng
rào ngăn cách như sự ganh ghét ích kỷ, đố kỵ và sự trả thù ti tiện.
Để chúng ta có thể sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người làm vào
lúc cuối ngày, những người hàng xóm sống ngay bên cạnh, vì chúng ta
nhận ra họ không phải là đối thủ, nhưng là anh em của chúng ta.
Dụ ngôn như:
1. Lời cảnh cáo
cho các môn đệ:
- Trong mọi khía cạnh, dụ ngôn như lời cảnh cáo
các môn đệ, là những người đã được Đức Giesu mời gọi từ sáng sớm để di làm vườn
nho cho Ngài, hiển nhiên họ đã vất vả, khó nhọc chịu đựng rất nhiều, hơn hết mọi
người trong nhóm thợ.
- Nhưng
Đức Giesu nói với họ rằng dù là người đến với Ngài ngay từ ban đầu, đã vất vả
và nhận được nhiều đặc ân... Nhưng không vì thế mà đòi hỏi một vinh dự, một địa
vị đặc biệt hơn những người sẽ gia nhập Hội Thánh sau này.
- Bởi tất cả mọi người, không phân biệt thời
gian thâm niên...đều qúi như nhau và đều có gía trị đối với Thiên Chúa. Vì
trong Hội Thánh của Ngài, thâm niên không hẳn là vinh dự.
- Cảnh báo với những đầy tớ từ sáng sớm, vẫn
phải biết cộng tác với Thiên Chúa, mời gọi nhiều người vào làm vườn
nho. Biết chung vui với Ngài khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân
về làm con cái Ngài, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với mình.
- Đức Giêsu mời gọi họ phải có cái nhìn đứng
đắn về Thiên Chúa: Ngài là Đấng công bình, nhưng không cứng ngắc trong
khuôn khổ lề luật. Ngài hoàn toàn tự do trong tình yêu thương. Ngài
giàu lòng từ bi nhân ái và luôn tìm dịp để trao ban ân sủng cho mọi
người.
- Thiên Chúa dã chứng tỏ Ngài là Chúa của
kẻ trộm lành biết sám hối, là chủ của người thợ đi làm trễ vào
giờ thứ mười một, và Ngài cũng là cha đầy lòng từ bi nhân hậu của đứa
con hoang đàng, cùng như của người con cả…
2. Lời cảnh cáo
đối với người Do Thái:
- Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, các kinh sư
và người Pharisêu cùng có thái độ bất mãn khi thấy Ngài đối xử thân
tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi.
- Người như vị mục tử tốt lành: đi tìm
từng con chiên lạc, đem lại cho những người bất hạnh niềm vui và hạnh
phúc. Mời gọi họ sám hối và hứa sẽ ban Nước Trời cho họ.
- Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng
hạnh phúc ngang với các kinh sư và những người Pharisêu. Những người
này vốn tuân giữ từng điều khoản dù nhỏ nhặt của luật Môsê, nên tự
coi mình là công chính.
- Trước thái độ nhân
từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giêsu, các đầu mục Do
Thái này đã tỏ thái độ ganh ghét vì nghĩ rằng mình đã không được
tôn trọng.
- Mọi người Do Thái đều biết rõ ràng và không
bao giờ quên họ là dân được tuyển chọn riêng của Thiên Chúa.
- Điều đó là nguyên nhân để phát sinh tính kiêu
ngạo, căm ghét người ngoại bang, và còn mong muốn họ bị hủy diệt.
- Người Do Thái nghĩ rằng
nếu người ngoại bang được cho là thân hữu của Hội thánh thì phải vào như những
kẻ thấp kém hơn họ.
- Nhưng trong đạo Chúa thì không thể có quan niệm
ưu đãi chủng tộc, dòng giống, thân phận...
- Thực tế đôi khi chính những người tin Chúa
lâu năm có thể học hỏi được nhiều điều nơi những tân tín hữu, những người mới
vào cộng đồng đức tin.
3. Những bài học nguyên thủy của dụ ngôn:
Ngày nay, đọc lại dụ ngôn này sau hằng ngàn
năm khi nó được viết ra, thì câu chuyện đó lại được hiểu thêm về nhiều sự dạy dỗ
khác cho chúng ta. Vì xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống này không
phải là những gì người khác nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc chăm chỉ
như thế nào trong vườn nho của Chúa. Mà là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta
và tình yêu thôi thúc chúng ta làm việc.
a) Trong dụ
ngôn có sự an ủi của Thiên Chúa:
- Dù chúng ta bước vào nước trời sớm hay muộn,
lúc mới sinh, trưởng thành hay khi tuổi tác đã xế chiều, tất cả đều được Thiên
Chúa yêu thương quan tâm như nhau.
- Chúng ta nên suy nghĩ xa về sự an ủi này:
. Một người qua đời sau những
năm tháng đầy vinh dự, người ấy đã làm xong công việc, đã hoàn thành công tác của
cuộc đời mình.
. Người khác được Chúa cất
đi khi còn rất trẻ, trước khi cánh của đời sống được mở ra.
. Đối với Thiên Chúa, cả
hai đều được Ngài hoan nghênh như nhau, và được Chúa Cứu Thế chờ đợi như nhau.
. Vì
trong cái nhìn của Thiên Chúa, không có người nào có đời sống qúa sớm hay qúa
trễ.
b) Lòng thương
xót vô bờ của Thiên Chúa: tín
hữn cần hiểu rằng:
- Không có gì bi đát buồn tủi hơn một người
không được xử dụng.
- Không có gì phí phạm khi có những nén bạc bị
bỏ không.
- Không có gì buồn bằng nghề nghiệp của mình bị
mai một.
- Không có gì lo lắng buồn thảm, bồn chồn hơn
là người đứng từ tảng sáng đến xế chiều mà không có ai thuê mướn làm việc.
- Trong dụ ngôn, chủ vườn nho đã biết rõ tâm lý
ấy, ông đã không chịu nổi khi thấy họ bị ở không, không có công việc làm, tâm
lòng ông xúc động, tình thương xót đã khiến ông phải cho họ việc làm.
- Hơn nữa, theo lẽ công bằng thì ai làm nhiều
giờ sẽ được nhiều tiền lương hơn, nhưng ông chủ lại biết rõ một đồng thì không
phải là số lượng lớn, nên không thể nào đủ sống cho một ngày.
- Vì thế nếu người làm công trở về nhà với một
đồng tiền như vậy thì vợ con họ sẽ lo lắng và có nguy cơ bị đói khát.
- Nên ông chủ đã vượt qua lẽ công bằng để trả
cho họ nhiều hơn số tiền họ đáng được. Đây là việc làm đáng được thông cảm,
hoan nghênh và trân trọng.
- Dụ ngôn còn như nêu lên hai chân lý làm mẫu mực
cho người làm công, mà mọi ngươi phải tranh đấu để bảo vệ, đó là quyền của một
số người được làm việc và quyền của một số người có số lương đủ sống theo việc
làm của họ.
c) Lòng đại lượng
của Thiên Chúa:
Ở đây, những người thợ
này không làm việc như nhau, nhưng được trả tiền lương bằng nhau, cho chúng ta
những bài học lớn:
* Thứ nhất:
. Mọi công việc đối với
Thiên Chúa đều bằng nhau.
. Không phải ở số lượng
công việc làm, nhưng ở tình yêu thúc đẩy và tinh thần, động cơ làm công việc ấy.
. Như một đồng tiền của bà
góa có gía trị hơn nửa gia tài của người biệt phái trong Tin Mừng.
. Bao lâu chúng ta còn làm
công việc, đều được xếp như nhau trước mặt Thiên Chúa.
* Thứ hai:
. Tất cả mọi sự Chúa ban
cho chúng ta là bởi ân sủng của Ngài.
. Không ai có thể làm ra những điều Chúa ban.
Cũng không ai xứng đáng với ân sủng đó.
. Tất cả những gì Chúa ban không phải để trả
công, nhưng là qùa tặng cho chúng ta, không phải là phần thưởng, mà là ân sủng,
“tất cả đều là hồng ân”.
d) Bài hoc:
- Điểm chính yếu của sự làm việc là tinh thần
làm việc.
- Những người làm công thỏa thuận với chủ, thì
họ có một hợp đồng làm việc. Họ làm việc vì tiền lương, vì kiếm tiền, càng nhiều
càng tốt.
- Còn những người đến sau, không có một giao
kèo hay thỏa thuận nào. Điều đó chứng tỏ họ muốn làm việc, họ sẵn sàng để cho
chủ định đọat tiền lương, phần thưởng cho họ.
- Đó là điểm khác biệt căn bản giữa người làm
việc chỉ nghĩ đến tiền công và người làm việc vì là tín hữu của Đức Kito.
- Vì thế, chúng ta cần có thái độ làm việc vì
niềm vui của sự làm việc và niềm vui của sự phục vụ Chúa và anh em.
- Đây là lý do để kẻ đầu trở nên cuối và kẻ cuối
trở nên đứng đầu!
- Và đây cũng là điều trái ngược của đời sống
tín hữu là kẻ nào nhắm vào phần thưởng thì sẽ mất phần thưởng, còn kẻ nào không
quan tâm đến phần thuong thi sẽ được phần thưởng lớn lao.
Lạy Chúa, Chúa đã ban thời
gian, công việc cho chúng con, và cho chúng con có ngày, tháng, năm mới với những
việc làm mới.
Xin giúp
chúng con biết dùng thời giờ, công việc cách khôn ngoan, hầu chúng con biết làm
việc với tất cả khả năng và vì Chúa cùng anh em để mỗi buổi chiều tối, chúng
con không bỏ dở dang một công việc nào, không làm việc nào cẩu thả, sai lầm...
Xin cho
trái tim chúng con nên giống trái tim nhân hậu bao dung của Chúa, để chúng
con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả thù ti tiện hầu tâm
hồn chúng con luôn được bình an. Vì Đức Giesu Kito Chuá chúng con. Amen.
Than men,
duyeky
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét