Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

SỰ THĂNG TRẦM CỦA TUỔI GIÀ

SỰ  THĂNG  TRẦM  CỦA  TUỔI  GIÀ
 (Bác sĩ Nguyễn Ý Đức - CDVN)



Ước vọng sống lâu đã là điều mong muốn của con người từ ngàn xưa. Nó đứng trên cả tiền tài, danh vọng, đông con nhiều cháu. Chả thế mà thứ dân khi gặp nhau thì trang trọng chúc bách niên giai lão là thỏa mãn rồi. Còn vị quyền cao phủ chùm đất nước thì không bằng lòng với bách niên, mà đòi dân đen phải tung hô vạn tuế! vạn tuế ! hoặc muôn năm! muôn năm!
Nhưng trăm người trăm ý, cho nên Á Đông ta có quan niệm “đa thọ, đa nhục”. Chateaubriand ví tuổi già như con tầu đắm.
Horace than phiền: tuổi già buồn nản đang đến, giã từ những nụ cười vui, những tình yêu nồng nàn và những giấc ngủ an lành.
Còn Hippocrate thì so sánh tuổi với bốn mùa mà già là mùa đông băng giá.
Có lẽ là khi về già, con người, giống như mọi sinh vật khác, đều chịu những thay đổi về cấu tạo, về chức năng, đưa tới đau yếu, bệnh hoạn, mất sinh lực và ý chí. Vì vậy, người già cho rằng sống lâu mà suy yếu, thiếu thốn, chẳng qua cũng chỉ như cây tầm gửi, là gánh nặng cho gia đình và xã hội rồi chuốc cái nhục vào thân.
Rõ thực là:
“Khi vui thì muốn sống lâu,
Khi buồn lại muốn thác mau cho rồi”.
Nhân dịp tuổi thọ sắp tăng thêm một đơn vị, chẳng biết mình nên buồn hay nên vui. Thôi thì để biết người, biết mình, chúng tôi xin cùng quý vị ôn lại vài nét thăng trầm tuổi thọ của con người, lướt qua một phần phong tục tập quán của vài thời đại đã qua.

Người Già Việt Nam
Phong tục Việt Nam vốn trọng người già. Ta thường có câu nói:
“Triều đình thượng tước, Hương đảng thượng xỉ”
có ý nói là ở nơi triều đình thì chức tước cao được ngồi trên, còn tại chốn đình trung hương đảng thì người cao tuổi được coi trọng hơn. Vì được quý trọng nên dân ta đã có nhiều tục lệ tốt đối với người già.
Trong gia đình, Tết đến, con cháu tụ họp trước là để cúng bái gia tiên, sau là chúc tuổi thọ ông bà cha mẹ.Tăng thêm một tuổi là thêm thọ, một điều mà ai cũng mừng, cũng nhắc nhở chờ đợi:
“ Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm” Anh Thơ.
Trẻ con cũng sốt ruột chờ đợi để được mừng tuổi, bằng tiền mặt phong bao, bằng những lời khen tặng hay ăn, chóng lớn.
Ngoài xã hội, nhất là nơi thôn ấp, các vị cao niên từ 50 tuổi trở lên thì được xếp vào hạng bô lão, trên cả các hương chức quyền thế tại địa phương.
Trong số bô lão, cụ nào cao tuổi hơn cả thì được tôn vinh là các Cụ Thượng, thường là trên 80.
Tuổi 40 được mở tiệc tứ tuần đại khánh; 60 tuổi trở lên thì các cụ đã ăn mừng thọ, từ tiểu thọ, trung thọ rồi đại thọ ở tuổi ngoài 80.
Vì quan niệm tuổi thọ là tuổi Trời ban cho, nên các vị cao tuổi đều được kính trọng.
Ra đường, gặp người già là mọi người phải cúi đầu chào hỏi cho lễ phép, phải nhường bước, phải nhường chỗ ngồi, phải đứng lên khi bô lão xuất hiện, không được ngắt lời bô lão khi thảo luận. Chương trình giáo dục từ lớp Đồng Ấu đã có những bài học Luân Lý chỉ dậy học trò cung cách đối xử với người lớn tuổi.
Trong làng xã thì có những tục rước lão, tiệc yến lão. Người già mặc quần áo đẹp, con cháu ôm cơi trầu, điếu ống theo hầu, được dân làng mang cờ quạt, võng cáng với trống chiêng tới đón mời lên Đình để hương chức và dân chúng chiêm ngưỡng, chúc tụng rồi dự yến tiệc. Mà yến tiệc thì các cụ chỉ dùng một ít, còn lại lấy phần về chia cho người trong tộc họ, hàng xóm để cùng hưởng lộc nhân dân.
Các cụ Ông cụ Bà đều được rước đón, nhưng tại nhiều địa phương, cụ bà không tham dự vì các cụ vẫn theo lời dậy từ ngàn xưa là đàn bà con gái không dính líu vào việc làng, việc nước. Các bà mẹ Việt Nam bao giờ cũng khéo lo xa.
Ngoài ra các cụ còn được làng xã dành cho một số quyền lợi về công điền, địa thổ, được miễn trừ hết sưu dịch. Quan niệm “ kính già , già để tuổi cho ” rất phổ biến. Vả lại, kính lão đắc thọ, mọi người cũng mong là khi mình đạt tới tuổi thọ đó sẽ được hưởng những vinh dự tương tự.
Cũng như người Trung Hoa, xã hội ta vẫn coi gia đình là một đơn vị nền tảng với tôn ti trật tự rõ rệt.
Chủ gia đình là người cao tuổi nhất, có toàn quyền quyết định về mọi sinh hoạt của thành viên. Con phải tuân theo lời bố, vợ phục tùng chồng, em phải nghe lời anh, và nàng dâu mới về là người chịu nhiều thiệt thòi, hành hạ từ nhà chồng. Nhưng khi đã tới tuổi cao thì uy quyền của bà ta cũng tăng đối với con cháu và có cơ hội hành hạ nàng dâu như bà đã từng bị đối xử khắt khe khi xưa.
Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do người cao tuổi sắp đặt: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Khi bố mẹ thất lộc thì người trai trưởng nắm quyền hành: quyền huynh thế phụ.
Nhờ con cái thấm nhuần tư tưởng
“ Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chẩy ra”,
Cho nên người già Việt Nam đều sống với gia đình và được thân nhân chăm sóc, phụng dưỡng cho tơí khi mãn phần. Chỉ khi nào vì quá nghèo lại không có thân nhân thì họ mới phải vào trong các nhà dưỡng lão do chính quyền hay các hội từ thiện tư nhân tài trợ.

Hiện Trạng Người Già
Trong thế kỷ vừa qua, vấn đề người già đã là mối ưu tư lớn của mọi người. Sự gia tăng dân số kèm theo nhiều khó khăn của lớp người này trên thế giới đã được các quốc gia và tổ chức Liên Hiệp Quốc đặc biệt lưu tâm tìm biện pháp giải quyết giúp đỡ. Số người trên 60 tuổi đã mau chóng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dân cư trên thế giới, mà nhóm người trên 80 tuổi lại tăng lên mau nhất. Điều đáng ngại là sự gia tăng này lại xẩy ra nhiều hơn ở các quốc gia đang mở mang, chưa đủ phương tiện ứng phó.
Hiên nay số người cao tuổi trên toàn thế giới là gần sáu trăm triệu. Tới năm 2020, số này ước lượng có thể sẽ tăng lên một tỷ. Lý do sự gia tăng này gồm có việc giảm số tử vong do các bệnh truyền nhiễm, cải thiện điều kiện vệ sinh, dinh dưỡng, nhà ở, các phương pháp phòng ngừa bệnh, khám phá ra thuốc kháng sinh. Sự gia tăng tuổi thọ là dấu hiệu của sự tiến bộ cũng như sự hoàn tất sinh học quan trọng trong thế kỷ 20.
Người cao tuổi phải được coi như một nguồn lợi quý giá chứ không phải là gánh nặng cho xã hội, vì họ sẽ còn đóng góp nhiều cho đất nước bằng những kiến thức, kinh nghiệm của họ. Căn cứ trên quan niệm đó, Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi toàn thế giới lưu tâm tới những khó khăn đang ám ảnh người cao tuổi, đồng thời cũng đề nghị nhiều chương trình để bảo đảm sự an toàn về kinh tế, xã hội của khối người quan trọng và cần thiết này, cũng như tạo cơ hội cho họ đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia.
Liên Hiệp Quốc đề nghị một số nguyên tắc để giúp đỡ người cao tuổi như: Họ phải có cơ hội được xử dụng dễ dàng về thực phẩm, nước uống, nhà ở, chăm sóc y tế, việc làm và có một đời sống an toàn; họ phải được xử dụng các dịch vụ pháp lý, các phương tiện giáo dục, văn hóa, giải trí để phát triển mọi tiềm lực; phải được sống trong vinh dự, không bị khai thác, lợi dụng và được đối xử bình đẳng.
Ngoài ra, các quốc gia cũng cần tạo môi trường thuận lợi để khích lệ dân chúng dành dụm tiền cho tuổi về già; khuyến khích mọi lứa tuổi tham dự vào các chương trình, cũng như các cơ cấu đầu não có quyền quyết định chính sách chung; tăng cường các biện pháp và cơ chế để bảo đảm là người về hưu không rơi vào tình trạng nghèo khó, vì họ đã có công đóng góp nhiều cho sự phát triển quốc gia khi trước.
Về phần mình, người cao tuổi có lẽ cũng cần hành xử làm sao để sống cuộc đời cuối với nhiều tích cực hơn.

Kết Luận
Trong một dịp luận đàm với vị Thượng Bô Lão 86 tuổi ở thành phố Houston, người viết có hỏi thăm cụ là với bí quyết gì mà cụ nom vẫn phong độ cả về thể xác lẫn tâm hồn; lại mỗi ngày vẫn lái xe đưa người này người khác đi công việc, vẫn tham dự các sinh hoạt chung, đôi khi lại còn đi múa đôi mỗi cuối tuần.
Thì cụ trả lời: “ Nào có bí quyết gì đâu. Ông cứ chịu khó về dở lại những trang sách của cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư, in cách đây nửa thế kỷ, đọc hết chương “Bổn phận đối với bổn thân” là có hết. Nào là các bài học về biết trọng linh hồn, phải quý thân thể, về vệ sinh cơ thể, gìn giữ sức khỏe, ăn uống điều độ, vận động cơ thể, tới những cách đối xử với nhân quần xã hội để sao cho có tâm thân an lạc. Nếu có thiếu họa chăng chỉ thiếu những chỉ dẫn thực tế về nhu cầu sinh lý, tình dục”
Người viết vội vàng vâng lời, tìm đọc sách Luân Lý Giáo Khoa Thư. Rồi thắc mắc: chả lẽ ngày xưa thiên hạ không có nhu cầu sinh lý. Hay là các cụ biết cả rồi, nên chẳng cần viết ra.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức



Tản mạn chuyện “hôn nhân” đồng tính: khía cạnh khoa học

Tn  mn  chuyn  “hôn  nhân”  đng  tính:  khía  cnh  khoa  hc
(Vũ Van An8/30/2015-Vietcatholic,net)







Khi phán quyết về hôn nhân đồng tính, phe đa số của chánh án Kennedy dựa vào các lý do sau đây (1) theo thống kê, sự lôi cuốn đồng tính là một nét bình thường trong tính dục con người; (2) không thể thay đổi được nó bằng các can thiệp kỹ thuật của y khoa hiện đại; và (3) thành thử nó là một điều gì đó khác hơn là một căn bệnh.

Đúng là thống kê cho thấy hiện nay tại Hoa Kỳ, số người ủng hộ hôn nhân đồng tính nhiều hơn số người phản đối nó và khuynh hướng này rất nhất quán ít nhất từ năm 2001 tới năm 2015. Theo Pew, Năm 2001, số người ủng hộ hôn nhân đồng tính chỉ có 35%, trong khi những người chống đối chiếm 57%. Nhưng năm 2015, số người ủng hộ chiếm 55% trong khi số người chống đối chiếm 39%.

Điều đáng nói là xu hướng của người Công Giáo: năm 2001, 40% người Công Giáo ủng hộ hôn nhân đồng tính, nhưng tới năm 2015, họ chiếm tới 57%, vượt quá cả tỷ lệ của cả nước nói chung, chỉ thua người Thệ Phản Da Trắng (62%) nhưng hơn hẳn người Thệ Phản Da Đen (34%) và nhất là người Thệ Phản Da Trắng Tin Lành (white evangelical protestants) (24%). Chẳng lạ gì chánh án Kennedy, tuy là người Công Giáo, nhưng đã trở thành người cầm trịch phán quyết hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.

Không ai hoài nghi tính khoa học của các con số thống kê trên, nếu chỉ xét tới khía cạnh “end product” (sản phẩm cuối cùng) của nó. Ít có người thắc mắc do đâu mà có những con số như vậy. Như trên đã nói phe đồng tính đã và đang dùng đủ mọi phương tiện để len lỏi vào những cơ phận có ảnh hưởng lớn thuộc mọi phạm vi của đời sống xã hội để nhịp nhàng lèo lái tâm thức xã hội về phía họ. Họ không ngại “mua chuộc” cả thần học, như trên đã nói, song song với các ngành học thuật khác mà mạnh nhất vẫn là khoa học.

Diễn biến khoa học
Năm 1973, Hội Tâm Thần Hoa Kỳ chính thức loại đồng tính luyến ái ra khỏi bảng liệt kê các bệnh tâm thần mà chính họ đã liệt kê đầu tiên, và do đó, mở đầu cho một chiến dịch đại thể và ồ ạt tranh đấu đòi quyền bình đẳng cho người đồng tính.

Chandler Burr, một người đồng tính, trong bài “Homosexualtity and Biology”, cho rằng việc một số người làm tình với người đồng tính đã có từ thời cổ đại. Nhưng người ta lưu ý tới các hành vi đồng tính, chứ không lưu ý tới người làm hành vi ấy. Ngay thời Trung Cổ, dù hành vi đồng tính bị coi là một tội, nhưng người làm hành vi này không bị coi như một loại người khác. Thậm chí khỏang giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 18, hành vi đồng tính còn bị coi là tội phạm nữa, nhưng người đồng tính vẫn không bị coi là một loại người bất thường.

Tâm thức trên thay đổi vào thế kỷ 19, khi ngành y khoa và nhất là ngành tâm thần coi đồng tính luyến ái là một hình thức của bệnh tâm thần. Cho tới thập niên 1940, đồng tính luyến ái vẫn được thảo luận như là một khía cạnh rối loạn nhân cách có tính tâm thần, hoang tưởng và xa lánh giao tiếp xã hội (schizoid).

Thái độ trên bắt đầu thay đổi với Alfred Kinsey. Trong phúc trình viết năm 1948 tựa là Tác Phong Tính Dục Nơi Người Phái Nam, nhà nghiên cứu tính dục này cho rằng đồng tính xẩy ra trong mọi gia đình, giai cấp, và bối cảnh giáo dục và địa dư. Nhưng chính Kinsey thì chưa có khả năng quả quyết đồng tính luyến ái không phải là một căn bệnh.

Chandler cho rằng khả năng này phải đợi tới năm 1956 với phúc trình của Evelyn Hooker đệ nạp tại Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ, mới có cơ phát triển. Nữ tâm lý gia này vốn được giáo dục để tin rằng đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần. Nhưng một ngày kia, người học trò đồng tính của cô khẩn khoản thưa với cô: “Này Evelyn, nhiệm vụ khoa học gia của cô là phải nghiên cứu những người như tôi”. Cô do dự. Nhưng rồi một khoa học gia khác khuyên cô nên làm cuộc nghiên cứu này: “anh ta nói đúng, mình đâu có biết gì về những người như anh ta”. Thế là, sau khi tìm và nhận được một cấp khoản của Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia, cô chọn 30 người đàn ông đồng tính làm đối tượng nghiên cứu và 30 người đàn ông không đồng tính làm đối tượng so sánh (controls). Tất cả những người này chưa bao giờ nhận được sự điều trị tâm thần nào.

Cô cho họ làm nhiều trắc nghiệm tâm lý, kể cả trắc nghiệm Rorschach (ink-blot) để tạo ra 60 hồ sơ tâm lý. Cô loại bỏ bất cứ dấu chỉ căn cước nào khỏi 60 hồ sơ này, rồi trao chúng cho 3 tâm lý gia nổi tiếng giải thích. Cả ba tâm lý gia này đều không nhận ra ai là đồng tính ai là dị tính. Kết quả này chứng tỏ không thể định nghĩa đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần. Chính vì thế năm 1973, Hội Tâm Thần Hoa Kỳ đã loại nó ra khỏi bảng liệt kê các bệnh tâm thần của mình (DSM: Diagnostic and Statistical Manual).

Thực ra, vấn đề không đơn giản như thế. Robert R. Reilly, tác giả cuốn “Making Gay OK: How Rationalizing Homosexual Behavior Is Changing Everything” (Ignatius Press, 2014) và là cựu giám đốc Đài VOA, cựu phụ tá đặc biệt của TT R. Reagan, thì cho rằng quyết định trên là do sự dàn dựng của các nhà tranh đấu đồng tính.

Thực thế, theo Tiến Sĩ Ronald Bayer, một bác sĩ tâm thần ủng hộ đồng tính luyến ái, và là tác giả cuốn Đồng Tính Luyến Ái và Tâm Thần Học Hoa kỳ: Đường Lối Chính Trị của Chẩn Đoán (1981), vào năm 1970, các người cổ vũ đồng tính luyến ái đã tấn công Hiệp Hội Tâm Thần lần đầu tiên khi Hiệp Hội này tổ chức hội nghị tại San Francisco. Họ cắt ngang lời các diễn giả, la ó giễu cợt các bác sĩ tâm thần nào coi đồng tính luyến ái là rối loạn tâm lý. Năm sau, nhà vận động đồng tính Frank Kameny cùng với Mặt Trận Giải Phóng Đồng Tính đã diễu hành phản đối hội nghị của APA. Tại hội nghị 1971, Kameny đã cướp micrô và thét lên: “Giới chuyên gia tâm thần là hiện thân của kẻ thù. Các nhà tâm thần đã khơi mào một cuộc chiến hủy diệt không có hồi kết chống lại chúng tôi. Các ông nên xem đây là sự tuyên chiến chống lại các ông.”

Những người đồng tính đã giả mạo giấy tờ của Hiệp Hội và tiếp cận được khu vực trưng bày của hội nghị. Họ đe dọa bất cứ ai cho rằng đồng tính luyến ái cần phải được chữa trị. Kameny đã tìm được một đồng minh trong Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ là Kent Robinson, người đã giúp ông yêu cầu loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Tại hội nghị năm 1972, những người hoạt động của phong trào đồng tính luyến ái đã được phép lập một gian trưng bày trong hội nghị với cái tên: “Đồng Tính -Tự Hào - Lành Mạnh.”

Kameny sau đó được phép trở thành một thành phần của ban hội thẩm, cùng các bác sĩ tâm thần thảo luận về đồng tính luyến ái. Việc loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách chẩn đoán bệnh là kết quả của quyền lực chính trị, sự đe dọa nhưng không phải là những khám phá khoa học. Với nhiều sức ép chính trị, một ủy ban của Hiệp Hội đã họp kín năm 1973 và biểu quyết rút đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh lý tâm thần.

Theo lời Tiến Sĩ Jeffrey Santinnover, tác giả cuốn Đồng Tính Luyến Ái và Chính Trị của Sự Thật, những người phản đối điều trên sẽ có 15 phút để phản biện. Tất nhiên họ không kịp xoay chuyển. Trong khi ấy, tổ chức Lực Lượng Những Người Đồng Tính Quốc Gia đã mua danh sách địa chỉ thư tín của các thành viên Hiệp Hội và gửi một lá thư đến các thành viên này, thúc giục họ bỏ phiếu để rút đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách rối nhiễu tâm thần. Không một thành viên nào biết được được rằng những thư tín đó được chi trả bởi nhóm cổ vũ đồng tính này.

Theo lời Satinnover, “hiện tại, càng lúc càng thấy rõ hơn quyết định của Hiệp Hội Tâm Thần năm 1973 bị thúc đẩy bởi chính trị nhiều như thế nào. Khi tham dự một hội thảo tại Anh năm 1994, tôi gặp một người, anh đã kể tôi nghe một chuyện mà anh chưa nói với ai. Anh ta đã từng sống trong giới đồng tính nhiều năm nhưng sau đó không tiếp tục nữa. Anh thuật lại tỉ mỉ rằng sau quyết định của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ năm 1973, anh ấy và người tình đồng tính cùng với một nhân vật cấp cao trong Ban Quản trị của Hiệp Hội và người tình đồng tính của nhân vật ấy đã tổ chức ăn mừng chiến thắng của họ như thế nào. Ông ta chính là một trong số những người nhân vật đồng tính được có vị trí cao trong Hiệp Hội, đã lèo lái mọi sự nhằm bảo đảm một chiến thắng bằng cách mua chuộc những nhân vật cao nhất để rồi trưng ra cho công chúng những thứ như thể chúng là một sự tìm tòi vô vị lợi vì sự thật.”

Trước hội nghị năm 1973 của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ, nhiều bác sĩ tâm thần đã cố gắng tập hợp nhau phản đối những nỗ lực của những người đồng tính luyến ái đang muốn loại hành vi tình dục đồng tính ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Đứng đầu nhóm bác sĩ này là Tiến sĩ Irving Bieber và Charles Socarides, những người đã thành lập ủy ban phản đối việc loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần.

Trong cuốn Chính Sách về Tình Dục và Lập Luận Khoa Học: Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái, Bác Sĩ Socarides cho hay “Để tuyên bố một căn bệnh ‘không phải là bệnh’, một nhóm các bác sĩ đa khoa (practitioner) đã loại nó ra khỏi danh sách các rối nhiễu tâm tính dục. Hành động này càng đáng nói hơn khi người ta xem nó như một hành động xem thường và loại bỏ một cách tùy tiện không chỉ hàng trăm báo cáo tâm thần học, phân tâm học mà còn gạt đi những nghiên cứu nghiêm túc của những nhóm bác sĩ tâm thần, các nhà tâm lý và giáo dục trong hơn 70 năm qua…”

Socarides nói tiếp: “Trong 18 năm sắp tới, quyết định này của Hiệp Hội sẽ như một con ngựa thành Troy, nó sẽ mở toang những cánh cổng để làm lan rộng những thay đổi xã hội và tâm lý trong những thói quen tập quán tình dục và hơn thế nữa. Quyết định này sẽ được sử dụng trong nhiều dịp, cho nhiều mục đích nhằm bình thường hóa chuyện đồng tính và nâng tầm nó lên đến một mức độ đáng trân trọng.

“Đối với một số nhà tâm thần học Hoa Kì, hành động loại bỏ này vẫn là một sự nhắc nhở ớn lạnh, đó là nếu người ta không chiến đấu cho những nguyên tắc mang tính khoa học thì những nguyên tắc đó sẽ bị mất đi – một lời cảnh tỉnh: nếu người ta không chấp nhận những ngoại lệ đối với khoa học, chúng ta sẽ trở thành cái bẫy của óc bè phái chính trị và là phương tiện truyền bá những điều dối trá cho đám đông quần chúng cả tin, thiếu thông tin, cho cả ngành y và khoa học nghiên cứu hành vi”.

Thua keo này bày keo khác

Việc Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ bị vạch mặt như trên không làm nản lòng những người tranh đấu cho đồng tính. Họ quay qua các lãnh vực khác, các lãnh vực mà họ tin là sẽ đủ mạnh để đánh gục lý chứng những người chống đối đồng tính luyến ái.

Mà dù kết luận của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ có dựa trên khoa học đi chăng nữa, thì theo Chandler Burr, nó vẫn chỉ cho người ta thấy đồng tính luyến ái không là gì mà thôi, chứ chưa cho biết nó là cái gì và nhất là do đâu mà có. Căn bệnh học (etiology) vì thế chắc chắn phải nhờ sinh học thần kinh (neurobiology). Câu hỏi là: về phương diện sinh học, người đồng tính và người dị tính có khác nhau hay không?

Trước khi trả lời câu hỏi trên, các nhà sinh học muốn trước nhất trả lời câu hỏi có liên hệ: về phương diện thần kinh học, đàn ông khác đàn bà như thế nào?

Năm 1959, tại ĐH California ở Los Angeles, nhà thần kinh và nội tiết học (neuroendocrinologist) Charles Barraclough thấy rằng nếu một con chuột cái ngay trước hoặc sau khi sinh được chích testosterone, tức kích thích tố sinh dục nam, thì con chuột cái này mãi mãi vô sinh vì mất khả năng rụng trứng. Ngược lại, năm 1965, tại ĐH Oxford, nhà thần kinh và nội tiết học Geoffrey Harris khám phá thấy rằng nếu chích estrogen (kích thích tố sinh dục nữ) cho một con chuột đực đã lớn nhưng bị bị lấy mất testosterone từ trước, thì con chuột này có hiện tượng trải qua diễn trình rụng trứng như một con chuột cái bình thường.

Nghiên cứu thêm, Harris nhận ra một bất cân xứng: một con chuột đực mới sinh bị lấy mất testosterone sẽ có hiện tượng rụng trứng như con chuột cái, nhưng một con chuột cái mới sinh bị mất estrogen vẫn tiếp tục phát triển như con chuột cái: dù buồng trứng đã bị cắt bỏ, óc của nó vẫn sản sinh kích thích tố để rụng trứng. Thành thử, các khoa học gia hiểu ra rằng không có testosterone, thiết kế di truyền nam tính vô giá trị. Thực vậy, để óc con chuột đực được tổ chức thực sự như con đực, nó phải có testosterone nội trong 5 ngày đầu đời. Sau 5 ngày đó, cửa may mắn có nam tính của nó bị đóng lại, và con đực di truyền sẽ lớn lên với một óc “cái”. Ngược lại, óc con chuột cái không cần estrogen để được tổ chức; cứ để yên, nó vẫn trở thành con chuột cái.

Tóm lại, “óc ngầm định” (default brain) cho cả hai giới tính chuột là nữ, và testosterone cần thiết cho cả việc tạo ra óc nam lẫn việc tạo ra bộ phận sinh dục nam. Ý niệm này được khoa sinh học thần kinh dùng để nghiên cứu nguồn gốc xu hướng tính dục, căn cứ vào nguyên tắc “dị biệt hóa tính dục bộ óc”.

Nguyên tắc trên dẫn các nhà khoa học tới việc khám phá ra sự khác biệt trông thấy giữa óc chuộc đực và óc chuột cái. Chúng khác nhau về con số các nối kết tiếp hợp (synapses) giữa các tế bào óc tại vùng hypothalamus (điều khiển thân nhiệt, đói khát, tính dục…): chuột cái có nhiều tiếp hợp hơn, khiến não bộ của nó có hình dáng khác với hình dáng não bộ chuột đực. Họ gọi hiện tượng này là tính lưỡng hình về tính dục (sexual dimorphism).

Nhưng đó là chuột. Nơi óc người liệu có thứ lưỡng hình ấy hay không? Năm 1982, Christine de Lacoste-Utamsine và Ralph Holloway quả quyết là có. Nhưng thực ra, khám phá của họ bị tranh cãi rất nhiều.

Tuy vậy, vào năm 1990, Dick Swaab, một nhà nghiên cứu Hòa Lan, cho rằng mình đã tìm ra một nhóm tế bào trong óc người gọi là nhân thượng giao thoa (suprachiasmatic nucleus). Nhân này có tính lưỡng hình, nhưng đặc biệt lưỡng hình về xu hướng tính dục chứ không hẳn về phái tính nghĩa là ở đàn ông đồng tính, nó lớn gấp đôi so với đàn ông dị tính. Từ đó, có người kết luận về phương diện giải phẫu, có sự khác nhau giữa người đồng tính và người dị tính.

Nhưng theo Simon Levay, một nhà sinh học thần kinh Mỹ, phần óc được Swaab nghiên cứu không liên hệ gì tới việc điều hòa tác phong tính dục. Nhân thượng giao thoa điều khiển nhịp điệu hàng ngày của cơ thể; tính lưỡng hình tại đó chỉ tạo ra một hiệu quả, chứ không phải là nguyên nhân của xu hướng tính dục. Tại sao không khảo sát chính hypothalamus, vùng có liên hệ bẩm sinh với tác phong tính dục.

Năm 1991, LeVay công bố kết luận của mình trong một bài báo tựa là "A Difference in Hypothalamic Structure Between Heterosexual and Homosexual Men" (Một Dị Biệt trong Cơ Cấu Hypothalamus giữa Đàn Ông Dị Tính và Đàn Ông Đồng Tính). Ông bảo hai nhân INAH 2 (interstitial nuclei [nhân kẽ] of the anterior hypothalamus) và INAH 3 trong hypothalamus thì lớn nơi các cá nhân có xu hướng làm tình với đàn bà (tức đàn ông dị tính và đàn bà đồng tính), và nhỏ nơi các cá nhân có xu hướng làm tình với đàn ông (tức đàn bà dị tính và đàn ông đồng tính).

Ông đi đến kết luận đó nhờ mổ xẻ các mô trong óc 40 người đã qua đời, trong đó có 19 người đàn ông đồng tính, tất cả đều qua đời vì bệnh AIDS; 16 người được coi là đàn ông dị tính, trong đó, 6 người chích ma túy và qua đời vì bệnh AIDS; và 6 người được coi là đàn bà dị tính. Không có tế bào nào lấy từ đàn bà đồng tính.

Ông thấy: lượng nhân INAH3 nhiều gấp hai lần nơi đàn ông dị tính, hơn nơi đàn ông đồng tính và cũng có sự dị biệt tương tự giữa đàn ông dị tính và đàn bà dị tính.

Tuy nhiên, chính LeVay, theo Chandler Burr, cũng thừa nhận rằng nghiên cứu của ông có một số vấn đề: mẫu nghiên cứu nhỏ, quá khác nhau về cỡ của các nhân cá thể, và kết quả hơi thiên lệch vì tất cả đàn ông đồng tính đều mắc AIDS cả. Vả lại, cho tới năm 1993, chưa có nhà nghiên cứu nào khác xét nghiệm kết quả của LeVay cả. Burr cho rằng, cho tới lúc có xét nghiệm ấy, ý niệm cho rằng người đồng tính và dị tính khác biệt nhau về giải phẫu học chỉ là một giả thuyết mà thôi.

Chandler Burr cũng cho rằng cả vấn đề lưỡng hình của bộ óc cũng vẫn đang được tranh cãi gay gắt. Nhiều thử nghiệm sau này cho thấy những kết quả không nhất quán. Anne Fausto-Sterling và William Byne liệt kê các thử nghiệm nhằm xét nghiệm tính lưỡng hình tính dục và cho rằng: “1985: không có dị biệt giới tính về hình dáng, chiều rộng hay diện tích. 1988: ba quan sát viên độc lập không phân biệt được nam với nữ. 1989: đàn bà có các diện tích thuộc thể chai (callosal) nhỏ hơn nhưng lại có diện tích lớn hơn về phần trăm ở dải băng (splenium) và dải băng phồng ra hơn”…

Sự không nhất quán trên, theo Burr, một phần do phương pháp sử dụng, tức so sánh óc của những ai, và so sánh thế nào. Người đã chết hay người còn sống? Già hay trẻ hay cả hai? Khỏe mạnh hay đau yếu? Dùng chính bộ óc hay hình chụp?

Kích thích tố và di truyền học

Chính LeVay gọi việc nghiên cứu này là “vở tuồng ướt át kéo dài nhất xưa nay của khoa sinh học thần kinh”. Dù sao, thì cũng không thể dựa vào nó mà đưa ra các kết luận lố lăng. Thiết lập được sự dị biệt không đồng nghĩa với việc tìm được nguyên nhân. Giải phẫu học không phải là căn bệnh học, cùng lắm nó chỉ là khởi điểm cho các nghiên cứu sâu xa hơn về kích thích tố và di truyền học.

Trong nhiều thập niên, các nhà khoa học đã đưa ra “lý thuyết kích thích tố người lớn” về xu hướng tính dục, mà cho rằng người đàn ông đồng tính trưởng thành có lượng testosterone thấp hơn, hay ngược lại có lượng estrogen cao hơn người đàn ông dị tính, và người đàn bà đồng tính và người đàn bà dị tính cũng cho thấy cùng một mẫu mực như vậy.

Năm 1984, Heino Meyer-Bahlburg, một nhà sinh học thần kinh của ĐH Columbia, phân tích kết quả của 27 cuộc nghiên cứu để xét nghiệm lý thuyết trên. Theo ông, nhiều nghiên cứu không cho thấy sự khác nhau nào về mức testosteroneestrogen nơi người đàn ông đồng tính và nơi người đàn ông dị tính. Ba cuộc nghiên cứu cho thấy người đồng tính có mức testosterone thấp hơn nhiều, nhưng ông tin rằng 2 trong 3 cuộc nghiên cứu này không vững về phương diện phương pháp và cuộc nghiên cứu thứ ba cũng ít có giá trị vì tác dụng thuốc an thần của người được nghiên cứu.

Thành thử, các nhà nghiên cứu quay qua các đối tượng tiền sinh (prenatal). Vì họ nghĩ rằng mức kích thích tố khác nhau trước khi sinh có thể tạo ra các xu hướng tình dục khác nhau. Họ tập chú nghiên cứu sự hồi tác của kích thích tố hoàng thể hóa (luteinizing-hormone feedback).

Ta biết óc tiết ra một số kích thích tố, trong đó có kích thích tố hoàng thể hóa (LH), là kích thích tố sẽ khởi diễn việc phát triển trứng trong buồng trứng của người đàn bà. Trứng càng phát triển, buồng trứng càng tiết ra số lượng estrogen nhiều hơn, kích thích não tiết ra LH nhiều hơn, là kích thích tố cổ vũ việc sản xuất thêm nhiều estrogen nữa. Diễn trình này gọi là hồi tác tích cực (positive feedback) . Nơi đàn ông, estrogen hành động thường là để ngăn cản việc sản xuất ra kích thích tố hoàng thể hóa, việc này gọi là hồi tác tiêu cực. Các dị biệt trong hồi tác LH nơi người khiến các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết cho rằng đàn ông đồng tính, vì óc của họ, trước khi sinh, không được các kích thích tố của tinh hoàn tổ chức, giống như đàn bà vậy, nên họ sẽ có hồi tác tích cực LH, giống như đàn bà dị tính, thay vì hồi tác tiêu cực như đàn ông dị tính.

Để chứng minh giả thuyết này, họ phân tích máu đàn ông đồng tính bằng cách chích vào đó một lượng estrogen. Kết quả không lạc quan bao nhiêu. Sự thiếu chắc chắn thuộc hai loại. Trước nhất, câu hỏi là các mẫu hồi tác LH đang tìm kiếm có thực sự hiện hữu nơi người không? Thứ đến, câu hỏi là: dù mẫu hồi tác này có hiện hữu đi chăng nữa liệu nó có nói cho hay được điều gì về các biến cố xẩy ra trước khi sinh?

Các nhà khoa học về thần kinh đã không trả lời nhất quán cho cả hai câu hỏi trên, dù đã cố gắng hết sức. Các cuộc nghiên cứu khác nhau đã đem lại các dữ kiện mâu thuẫn nhau.

Trong một bài báo phát hành năm 1990 của tờ Journal of Child and Adolescent Psychopharmacology, Heino Meyer-Bahlberg, nhà sinh học thần kinh của ĐH Columbia, kết luận rằng “chứng cớ hiện có cho tới nay không nhất quán, phần lớn các cuộc nghiên cứu không thỏa đáng về phương pháp, và ta không thể loại bỏ các giải thích thay thế đối với các kết quả này”.

Chính vì thế, Richard Pillard, một nhà phân tâm học tại ĐH Y Khoa Boston đưa ra một giả thuyết khác về nguồn gốc của đồng tính luyến ái. Theo ông, lúc còn là bào thai (fetuses), con người thuộc cả hai giới tính đều khởi đầu với đủ bộ nguyên bào (anlages) nữ và nam, tức tiền thân của các cơ phận sinh dục bên trong: cửa mình, dạ con, và ống fallopian của đàn bà, và ống dẫn tinh, tuyến tinh dịch và ống xuất tinh của đàn ông. Những ống này có tên là ống Mullerian (nữ) và ống Wolffian (nam), chúng nằm ở phần dưới của bụng.

Lúc thụ thai, một bào thai được cung cấp nhiễm sắc thể giới tính (chromosomal sex) là thứ quyết định nó sẽ phát triển tinh hoàn hay buồng trứng. Nơi người, cũng như nơi chuột, bào thai nữ cứ thế phát triển, không cần bất cứ kích thích tố nào. Diễn trình trở thành nam thì phức tạp hơn, cần tới hai loại kích thích tố: kích thích tố nam (androgen) từ tinh hoàn thúc đẩy ống Wolffian phát triển và chất thứ hai gọi là kích thích tố ngăn cản Mullerian để chặn ống Mullerian không phát triển và phi nữ hóa bào thai nam.

Pillard tin rằng kích thích tố ngăn cản Mullerian có thể ảnh hưởng tới cơ cấu óc. Thiếu nó hay nó hoạt động không đúng cách có thể khiến óc không phi nữ hóa được, do đó, tạo ra tình trạng Pillard gọi là ái nam ái nữ tâm sinh dục (psychosexual androgyny).

Theo Chandler Burr, dù chứng cớ của các cuộc nghiên cứu về kích thích tố, trong một số trường hợp, có cho thấy sinh học đóng vai trò trong xu hướng tính dục, nhưng chưa đạt tới mức có thể kết luận vững chắc. William Byne, chẳng hạn, nói rằng: “Nếu giả thuyết kích thích tố tiền sinh đúng, thì người ta phải thấy tỷ lệ cao các người đồng tính có chứng cớ bị xáo trộn nội tiết trước khi sinh, như các bất bình thường về bộ phận sinh dục hay tuyến sinh dục. Nhưng ta không thấy điều này”.

Nhiều người vì thế đi sâu vào vấn đề bằng cách đi tìm nguyên nhân di truyền học của xu hướng đồng tính. Năm 1963, Kulbir Gill, một khoa học gia từ Ấn Độ nhưng làm việc tại ĐH Yale thử nghiệm trên ruồi dấm Drosophila: áp dụng quang tuyến X vào ruồi dấm rồi quan sát tác phong của con cái chúng, ông nhận thấy ruồi dấm nam do chúng đẻ ra “ve vãn” các con ruồi nam khác, thậm chí leo lên lưng con ruồi dấm nam, nhưng không giao hợp. Đặc tính này truyền tới cả hàng trăm thế hệ về sau. Tính di truyền này có thể áp dụng vào người hay không? Nhà khoa học Jeffrey Hall cho rằng nhân hình hóa tác phong của côn trùng là điều nguy hiểm. Làm sao ta có thể đặt tác phong của ruồi ngang hàng với một chuyện lớn lao vốn sản sinh ra những tri giác thẩm mỹ và trí thức nơi con người, với một điều nói lên cả nhu cầu xúc cảm lẫn tình yêu và cái đau của tình yêu nữa. Hall kết luận: di truyền học về đồng tính nhân bản khó có thể chỉ do một yếu tố như trong ruồi dấm Drosophiala.

Chính vì thế, nhà tâm lý học Michael Bailey của ĐH Northwestern và Richard Pillard của ĐH Boston bắt đầu nghiên cứu các đặc điểm di truyền của những cặp song sinh để tìm ra nguyên nhân của đồng tính nhân bản. Họ so sánh 56 người song sinh từ một trứng duy nhất (monozygotic twins), 54 người song sinh từ hai trứng (dizygotic twins) và 57 anh em nuôi không liên hệ gì về di truyền. Anh em song sinh từ một trứng, mà ta thường gọi là anh em sinnh đôi y hệt nhau (identical twins), rất quan trọng vì họ có bộ gien y hệt nhau, kể cả cặp nhiễm sắc thể tính dục. Nếu đồng tính luyến ái phần lớn do nguồn di truyền, thì càng có liên hệ máu mủ thì xu hướng tính dục càng giống nhau hơn. Và đó là điều hai nhà khoa học này tìm ra. Họ tìm thấy tỷ lệ tương đồng 11% cho anh em nuôi, 22% cho anh em song sinh từ hai trứng và 52% cho anh em song sinh từ một trứng. Từ đó, người ta cho rằng đồng tính luyến ái phần lớn do yếu tố di truyền.

Nhưng phần lớn vẫn không phải là tất cả. Pillard cho rằng các nhập lượng môi trường và sinh học mà đứa trẻ đang phát triển nhận được vừa lớn lao vừa hết sức phức tạp. Theo ông, “bất kể các biến tố khác này là gì, chúng cũng phải hiện diện từ sớm” trong diễn trình phát của đứa nhỏ. Hơn nữa, ông cũng buộc phải thừa nhận rằng: “chắc chắn có những nẻo đường khác nhau dẫn tới cùng một kết quả. Xét về cá thể, chắc chắn có những trường hợp phần lớn hay tất cả do gien, và có những trường hợp rất có thể hoàn toàn do môi trường. Cuộc phân tích của chúng tôi [về các người song sinh] không nói gì về cá thể cả”. Jeffrey Hall cũng nghĩ như thế. Ông cho rằng một tác phong đơn giản như nhẩy cao, chẳng hạn, cũng rất phức tạp về di truyền học, liên hệ tới đủ thứ gien và các yếu tố không ai biết khác. Mà thực sự nhận diện được các gien này lại là một chuyện khác nữa, vì đồng tính luyến ái có thể có tính đa gien (polygenic), trong đó, mỗi gien chỉ có một hậu qủa nhỏ”.

Hiện tình nghiên cứu sinh học đồng tính

Với những trình bầy mà chúng tôi cho là tương đối khách quan trên đây về khuynh hướng đồng tính và nguyên nhân gây ra nó, Chandler Burr, như trên đã nói, vốn là một người đồng tính, vẫn cho rằng “dù là ở một thời điểm tương đối sớm sủa như hiện nay, từ màng nhện đủ thứ phức tạp, người ta càng ngày càng thấy rõ: các yếu tố sinh học đóng một vai trò trong việc xác định ra xu hướng tính dục của con người”. Ông hy vọng một ngày kia người ta sẽ tìm ra một thứ “gien đồng tính”. Tuy nhiên theo ông, “khoa học chỉ có thể là cái giá ọp ẹp để dựng toà nhà nhân quyền. Khoa học có thể soi sáng, giáo huấn, phơi bầy các huyền thoại mà ta vốn sống với. Nó có thể đưa ra các phân biệt khách quan, như giữa bệnh lý học tính dục một bên và bên kia là khuynh hướng tính dục. Nhưng ta không thể dựa trên khoa học để cung cấp các câu trả lời đầy đủ cho các câu hỏi có tính nền tảng liên quan tới nhân quyền, tự do và khoan dung nhân bản. Vấn đề người đồng tính trong sinh hoạt Hoa Kỳ không xuất hiện trong phòng thí nghiệm. Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề này cũng không từ đó mà có”.

Trong phần dẫn nhập, Chandler Burr cho rằng điều làm cho khoa học trong trường hợp này trở thành nghi vấn, ngoài những khó khăn kỹ thuật cố hữu trong nghiên cứu sinh học, nhất là nghiên cứu sinh học thần kinh, là ngành nghiên cứu quan trọng nhất trong cuộc tìm hiểu này, phải kể đến bản chất khôn lường (ineffable) của bản ngã tâm sinh dục của ta.

Bản ngã trên bao gồm một vũ trụ kích thích và đáp ứng bao la, đủ mọi nhậy cảm thẩm mỹ và gợi dục. Nhiều người coi các cố gắng dùng các hạn từ sinh học để giải thích vũ trụ này là một thái độ xấc xược, ngạo mạn. Có người không cho đó là ngạo mạn mà chỉ là cường điệu thổi phồng: họ sợ rằng đây chỉ là những khám phá để quảng cáo, không khéo chỉ dẫn tới đường cùng trí thức.

Burr cũng cho rằng điều không ai chối cãi là cuộc nghiên cứu sinh học thần kinh đôi khi được theo đuổi một cach hết sức ngu dốt. Bộ óc vẫn là một cơ quan mầu nhiệm nói chung, chưa kể tới các chức năng chuyên biệt. Phần lớn các khoa học gia vẫn tin là họ chưa biết được bao nhiêu.

Vả lại, theo Burr, hiện nay, vì vấn đề đồng tính sặc mùi chính trị, nên một số nhà nghiên cứu không hẳn được thúc đẩy bởi quan tâm khoa học mà bởi nhiều quan tâm bản thân khác. Chưa kể đa phần các nhà khoa học đang nghiên cứu đồng tính luyến ái đều là người đồng tính.
Có người cho rằng các nhận định trên đây của Burr đã lỗi thời. Từ 1993 đến nay, nhiều phát kiến mới trong lãnh vực này đã được thực hiện làm cho cách nhìn về đồng tính luyến ái đã thay đổi triệt để.

Thực hư ra sao? Bách khoa mở Wikipedia cho rằng: cho đến nay, người ta vẫn chưa chứng minh một cách dứt điểm được yếu tố duy nhất và độc đáo nào xác định ra khuynh hướng tính dục: các nghiên cứu khác nhau đang đưa tới các chủ trương khác nhau, thậm chí chống chọi nhau; nên phần đông các khoa học gia cho rằng một tổng hợp các nhân tố di truyền, kích thích tố và xã hội đã xác định ra khuynh hướng này. Ngay các lý thuyết sinh học, tức các lý thuyết đang ăn khách hiện nay, cũng có thể bao gồm hành động hỗ tương khá phức tạp của các nhân tố di truyền và môi trường tử cung lúc sớm: gien, kích thích tố tiền sinh và cơ cấu bộ não.

Như trên đã nói, Bailey và Pillard từng nghiên cứu các mẫu song sinh để tìm ra sự giống nhau về khuynh hướng tính dục. Nơi những người song sinh từ một trứng, họ tìm thấy tỷ lệ 52% giống nhau. Nhưng mẫu nghiên cứu của họ chỉ là 59 người. Năm 2000, Bailey cùng hai khoa học gia khác mở rộng mẫu nghiên cứu lên 4,901, thì tỷ lệ giống nhau chỉ còn là 20%.

Năm 2002, Bearman và Brückner còn tìm thấy một tỷ lệ thấp hơn nữa: họ nghiên cứu 289 cặp song sinh từ một trứng và 495 cặp song sinh từ hai trứng và chỉ tìm ra tỷ lệ giống nhau 7.7%, khiến họ kết luận rằng “kết quả này không cho thấy ảnh hưởng di truyền độc lập đối với bối cảnh xã hội”.

Kết quả tương tự như thế đã đến với cuộc nghiên cứu gần đây nhất vào năm 2010 trên tất cả các cặp song sinh trưởng thành tại Thụy Điển (hơn 7,600 người song sinh): tác phong đồng tính được giải thích bởi cả nhân tố di truyền lẫn các nguồn môi trường chuyên biệt cá thể, như môi trường tiền sinh, kinh nghiệm với bệnh tật và chấn thương, cũng như bạn bè cùng lứa, và kinh nghiệm tính dục); trong khi ấy, dù ảnh hưởng của các biến tố môi trường chung như môi trường gia đình và các tác phong xã hội có yếu hơn, nhưng vẫn gây hậu quả quan trọng. Kết luận là khuynh hướng tính dục không thể qui duy nhất cho các nhân tố di truyền.

Trên đây, chúng tôi cũng đã nhắc tới hy vọng của Burr rằng một ngày kia một gien đồng tính (gay gene) sẽ được tìm ra. Dean Hamer đã cố gắng làm việc này từ năm 1993: ông nghiên cứu sự liên kết nhiễm sắc thể X nơi các anh em đồng tính: 33 trong số 40 cặp anh em này có gien đẳng vị (alleles) giống nhau tại vùng Xq28. Vùng Xq28 này bao gồm các gien được gọi là gien đồng tính. Tuy nhiên, hai cuộc nghiên cứu sau đó trong thập niên 1990 mang lại các kết quả không đồng nhất. Một cuộc nghiên cứu không được công bố cho thấy sự liên kết yếu ớt với vùng Xq28, trong khi cuộc nghiên cứu năm 1999 không cho thấy sự liên kết có ý nghĩa nào về thống kê với gien đẳng vị. Chính Hamer, sau khi tổng duyệt các nghiên cứu của ông và hai cuộc nghiên cứu này, đã cho rằng vùng Xq28 gây 1 hậu quả có ý nghĩa nhưng không độc chiếm. Đàng khác cũng có nghiên cứu cho thấy các gien khác phải hiện diện mới giải thích được tính di truyền trọn vẹn của khuynh hướng tính dục.

Trong các cuộc phỏng vấn của báo chí, các nhà nghiên cứu vẫn nhấn mạnh rằng không nên coi chứng cớ về ảnh hưởng di truyền như là một thứ định mệnh thuyết. Theo Hamer và Bailey các khía cạnh di truyền chỉ là một trong nhiều nguyên nhân tạo ra đồng tính luyến ái.

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

Quan điểm cứng rắn chống đồng tính luyến ái đã thắng tại San Francisco

Quan  điểm  cứng  rắn  chống  đồng  tính  luyến  ái  đã  thắng  tại  San  Francisco
(Vũ Van An8/27/2015-Vietcatholic.net)







Một thỏa ước lao động mới giữa Tổng Giáo Phận San Francisco và nghiệp đoàn giáo viên tại 4 trường trung học của Tổng Giáo Phận đã khẳng định rằng các giáo huấn Công Giáo phải luôn được coi là quan trọng nhất trong các lớp học và các giáo viên phải chịu trách nhiệm đối với tác phong bản thân nào có thể ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng phục vụ sứ mệnh Giáo Hội của họ.

Chủ Tịch Tim Navone của Trung Học Marin cho biết: thoả ước này, sau nhiều tháng tranh cãi khiến cả nước bàn tán, đã giúp người ta tập chú trở lại với giáo huấn.

Ông nói với tờ Catholic San Francisco ngày 20 tháng 8 rằng “Tôi hết sức phấn khởi khi thấy các giáo viên của chúng ta sắp sửa có khả năng hoàn toàn tập chú, không bị sao lãng chi nữa, vào điều họ sẽ làm tốt nhất, và điều đó là giáo huấn. Là một nhà quản trị, hy vọng và mục tiêu của tôi là họ sẽ chỉ tập chú vào việc giáo dục các học sinh của chúng ta”.

Chủ Tịch Navone nói thêm: ông “tràn ngập lòng biết ơn đối với mọi người thuộc mọi phe. Ủy Ban chấp hành nghiệp đoàn đã làm việc thực sự hăng hái”.

Ted DeSaulnier, một giáo viên dạy môn tôn giáo tại Trung Học Riordan của Tổng Giáo Phận và là một thành viên của ủy ban chấp hành Liên Đoàn Giáo Viên của Tổng Giáo Phận, Địa Phương 2240, nói rằng ông cảm thấy nhẹ nhõm đã giải quyết được một bất đồng mà ông mô tả là “một trong những cơn bão toàn diện”.

Ông cho hay: các vấn đề xã hội của tự do tôn giáo và quyền bình đẳng vốn đụng độ nhau nhưng cuối cùng cả hai phe đã cố gắng đạt được một thỏa ước, trong đó, nghiệp đoàn đề nghị các ngôn từ cuối cùng.

Thỏa ước trên được các đoàn viên của nghiệp đoàn thừa nhận ngày 19 tháng 8, với số phiếu sít sao: 90 thuận 80 chống. Thoả ước này có lời dẫn nhập dài 4 đoạn nhấn mạnh tới mục đích của nền giáo dục Công Giáo và mong các giáo viên hỗ trợ sứ mệnh của Giáo Hội: Mọi giáo viên giáo dân được thỏa ước bảo vệ “lúc nào trong khi thi hành bổn phận, cũng phải hành xử sao cho phù hợp với các tiêu chuẩn của Giáo Hội”.

Trong một thông cáo báo chí, nghiệp đoàn giáo viên nói rằng “cuộc đầu phiếu sít sao phản ảnh sự chia rẽ giữa ban giảng huấn và cộng đồng bao quát hơn sau khi ban quản trị của Tổng Giáo Phận đề xuất một ngôn từ mới muốn tuyên bố các giáo viên là các ‘thừa tác viên’, một ngôn từ, nếu được thi hành, sẽ đặt các giáo viên ra ngoài các che chở của Đạo Luật Liên Hệ Lao Động Toàn Quốc”.

Đức TGM Salvatore Cordileone, trong một tuyên bố báo chí, nói rằng “Tôi muốn cám ơn các nhóm thương thuyết của nghiệp đoàn và của ban quản trị vì đã làm việc hăng hái trong ít tháng qua nhằm đạt thỏa ước này… Tôi cũng đánh giá rất cao khi các cuộc thương thuyết đã bao gồm cuộc thảo luận phong phú về sứ mệnh và mục đích của nền giáo dục Công Giáo và vai trò sinh tử mà các giáo viên các trường trung học của ta vốn đóng trong việc thi hành sứ mệnh này. Tôi rất hài lòng trước việc các cuộc thảo luận này đã củng cố và minh giải các mục đích và các vai trò vốn được nhắc tới trong các thỏa ước trước đây. Và tôi xin chuyển các lời cám ơn đặc biệt của tôi tới mọi giáo viên của chúng ta đã thừa nhận thỏa ước này”.

Nina Russo, tổng quản trị lâm thời của các trường, nói rằng “chúng tôi mong đợi các học sinh của chúng ta trở lại một năm học tập và nhiều trải nghiệm phong phú, có ý nghĩa cả về học thuật lẫn sinh hoạt học đường. Chúng tôi đánh giá cao các cố gắng phối hợp của các giáo viên và của ban lãnh đạo học đường trong việc chuẩn bị cho năm học mới mở đầu bằng một mức độ dấn thân và chuyên nghiệp cao độ nhất”.

Thỏa ước trên đã chấm dứt 10 tháng thương thuyết, được đánh dấu bằng việc kháng cự mạnh của một số giáo viên. Họ cho rằng các đề xuất của Tổng Giáo Phận nhằm củng cố sứ mệnh Công Giáo của các trường có thể đe dọa tới sự an toàn việc làm của họ cũng như dẫn tới việc xen vào cuộc sống tư riêng của họ.

Các đề xuất trên bao gồm một ngôn ngữ khởi đầu muốn định nghĩa các giáo viên như các thừa tác viên, và việc duyệt lại thủ bản giảng dậy nhằm nhấn mạnh tới nền luân lý và các nguyên tắc thần học Công Giáo.

Trong diễn trình thương thuyết, Tổng Giáo Phận đã bỏ không nhắc tới các giáo viên như những thừa tác viên nữa và hai bên đã thỏa thuận chỉ chú trọng tới các ngôn từ nhấn mạnh tới việc giảng dạy và tác phong bản thân được chờ mong nơi một giáo viên Công Giáo.

Linh mục Dòng Tên, John Piderit, Đại Diện Tổng Giáo Phận về quản trị và điều hợp hội đồng giáo phận, nói với tờ Catholic San Francisco ngày 20 tháng 8 rằng “Đức Tổng Giám Mục cố gắng mềm giẻo bao nhiêu có thể. Nếu đi quá xa trong việc nhán mạnh tới những điều này có lẽ ngài đã không đạt được thỏa ước”.

Cha Piderit cho biết các quản trị viên và hiệu trưởng mỗi trường có quyền điều tra và giải quyết bất cứ quan ngại nào đối với sự kiện: tác phong một giáo viên có thể khiến người ta sao lãng công việc tại lớp học. Theo ngài, Đức Tổng Giám Mục đã nói rõ: các vị này phải ráng tự giải quyết lấy vấn đề. Những vấn đề không thể giải quyết mới trình lên cho vị tổng quản trị các trường.

Nghiệp đoàn thì ra thông cáo cho hay “ngôn từ đã làm sáng tỏ điều này: các vấn đề liên quan tới tác phong giáo viên lúc làm việc cũng như lúc không làm việc, tùy thuộc thủ tục giải quyết khiếu nại theo lối thương thảo tập thể, chứ không phải là lãnh vực duy nhất do ban quản trị quyết định. Ngôn từ ở đây đã được xem xét chặt chẽ bởi các luật sư của Liên Đoàn Giáo Viên California, nhằm bảo đảm việc tuân hành các đạo luật bảo vệ lao động".

Chủ tịch nghiệp đoàn, Gina Jaeger, cho hay “các cuộc thương thảo đã trở thành một diễn trình cam go, thử nghiệm sự quyết tâm của ban chấp hành và các đoàn viên của chúng tôi. Nhưng nền dân chủ nghiệp đoàn đã cung cấp nền tảng vững chắc cho các cuộc thảo luận của chúng tôi…”

Phần Cha Piderit thì cho biết: tác dụng nói chung của thỏa ước là làm sáng tỏ căn tính Công Giáo nhất là tại Vùng Vịnh nơi các ý niệm thường rất mù mờ. Thỏa ước khẳng định rằng “chúng tôi mong người ta đừng xâm phạm tới giáo huấn Công Giáo bằng lời và bằng hành động”.

Trong thời gian thương thuyết, việc duyệt xét thủ bản cho ban giảng huấn, một việc diễn ra đồng thời, nhưng không phải là thành phần, với diễn trình thương thuyết, do một ủy ban đảm nhiệm gồm nhiều giáo viên dạy thần học do Đức Tổng Giám Mục chỉ định, đã được mở rộng thành một văn kiện có tính thần học rộng lớn hơn, lấy Chúa Kitô làm tâm điểm.

Cha Piderit nói rằng: nay, với thoả ước trong tay, cuốn thủ bản sẽ được dùng làm khuôn thước cho việc tu nghiệp các giáo viên, trước nhất tại Trung Học Marin, sau đó tại ba trung học còn lại.

Chủ tịch Trung Học Matin là Navone cho biết 4 buổi gặp gỡ đã được hoạch định để các nhà quản trị và ban giảng huấn học hỏi văn kiện. Trước đây, các giáo viên tỏ vẻ quan ngại đối với các vấn đề về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính.

Ông nói thêm: “không có gì mới và không có gì thay đổi về cung cách chúng tôi dạy dỗ nhưng hiện có nhiều người ở đây lo âu trước sự kiện họ không nắm được giáo huấn Công Giáo cách trọn vẹn và không muốn buớc vào một bãi mình. Chúng tôi muốn dành thì giờ nói về các vấn đề họ có thể gặp trong phạm vi học trình và các vấn đề khác họ gặp trong đời sống hàng ngày”.

Một số điều khoản đáng lưu ý

Tưởng nên đề cập tới một số điều khoản trong thỏa ước:

Xét rằng, Nghiệp Đoàn và các đoàn viên của nó nhìn nhận rằng bản chất độc đáo của hệ thống trung học của Tổng Giáo Phận nằm ở chỗ đây là hệ thống Công Giáo Rôma, một hệ thống cam kết cung cấp nền giáo dục bên trong khuôn khổ các nguyên tắc Công Giáo; nhìn nhận rằng các giáo huấn và giới răn Công Giáo phải luôn chiếm chỗ cao suốt trong thời kỳ của thoả ước này; và nhìn nhận rằng không điều gì trong thỏa ước bị giải thích như là can thiệp bất cứ cách nào vào các chức năng và bổn phận của Vị Tổng Quản Trị bao lâu chúng hợp giáo luật; và

Xét rằng,
Nghiệp đoàn và các đoàn viên của nó nhìn nhận rằng mọi giáo viên giáo dân được Thoả Ước này che chở sẽ thi hành mọi bổn phận của họ như đã được liệt kê trong thỏa ước một cách phù hợp với các tín lý và giới răn của Giáo Hội Công Giáo Rôma, và lúc nào trong khi thi hành các bổn phận này, cũng sẽ hành xử phù hợp với các tiêu chuẩn của Giáo Hội; và

Xét rằng, Các bên của thoả ước này nhìn nhận rằng mục đích của các trường Công Giáo là để khẳng định các giá trị Công Giáo phản ảnh qua Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, và đề giúp các học sinh học tập và khai triển các khả năng phê phán và luân lý của các em; và

Xét rằng, người ta mong các giáo viên hỗ trợ mục đích của các trường Công Giáo chúng ta bằng cách nào đó khiến tác phong bản thân của họ sẽ không gây tác động tiêu cực đối với khả năng dạy dỗ tại các Trung Học Công Giáo của chúng ta; và

Xét rằng, Các bên nhìn nhận rằng các cuộc tranh cãi về tác phong giáo viên lúc làm việc cũng như lúc không làm việc tùy thuộc thủ tục khiếu nại sẽ xác định xem tác phong như thế có gây tác động tiêu cực đối với khả năng dạy dỗ của giáo viên này tại các Trung Học Công Giáo của ta hay không.

Nói chung, đây là chiến thắng rõ ràng của Đức TGM Salvatore Cordileone khi ngài cho biết sẽ không dung dưỡng những người công khai sống chung trong các liên hệ đồng tính được giảng dạy trong các trung học của Tổng Giáo Phận. Sau quyết định ấy, cả một cơn sóng gió đã ập tới chống lại ngài bằng sách nhiễu, chỉ trích thô tục, từ những người chống đối giáo huấn của Giáo Hội đã đành mà còn từ một số chính trị gia và giáo viên Công Giáo nữa. Ngài đã nhất định không nhượng bộ.

Nay, theo lời Cha Piderit, dù có bỏ những từ ngữ người ta không thích, Đức Tổng Giám Mục đã thắng trong việc nhấn mạnh tới căn tính của các trung học Công Giáo và tư cách một giáo viên tại các trung học này.

Tiến Sĩ Dan Guernsey, giám đốc các chương trình giáo dục từ lớp mẫu giáo tới lớp 12 của Hội Đức Hồng Y Newman, cũng cho hay: dù ngôn từ trong khế ước không mạnh bằng nhiều văn kiện nhân dụng khác của tổng giáo phận, nhưng Đức TGM Crodileone đã thành công trong việc nói lên các trách nhiệm luân lý quan trọng mà các giáo viên phải chấp nhận nếu chịu làm việc tại một trường Công Giáo.

Trong một bài báo mới đây đăng trên tờ Crisis Magazine, Tiến Sĩ Guernsey ca ngợi Đức TGM Cordileone vì đã có “trái tim mục tử” trong việc “dẫn đoàn chiên của mình tới gần trái tim Giáo Hội và trái tim yêu thương của Chúa Cứu Thế chúng ta hơn, Đấng đang ngự trong Giáo Hội”. Tiến Sĩ Guernsey đánh giá cao phần dẫn nhập mới dẫn vào các văn kiện nhân dụng cập nhật của Tổng Giáo Phận; ông nhận thấy nhiều điều đáng ca ngợi”.

Ông viết: “Các người ủng hộ nền giáo dục trung thành với Công Giáo hẵn sẽ vui mừng khi thấy khế ước quả quyết rằng việc giáo dục và mọi bổn phận tại chỗ phải phù hợp với các ‘tín lý và điều răn của Giáo Hội Công Giáo Rôma’ và ‘tuân giữ các tiêu chuẩn của Giáo Hội’”.
Phần dẫn nhập đã buộc nghiệp đoàn giáo viên phải thừa nhận rằng các giáo huấn và giá trị Công Giáo phải là ưu tiên đối với các trường của Tổng Giáo Phận và các giáo viên phải trung thành với giáo huấn này. Văn kiện cũng “nhận diện mục tiêu của các trường Công Giáo là ‘để khẳng định các giá trị Công Giáo phản ảnh trong Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, và giúp các học sinh học tập và triển khai các năng khiếu phê phán và luân lý của các em”.

Ông lấy làm tiếc khi hạn từ “thừa tác viên” đã bị loại bỏ vì theo ông “Ít nhất cũng đã có 25 giáo phận toàn quốc coi việc giảng dậy như một thừa tác vụ. Tháng Năm vừa qua, Hội Đức Hồng Y Newman có phỏng vấn vị giám sát của một trong các giáo phận này, đó là Jim Rigg tại Cincinnati. Ông này giải thích: các giáo viên nhất thiết phải là các thừa tác viên, vì họ tiếp diễn “chính thừa tác vụ dạy dỗ của Chúa Kitô, một thừa tác vụ được truyền lại cho ta qua các thế kỷ”.

Tản mạn chuyện “hôn nhân” đồng tính: Khía cạnh tiền bạc

Tản  mạn  chuyện  “hôn  nhân”  đồng  tính:  Khía  cạnh  tiền  bạc
(Sat, 29/08/2015 - Vũ Văn An –Vietcatholic.net)



Nhân tố thứ hai là tiền. Nữ ký giả Anne Hendershott, trong bài Marginalizing Catholic Teaching One Grant at a Time (Đẩy Giáo Huấn Công Giáo Qua Một Bên, Mỗi Lần Một Cấp Khoản), cho hay: cuộc tấn công Đức TGM San Francisco, Salvatore Cordileone, bởi tổ chức Faithful America (Nước Mỹ Tín Hữu) chứng tỏ rằng cuộc tấn công thực sự vào giáo huấn Công Giáo phát xuất từ hai nhà tỷ phú đồng tính Tim Gill và Jon Stryker, những người thề làm bất cứ điều gì có thể để làm người ta bất tín nhiệm giáo huấn của Giáo Hội về luân lý tính dục bằng.

Qũy Arcus Foundation của Stryker và Qũy Gill Foundation đã minh nhiên công bố mục tiêu của họ trong các văn bản tặng khoản và trên mẫu khai thuế của họ. Trong mẫu khai thuế năm 2012, Arcus Foundation mô tả mình như một qũy cung cấp tài khoản cho các tổ chức bất vụ lợi trên khắp thế giới làm việc trong hai phạm vi: nhân quyền cho nhóm LGBT và bảo vệ các loại vượn cao cấp của thế giới.

Trong phạm vi đầu, Arcus cung cấp ngân khoản cho các tổ chức nào, kể cả Công Giáo, chịu làm việc cho quyền lợi các người đồng tính nam nữ, kể cả hôn nhân đồng tính. Thí dụ, họ đã cung cấp hàng trăm nghìn mỹ kim cho Liên Minh Phụ Nữ Cho Một Nền Đạo Đức Thần Học để tìm cách đạt được công bằng xã hội cho người LGBT. Cấp khoản 70,000 mỹ kim năm 2010 cho tổ chức này là nhằm “tạo ra một nhóm cán bộ phụ nữ Công Giáo, đồng tính, lưỡng tính và đổi tính cũng như các đồng minh của họ có khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong cộng đồng Công Giáo”. Ngân khoản 180,000 mỹ kim năm 2011 cho tổ chức này nhằm “nhận diện, tạo mạng lưới, huấn luyện và khuếch đại tiếng nói của những người duy nữ đồng tính Công Giáo và nhờ làm thế, tạo ra một tiếng nói phản lại hàng giáo phẩm nhằm tôn trọng, đánh giá cao và khẳng nhận mọi người thuộc mọi xu hướng tính dục và mọi bản sắc giới tính”.

Trong cố gắng tạo ra tiếng nói phản hàng giáo phẩm Công Giáo trên đây, chiến thuật của Arcus là giúp các tổ chức cấp tiến Công Giáo cố gắng thuyết phục người Công Giáo tin vào tính thiện, tính hợp luân của tác phong đồng tính. Theo chiều hướng này họ đã chọn Đại Học Fairfield để cấp ngân khoản vì tại đây có những giáo sư thần học như Paul Lakeland, một cựu linh mục “hết sức cay đắng” và hiện đứng đầu Khoa Công Giáo Học của ĐH này. Tác giả hai cuốn Liberation of the Laity, và Catholicism at the Crossroads, Lakeland từng lên tiếng đòi các thay đổi quan yếu như hủy bỏ Hồng Y Đoàn và thay đổi giáo huấn Công Giáo về các quyền sinh sản, phong chức linh mục cho phụ nữ và chấp nhận các linh mục đồng tính và có gia đình. Năm 2010, ĐH này nhận được 100,000 mỹ kim của Qũy Arcus “để lưu giữ và phổ biến các tín liệu của hàng loạt các luận hội tại bốn định chế học thuật nhằm mở rộng cuộc thảo luận hiện nay về đồng tính luyến ái bên trong Đạo Công Giáo Rôma nhằm bao gồm các ý kiến đa dạng của các nhà lãnh đạo tư tưởng và thần học gia Công Giáo cấp tiến”.

Năm 2011, Arcus cung cấp 37,938 mỹ kim cho Qũy Đặc Nhiệm Đồng Tính Nam Nữ Toàn Quốc để họ thực hiện dự án có tên là “Các Nhà Lãnh Đạo Tư Duy Công Giáo La Mã Gặp Nhau” với mục tiêu “củng cố và mở rộng mạng lưới các nhà lãnh đạo tư duy Công Giáo phò LGBT đang làm việc để cổ vũ sự bình đẳng về luân lý và công dân cho người LGBT”.

Trước đó ít năm, Thomas Peters cung cấp tài liệu cho thấy Arcus, cho tới năm 2010, đã cấp hơn 700,000 mỹ kim để lật ngược các giáo huấn của Giáo Hội về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính qua việc cấp trợ khoản cho các tổ chức như New Ways Ministries, WATER, Fairfield University, Dignity, và Mainstream Media Project.

Cố gắng đẩy các giám mục qua một bên
Trong khi Stryker sử dụng một chiến lược tế nhị để tấn công các giáo huấn của Giáo Hội qua việc thuyết phục và đàm luận tại các khuôn viên đại học như ở Fairfield, thì Qũy Gill Foundation trực diện tấn công Huấn Quyền bằng những cuộc tấn kích có hệ thống vào các giám mục cá thể qua các tổ chức như Faith in Public Life, Faithful America. Cuộc tấn công bằng truyền thông chống Đức TGM Cordileone mới đây nhất phần lớn đã được sự tài trợ của Qũy này. Việc làm của họ được mô tả trong tờ khai thuế là nhằm giúp đỡ để đẩy mạnh việc bình đẳng cho người LGBT, giáo dục và thuyết phục dư luận công cộng (như các nhà làm chính sách, các tổ chức cấp khoản liên minh, các phương tiện truyền thông và công chúng Hoa Kỳ) và giúp hỗ trợ các thính giả của phong trào LGBT.

Trong mục tiêu giáo dục quần chúng Hoa Kỳ nhìn nhận tính thiện của các hành vi và hôn nhân đồng tính, Gill Foundation đã cung cấp hàng trăm nghìn mỹ kim cho các tổ chức như Center for American Progress, và Media Matters. Nhưng Gill biết rằng cản trở chính cho việc đẩy nhanh đòi hỏi bình đẳng cho người LBGT là Giáo Hội Công Giáo. Bởi thế, để trung lập hóa các giáo huấn của Giáo Hội về luân lý tính dục, ông ta đã sử dựng các tổ chức như Catholics United và Faithful America.

Theo Guidestar, năm 2011, Gill đã cấp 100,000 mỹ kim cho Catholics United nhằm mục tiêu thay đổi các quan điểm Công Giáo về đồng tính luyến ái, trong có có hôn nhân đồng tính. Tháng 6 vừa qua, Catholics United đã kêu gọi trường Macon phục hồi một nhân viên đồng tính, bị thải hồi sau khi anh ta công khai tuyên bố trên Facebook là sẽ kết hôn đồng tính. Họ gọi hành vi này là kỳ thị và “đi ngược lại sự lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.

Cuộc tấn công của Catholics United không thấm thía gì so với các cuộc tấn công mới đây nhất của Faith in Public Life/Faithful America. Tiền bạc của những người như Gill đã biến hai tổ chức vừa kể rơi vào tay người LGBT hoặc cảm tình của họ. Tiền bạc này cũng thu hút được nhiều cựu nhân viên của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ như John Gehring, Tom Chabolla, và Fred Rotondaro. Bất mãn vì thấy các chính sách cấp tiến của họ không được một số giám mục trong Hội Đồng ủng hộ, các cá nhân này đã được trả tiền để làm bất cứ điều gì có thể nhằm triệt hạ thẩm quyền giảng dậy của các giám mục về luân lý tính dục.

Gehring, chẳng hạn, hết sức hung hãn trong các tấn công vào các giám mục cá thể như Đức TGM Cordileone của San Francisco, Đức Cha Morlino của Madison, Wisconsin, Đức Cha Jenky của Peoria, Illinois, và Đức HY Dolan của New York City, khiến năm 2012, các giám mục, trong một thông cáo báo chí, đã chỉ đích danh ông ta mà cho rằng ông ta lẫn lộn sự kiện với hư cấu trong các mô tả của mình về hành động của các giám mục. Sau thông cáo báo chí ấy, Gehring càng leo thang hơn nữa các cuộc tấn công của mình.

Bơi lội trong đồng tiền xanh
Đàng sau cuộc trưng cầu dân ý về hôn nhân đồng tính tại Ái Nhĩ Lan gần đây, người ta thấy bóng dáng của đồng tiền xanh, tức đồng tiền Hoa Kỳ. Đó là nhận định của Breda O’Brien. Bà cho rằng GLEN, tức Mạng Lưới Bình Đẳng Nam Nữ Đồng Tính (Gay and Lesbian Equality Network), là nhóm gây áp lực thành công nhất trong lịch sử Ái Nhĩ Lan nhờ “bơi lội trong đồng tiền xanh” dưới danh nghĩa một cơ quan bác ái.

Thực vậy, từ năm 2005 tới năm 2011, GLEN nhận được 4,727,860 mỹ kim. Đa số không được dùng cho các dịch vụ mà cho việc vận động thay đổi chính sách và luật lệ về người đồng tính.

Trong phúc trình gần đây nhất, GLEN được mô tả như sau “các tặng khoản nhiều năm của Atlantic giúp họ khả năng đẩy mạnh việc làm của họ thành bộ máy vận động hành lang toàn thời và chuyên nghiệp cao cấp. Họ làm việc ‘bên trong’ guồng máy cầm quyền nơi họ sử dụng mô thức ‘thực tiễn có nguyên tắc’ để củng cố sự hỗ trợ, chiến thắng người hoài nghi và làm an lòng những người chống đối. Các nhà lãnh đạo của GLEN tin rằng đường lối đáng mong ước hơn cả trong việc vận động các thay đổi xã hội lâu dài là tạo pháp (legislate) từ từ, chờ đợi để cổ vũ hôn nhân đồng tính cho tới lúc dân chúng quen thuộc với tính bình thường của các cuộc kết hợp dân sự”.

Điều đáng nói: các tặng khoản GLEN nhận được phần lớn là của Atlantic Philanthropies, một cơ quan cấp tặng khoản của tỷ phú Chuck Feeney, người Mỹ, mà cho tới năm 2014 đã cấp tổng cộng 7 tỷ mỹ kim cho các cơ sở đấu tranh cho phẩm giá những người thất thế trong xã hội. Họ cũng cấp cho Marriage Equality, mà danh xưng xuất hiện trên phiếu trưng cầu dân ý của Ái Nhĩ Lan, một ngân khoản lên tới 475,215 Mỹ Kim; cho Hội Đồng Các Quyền Tự Do Dân Sự Ái Nhĩ Lan 7,727,700 mỹ kim từ 2001 tới 2010, và 3,829,693 mỹ kim từ 2010 tới 2013. Cả ba tổ chức này đều nằm trong chiến dịch Yes Equality vận động cho câu trả lời Có trong cuộc trưng cầu dân ý ở Ái Nhĩ Lan về hôn nhân đồng tính vừa qua.

Tại Hoa Kỳ, hãng tin CNA, ngày 30 tháng Bẩy, năm 2015, có cho hay: hàng triệu dollars đã được đổ vào các cố gắng tranh đấu quyền đồng tính. Thực vậy, hai tổ chức Evelyn & Walter Haas Jr. Fund và Gill Foundation đã cấp ngân khoản 4.8 triệu dollars chủ yếu nhằm đánh phá những tổ chức nhân danh tự do tôn giáo chống lại hôn nhân đồng tính.

Oái oăm một điều là tiền bạc Công Giáo cũng đã được dùng để vận động cho việc thừa nhận người đồng tính. Thực vậy, CNA ngày 21 tháng 8, 2015, tường trình rằng: tiền quyên Công Giáo Thụy Sĩ dịp Mùa Chay đã được dùng để giúp tài trợ cho một dự án tranh đấu nhằm hóa giải các giám mục miền Tây Phi Châu tại Thượng Hội Đồng sắp tới về gia đình.

Kevin Jones của hãng tin trên cho biết rõ thêm: Nghị Hội Âu Châu Các Nhóm LGBT (đồng tính và đổi tính) Kitô Giáo, đặt trụ sở tại Hòa Lan, dự tính làm một cuốn phim tài liệu nói về những người Công Giáo tự nhận là LGBT tại Ghana, Togo, Benin, Nigeria và Cameroon.

Trong phúc trình hoạt động năm 2014-2015, Nghị Hội cho biết: “Phản ứng lại ảnh hưởng cực kỳ tiêu cực của các giám mục Miền Tây Phi Châu đối với văn kiện sau cùng của Thượng Hội Đồng năm 2014 về Gia Đình, chúng tôi thấy cần phải đem tiếng nói của người LGBT Công Giáo của vùng này ra để nhiều người lưu ý hơn”.

Phúc trình trên nói rõ: dự án này được tài trợ một phần bởi Qũy Mùa Chay Fastenopfer của Công Giáo Thụy Sĩ. Đây là một cơ quan phát triển Công Giáo. Nó có truyền thống gây qũy trong mùa Chay. Tên tiếng Ý của nó là Sacrificio Quaresimale, nghĩa là “Hy Sinh Mùa Chay”.

Đức Cha Felix Gmur của giáo phận Basel, Thụy Sĩ, là chủ tịch của hội đồng quản trị Qũy Mùa Chay, tức hội đồng giám sát hoạt động của các nhóm Phi Chính Phủ. Hai trong số chín thành viên của hội đồng này do Hội Đồng Giám Mục Thụy Sĩ chỉ định, phần còn lại do một cơ quan biệt lập cử nhiệm.

Michael Brinkschroeder, đồng chủ tịch của Nghị Hội Âu Châu Các Nhóm LGBT Kitô Giáo, cho hay: sự yểm trợ của Fastenopfer được thực hiện dưới hình thức cấp khoản nhỏ, dưới 15,000 quan Thụy Sĩ, tương đương với 15,000 dollars và được giám đốc điều hành của qũy phê chuẩn, chứ không cần sự phê chuẩn của Đức Cha Gmur.

Tuy nhiên, nguyên sự kiện một cơ quan bác ái Công Giáo dùng tiền quyên Mùa Chay vào việc cổ vũ quyền người đồng tính đã đủ nói lên sự tắc trách của họ. Họ biết rõ mục đích của dự án này. Vì theo Romana Buchel của qũy, tài liệu của cuốn phim “sẽ được dùng cho việc nhậy cảm hóa liên quan tới Thượng Hội Đồng lần thứ hai về Gia Đình”.

Rất may là cuốn phim trên chưa thành hình vì người làm phim bỗng rút lui vì lý do sức khỏe. Tuy nhiên, thay vào đó, họ đã sử dụng hình thức phúc trình viết để chuyển tải cuộc phỏng vấn các người LGBT và các cộng tác viên của dự án.

Ai cũng biết, tại Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2014, các giám mục Phi Châu đã phản công các quan điểm phò đồng tính của một số khá lớn các giám mục Âu Châu. Từ đó, các ngài là mục tiêu để nhiều nhóm ủng hộ quyền đồng tính gây áp lực.

Các chủ tịch của các Hội Đồng Giám Mục Đức, Pháp và Thụy Sĩ, hồi tháng 5, 2015 đã triệu tập một hội nghị gần như bí mật để đẩy mạnh nghị trình ủng hộ đồng tính. Họ có gây áp lực nào lên các giám mục Phi Châu hay không thì không biết. Nhưng, theo John Allen, gần đây một giáo phẩm cao cấp của Phi Châu đoan hứa sẽ “không lay chuyển” trong quan điểm chống đồng tính luyến ái.

Vị giáo phẩm đó chính là Đức TGM Ignatius Kaigama của Jos, vốn được coi là trung tâm thần kinh của sinh hoạt Công Giáo tại Nigeria. Cuối tháng Tám này, trước một hội nghị Công Giáo tại Jos, Đức TGM Kaigama quả quyết: “Nền văn hóa hôn nhân đồng tính hoàn toàn xa lạ đối với cái hiểu của chúng ta về gia đình và không được áp đặt nó lên người Nigeria”.

Ngài cực lực lên án những người chỉ trích chủ trương trên, cho biết nhiều cơ quan và cơ sở truyền thông quốc tế không được nêu tên cố tình bóp méo những điều các giám mục lên tiếng, “ác ý giản lược chủ trương của chúng tôi vào việc chỉ biết cổ vũ việc trừng phạt người đồng tính nam nữ bằng án tù dài hạn! Đó quả là một đánh trống lảng cố ý, và là một hành vi làm sai lạc chủ trương của chúng tôi một cách xấu xa”. Theo ngài, chủ trương của các giám mục Phi Châu là “Không đối với hôn nhân đồng tính! Chúng tôi nhất định không lay chuyển!”.

Dù không tham dự Thượng Hội Đồng sắp tới, nhưng Đức TGM Kaigama, vốn là đương kim chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Nigeria, đặt hy vọng lớn vào nó: “Bất kể bạn thích hay không, Giáo Hội Công Giáo vẫn là một định chế mạnh mẽ. Tôi tin đang có chuyện kéo bè kéo đảng [chống Giáo Hội] bởi nhiều người khác, các người duy tục và các phương tiện truyền thông v.v…; họ là những người cảm thấy cần phải đo ván người không lồ này cách này hay cách khác”. Thành thử, Giáo Hội cần đứng vững, không để đức tin “bị mất hay ô nhiễm”.

Đức TGM Kaigama cho hay: trên đây không hẳn chỉ là quan điểm cá nhân của ngài, mà là quan điểm của mọi giám mục Nigeria: “bạn có thể đánh thức bất cứ vị giám mục nào của Nigeria và hỏi ý kiến ngài về các vấn đề gia đình, ngài sẽ cho bạn hay ít nhiều y hệt như điều tôi vừa nói, từng lời một”.

Brinkschroeder cho rằng với thái độ trên, các giám mục Phi Châu đã không chu toàn điều ông gọi là “bổn phận của Kitô hữu phải tránh các dấu hiệu hỗ trợ cho việc kỳ thị bất công và đầy bạo lực”.


Các giám mục Phi Châu chắc chắn sẽ là lực lượng nòng cốt hóa giải các cố gắng tiêu cực của một số giám mục Âu Châu tại Thượng Hội Đồng sắp tới về Gia Đình. Các vị giám mục Âu Châu này chắc chắn là động lực khiến cho hình thức dùng tiền quyên từ tín hữu Công Giáo để yểm trợ cho đồng tính luyến ái, một việc mới xẩy ra lần đầu tại Thụy Sĩ.

Vũ Văn An