Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2024

Vì sao đàn ông có râu hấp dẫn hơn?

 

Thứ sáu, 26/4/2024, VnExpress.net

Vì  sao  đàn  ông  có  râu  hấp  dẫn  hơn?

Hôm 23/4, mạng xã hội lan truyền bức ảnh chế CEO Meta Mark Zuckerberg với bộ râu quai nón. Nhiều người nhận xét Mark trông hấp dẫn hơn.

"Thật điên rồ khi một bộ râu có thể thay đổi cuộc đời một người đàn ông", một người nói đùa khi xem bức ảnh thật của CEO Meta và bức ảnh đã được gắn râu.

Nhiều phụ nữ có ảnh hưởng về thời trang lẫn người nổi tiếng đều tỏ ra thất vọng khi biết bức ảnh Zuckerberg có râu là ảnh giả. "Zuckerberg đã mang lại nguồn năng lượng to lớn với bộ râu", nữ diễn viên người Mỹ Christal Luster, nói.

 

Zuckerberg thật (bên trái) và khi đã được người dùng mạng chế thêm râu. Ảnh: INSTAGRAM//MIKE RUNDLE/X

Thực tế, nhiều nghiên cứu đã chứng minh đàn ông được cả hai giới đánh giá trưởng thành và nổi trội hơn khi để râu.

Rob Brooks, giáo sư tiến hóa tại đại học New South Wales (Sydney, Australia), người thực hiện một nghiên cứu tương tự cho biết kết quả này không gây ngạc nhiên, vì nội tiết tố nam testosterone có liên quan đến sự xuất hiện và phát triển của râu trên mặt.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Evolution & Human Behavior số tháng 5/2016, Brooks và cộng sự phát hiện phụ nữ thích đàn ông có râu khi tìm kiếm bạn đời lâu dài và đánh giá khả năng làm cha của nam giới dựa vào bộ râu.

Các nhà nghiên cứu yêu cầu 8.500 phụ nữ trưởng thành đánh giá các bức ảnh của nam, trong đó có người có râu và không râu về sức hấp dẫn hình thể lẫn tuổi thọ mối quan hệ. Kết quả là tất cả phụ nữ đều thích nam giới có râu.

So với những người cạo râu sạch sẽ, nam giới có râu được đánh giá cao hơn, được xem là nam tính hơn, có uy thế xã hội hơn và năng nổ hơn.

"Bộ râu có thể hấp dẫn khi đánh giá các mối quan hệ lâu dài, như một tín hiệu về sự mạnh mẽ của giới tính và khả năng mang lại lợi ích trực tiếp cho phụ nữ'', các nhà nghiên cứu viết.

Barnaby Dixson, tác giả chính của nghiên cứu và là nhà sinh thái học hành vi con người tại đại học Sunshine Coast (Australia) nói có thể râu mang lại cho khuôn mặt đường nét rõ ràng hơn, nâng cao nhận thức về tuổi tác cũng như sự nam tính.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu, phụ nữ thấy hấp dẫn nhất là bộ râu mọc dài trong khoảng 10 ngày và không thích người để râu quá dài, rậm rạp. "Có lẽ do phụ nữ luôn hướng đến việc giữ vệ sinh và chăm chút hình thức'', Brooks nói.

Không chỉ phụ nữ, nghiên cứu của Dixson thực hiện với đàn ông và phụ nữ ở Brazil, Cộng hòa Czech cho thấy so với phụ nữ dị tính, đàn ông đồng tính có sở thích đặc biệt hơn với nam giới có nhiều râu trên mặt.

Nhật Minh (Theo Huffpost)

Những loại quả giúp giảm say tàu xe

 

Thứ bảy, 27/4/2024, VnExpress.net

Những  loại  quả  giúp  giảm  say  tàu  xe

Trời nắng nóng, di chuyển nhiều, bạn có thể uống nước chanh, dừa, ăn cam, quýt để tránh say nắng, say nóng, say tàu xe.

Tình trạng say tàu xe xảy ra ở một số người là do sự mâu thuẫn giữa các luồng tín hiệu gửi tới não hoặc tiền đình bị kích thích quá mức. Ngoài ra, không gian kín, mùi khói thuốc, mùi xăng dầu của xe... cũng gây say. Thời tiết nắng nóng, di chuyển đường dài, trẻ nhỏ và phụ nữ có thai dễ bị say xe hơn người khác.

Lương y Bùi Đắc Sáng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hội Đông y Hà Nội, tư vấn một số loại quả giúp giảm nhiệt, hạn chế say xe, tránh mệt mỏi, như sau:

Quả chanh

Chanh chứa nhiều vitamin C, chất chống oxy hóa. Một quả 60 g cung cấp khoảng 30 mg vitamin C, chiếm 30% lượng vitamin C khuyến nghị một ngày của người trưởng thành. Chanh còn chứa vi chất khác như magie, sắt, kali, vitamin A góp phần tăng cường hệ miễn dịch. Vitamin và khoáng chất trong quả này giúp gan sản xuất dịch mật, hỗ trợ tiêu hóa. Khi đi đường, bạn có thể uống nước chanh giải nhiệt, giảm mệt mỏi. Tuy nhiên, chanh có vị chua và tính axit. Người bị dạ dày, đường ruột nên hạn chế uống.

Quả cam, quýt

Cam, quýt rất giàu vitamin C giúp bạn lấy lại tinh thần, bổ sung nước khi di chuyển nhiều, tránh say nắng, say nóng. Ngậm một chút vỏ quýt, chanh có thể có thể giảm cảm giác nôn nao, hạn chế nguy cơ ói mửa, buồn nôn khi di chuyển bằng tàu xe.

Nước dừa

Nước dừa có tính hàn, giải nhiệt, làm mát, chống mất nước. Nước dừa giúp giải khát, thanh lọc cơ thể hiệu quả. Ngoài bổ sung chất dinh dưỡng và các vitamin, nước dừa còn hỗ trợ tiêu hóa do có lượng chất xơ cao, tốt cho tiêu hóa. Nước dừa không có chất béo, rất ít calo.

Mía

Trong Đông y, mía tính lạnh, vị ngọt mát tự nhiên, có công dụng giải nhiệt, thanh lọc cơ thể, dễ hấp thụ. Mía còn cung cấp lượng đường và nước cho cơ thể, thích hợp để giải rượu. Lưu ý, khi uống giải rượu, nên dùng mía ép tươi chứ không dùng đường chế từ mía đã tinh luyện.

Dứa

Dứa giàu chất xơ, kích thích ruột co bóp, làm mềm phân, thúc đẩy chất thải ra ngoài nhanh hơn, cải thiện tình trạng đầy hơi và tiêu hóa kém.

Ngoài ra, bạn có thể lót dạ bằng bánh quy để giảm cảm giác buồn nôn, khó chịu. Ăn bánh mì nướng hoặc nhai kẹo cao su để ức chế các cơn buồn nôn, giảm ói mửa, chóng mặt.

Những người bị say tàu xe chỉ nên ăn lót dạ, tránh quá no hoặc để bụng đói. Tránh thực phẩm cay nóng, nhiều dầu mỡ, đồ uống có cồn. Nên ngồi ở ghế trên hoặc gần cửa sổ, nhìn xa. Tuyệt đối không đọc sách báo hoặc nhìn vào điện thoại, máy tính khi ngồi trên tàu, xe.

Dùng một số loại thuốc phòng chống say tàu xe hoặc thuốc dạng miếng dán sau tai. Giữ tinh thần thoải mái, không quá căng thẳng.

VƯỢT QUA HỘI CHỨNG BẤT HẠNH

 

Sat, 27/04/2024 - Trầm Thiên Thu

VƯỢT  QUA  HỘI  CHỨNG  BẤT  HẠNH

Theo một cuộc thăm dò chiều dọc gần đây của Gallup (2006-2021), mức độ bất hạnh đã gia tăng đáng kể và liên tục ở cấp độ toàn cầu – ngay trước và sau cuộc khủng hoảng Covid. Cuộc thăm dò năm 2022, Gallup cho biết: “Mọi người cảm thấy tức giận, buồn bã, đau đớn, lo lắng và căng thẳng hơn bao giờ hết.” Có lẽ đáng lo ngại hơn là tỷ lệ mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng ở người trẻ đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian 10 năm – từ 8,1% (2009) lên 15,8% (2019), theo Tạp chí Sức Khỏe Vị Thành Niên (tháng 3-2022). Làm sao chúng ta có thể giải thích dữ liệu này?

Tôi cho rằng câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở cách phân tích triết học có từ thời Aristotle, phân tích thần học có từ thời Thánh Augustinô, và phân tích tâm lý do Abraham Maslow khởi xướng. Trong cuốn “The Four Levels of Happiness” (Bốn Cấp Độ Hạnh Phúc), tôi xây dựng dựa trên hai cách hiểu sâu sắc của Aristotle:

1. Hạnh phúc là thứ bạn có thể chọn cho mình, mọi thứ khác đều được chọn vì hạnh phúc. Do đó, cách chúng ta định nghĩa hạnh phúc sẽ ảnh hưởng mọi quyết định chúng ta trong cuộc sống. Không gì có thể quan trọng hơn.

2. Có những mức độ hạnh phúc mà những mức độ cao hơn lan tỏa, kéo dài và sâu xa, còn những mức độ thấp hơn thì lấy cái tôi làm trung tâm, tồn tại ngắn ngủi và hời hợt. Mức độ hạnh phúc cao hơn đem lại hạnh phúc lớn hơn và lâu dài hơn mức độ hạnh phúc thấp hơn. Nếu chúng ta chỉ sống cho những người thấp kém, chúng ta có thể sẽ cảm thấy trống rỗng, xa cách, không thỏa mãn, chán nản, lo lắng và đôi khi tuyệt vọng. Bốn cấp độ hạnh phúc là gì?

Cấp độ 1 (mức thấp nhất): Thỏa mãn những ham muốn thú vui vật chất – rượu ngon, nhà đẹp, vật chất dồi dào và thỏa mãn nhục dục. Mặc dù nó đem lại sự hài lòng ngay lập tức, hấp dẫn bề ngoài và tạo ra niềm vui, nhưng nó không vượt xa bản thân, không tồn tại lâu dài hoặc không tạo sự đóng góp chất lượng.

Cấp độ 2: Hạnh phúc so sánh với cái tôi – tìm kiếm sự thỏa mãn cái tôi và lợi thế so sánh. Nó đặt ra câu hỏi: Ai đạt được nhiều hơn và ai ít hơn? Ai thông minh hơn hay kém hơn? Ai có nhiều quyền lực hơn và ai ít hơn? Ai nổi tiếng hơn và ai ít hơn? Ai đẹp hơn và ai kém hơn? Càng có nhiều lợi thế so sánh trong các lĩnh vực này thì người đó càng hài lòng với cái tôi hơn. Mặc dù việc thỏa mãn cái tôi có thể khá mãnh liệt, nhưng khi nó trở thành mục đích – điều duy nhất sẽ làm chúng ta thỏa mãn, nó sẽ dẫn đến một loạt các trạng thái quan hệ và cảm xúc tiêu cực, kéo theo mức độ trầm cảm và lo lắng cao.

Mặc dù cấp độ 1 và 2 có thể tạo ra sự hài lòng mãnh liệt, nhưng việc nhấn mạnh quá mức vào chúng có thể tạo ra sự bất hạnh sâu sắc. Sự nhấn mạnh quá mức này nằm ở trung tâm của sự gia tăng đáng kể về sự bất hạnh trên toàn cầu được mô tả ở trên – đặc biệt là ở giới trẻ.

Kể từ khi xuất bản Văn Hóa Tự Yêu Mình của Lasch, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra một cách thuyết phục rằng những người tự yêu mình không chỉ gây đau khổ cho cuộc sống của những người xung quanh mà còn cho chính cuộc sống của họ (nghiên cứu của NIH – National Institutes of Health, năm 2022). Như cuốn sách của tôi cho thấy, việc lựa chọn sống

vì lợi ích so sánh bản ngã, sự ngưỡng mộ, sự thống trị người khác và cảm giác vượt trội sẽ dẫn đến gia tăng rõ rệt về tính ghen tị, mặc cảm, sợ mất lòng tự trọng, sợ thất bại, tủi thân, giận dữ bản ngã, tự trách mình, khinh thường, cô đơn, trống rỗng, trầm cảm và lo lắng do các trạng thái cảm xúc tiêu cực. Cấp độ 2, với tư cách là mục đích cuối cùng, gần như là sự tiêu cực thực sự. Vấn đề là văn hóa, phương tiện truyền thông xã hội và phương tiện truyền thông truyền thống hầu như chỉ tập trung vào quan điểm về hạnh phúc và mục đích trong cuộc sống. Ngày nay, 70% các nền văn hóa của chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, đều theo quan điểm này (cả ngấm ngầm và rõ ràng). Không gì đáng ngạc nhiên khi tỷ lệ trầm cảm, lo lắng, giết người và tự tử trong giới trẻ tăng gấp đôi.

Vậy làm thế nào để vượt qua nỗi bất hạnh sâu sắc này? Tóm lại, nhấn mạnh nhiều hơn vào hạnh phúc cấp độ 3 (đóng góp) và cấp độ 4 (siêu việt/tôn giáo). Hãy bắt đầu với cấp độ 3. Chúng ta không chỉ mong muốn nâng cao thế giới bản ngã của mình (cấp độ 2) mà còn tạo ra sự khác biệt tích cực cho thế giới xung quanh. Hầu hết mọi người đều mong muốn và cần tạo ra sự khác biệt tích cực cho gia đình, bạn bè, cộng đồng, nơi làm việc, nhà thờ, văn hóa, xã hội, và thậm chí cả Nước Chúa. Khi thực hiện các mong muốn này, chúng ta không chỉ đến gần

với những người mà chúng ta đóng góp mà còn nhận được sự nâng cao về giá trị bản thân và mục đích trong cuộc sống. Nếu có đức tin, chúng ta cũng đến gần Thiên Chúa hơn. Điều này có thể giải thích tại sao các nghiên cứu cho thấy những người có định hướng phục vụ và đóng góp thì sẽ hạnh phúc hơn, thỏa mãn hơn và an toàn hơn về cá tính cũng như cuộc sống của họ. (nghiên cứu của NIH năm 2013)

Cấp độ 3 có đủ không? Kể từ thời Plato và Aristotle, phần lớn cộng đồng triết học, thần học và tâm lý học đã trả lời là “không.” Một nghiên cứu gần đây của Hiệp Hội Tâm Thần Hoa Kỳ, và nhiều nghiên cứu khác, cho thấy rằng khi so sánh với những người theo tôn giáo, những người không theo tôn giáo có tỷ lệ trầm cảm, lo lắng, lạm dụng chất gây nghiện, căng thẳng gia đình, chống đối xã hội, tự tử,... cao hơn nhiều. (Dervic và cộng sự 2004, Koenig 2009 và 2015, Bonelli và cộng sự 2012, Lassi và Mugnaini 2015, Ronenberg và cộng sự 2016) Nếu những nghiên cứu tâm lý và tâm thần này cũng như những nghiên cứu triết học và thần học về bản chất siêu việt của con người là đúng, thì hạnh phúc, sự thỏa mãn và bản sắc của chúng ta – chưa kể đến sự cứu rỗi vĩnh cửu của chúng ta – đều phụ thuộc vào việc thực hành tôn giáo, tâm linh. Có vẻ như Thánh Augustinô đã đúng khi cầu nguyện: “Vì Chúa đã dựng\nên chúng con cho chính Ngài, và lòng chúng con bồn chồn cho đến khi được yên nghỉ trong Ngài.” (Tự Thuật, quyển 1)

Nhiều người trong chúng ta không thể nhảy vào đức tin chỉ vì nó sẽ khiến chúng ta hạnh phúc hơn. Chúng ta muốn có một số bằng chứng cho thấy một thực tại siêu việt thiêng liêng (tức là Chúa) thực sự tồn tại và quan tâm chúng ta cũng như những lựa chọn của chúng ta. Trong cuốn sách của tôi (chương 11-12), tôi đưa ra bằng chứng khoa học và hợp lý đáng kể về Thiên Chúa (Tạo Hóa/quyền lực siêu việt) và cuộc sống sau khi chết từ các nghiên cứu y học được kiểm duyệt về trải nghiệm cận kề cái chết, sự minh mẫn cuối cùng và trí thông minh trong các bệnh nhân não úng thủy cũng như bằng chứng khoa học đương đại (đặc biệt là vũ trụ học) về sự khởi đầu (ngụ ý sự sáng tạo) của thực tại vật lý (cho dù đó chỉ là vũ trụ, đa vũ trụ, vũ trụ to lớn hoặc vũ trụ trong không gian đa chiều của lý thuyết chuỗi). Tôi cũng khám phá bằng chứng về trí thông minh siêu việt từ việc tinh chỉnh sự sống trong các điều kiện và hằng số ban đầu của vũ trụ cũng như những mong muốn siêu việt của chúng ta về sự thật, tình yêu, lòng tốt, vẻ đẹp và sự tồn tại hoàn hảo.

Điều thú vị là hầu hết các khoa học gia đều đồng tâm nhất trí về sự hiện hữu của Thiên Chúa và cuộc sống sau khi chết. Theo khảo sát mới nhất của tổ chức Pew, 51% khoa học gia (nói chung) và 66% khoa học gia trẻ tin vào Thiên Chúa hoặc một sức mạnh siêu việt. Ngoài ra, theo khảo sát mới nhất của Tạp chí Tôn Giáo và Sức Khỏe, 76% bác sĩ tin vào Thiên Chúa hoặc một sức mạnh siêu việt – và theo tổ chức nghiên cứu HCD và Viện Finkelstein, 73% bác sĩ tin vào thực tế của phép lạ (theo tự nhiên) và những hiện tượng khoa học không thể giải thích được. Có vẻ như những bằng chứng trên đã cho phép phần lớn các khoa học gia và bác sĩ đạt được niềm tin hợp lý, có niềm tin vào Thiên Chúa và sự quan phòng.

Niềm tin đơn giản vào Chúa có đem lại hạnh phúc, thỏa mãn và mục đích cao cả trong cuộc sống? Mặc dù nó giúp chúng ta đi tiếp nhưng vẫn chưa đủ. Những nghiên cứu trên chỉ ra rằng việc liên kết và thực hành tôn giáo mới là điều thực sự đưa hạnh phúc của chúng ta lên mức cao nhất, viên mãn nhất. Các tín hữu tham gia cộng đồng tôn giáo, cầu nguyện và cố gắng đến gần Chúa hơn về mặt tinh thần và đạo đức, không chỉ thấy mình hạnh phúc và mãn nguyện mà còn được cuốn hút vào sức mạnh yêu thương của Chúa Quan Phòng kéo họ hướng tới mục đích vĩnh cửu thực sự và phẩm giá của họ.

LM. ROBERT SPITZER

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

KHUÔN MẶT THIÊN CHÚA

 

Fri, 26/04/2024 - Trầm Thiên Thu

 

KHUÔN  MẶT  THIÊN  CHÚA

Khi chúng ta già đi, sự cám dỗ không hài lòng với cuộc sống của chúng ta có thể tăng lên. Nỗi sợ tuổi già, cùng với ký ức về những thất bại và sai lầm trong quá khứ, có thể che khuất những điều tốt đẹp trong thế giới xung quanh chúng ta. Một nền văn hóa tiêu dùng, xao lãng và gây mê, chính là những gì chúng ta đã tạo ra, nuôi dưỡng sự bồn chồn đó và thu lợi từ sự lo lắng thường kích động những ham muốn của chúng ta. Trong quá trình đó, nó đánh cắp thứ gì đó độc nhất của con người từ chúng ta. Nó thu nhỏ chúng ta thành một mớ ham muốn vật chất. Nó khiến chúng ta phẫn nộ với bất cứ điều gì siêu việt bởi vì những câu hỏi về ý nghĩa đe dọa bộ máy mong muốn và sở hữu nhiều hơn.

Đó là một trong những lý do tại sao vẻ đẹp – vẻ đẹp thực sự – dường như bị giảm sút trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vẻ đẹp thực sự thu hút chúng ta và thoát khỏi chính mình, nó kết nối chúng ta với những thực tế không thể biến thành hàng hóa. Nó tái thần thánh hóa thế giới, dù chỉ trong chốc lát. Khi làm điều đó, nó tố cáo sự thô tục, giễu cợt và hỗn loạn vốn là đặc điểm của cuộc sống đương đại.

Nhưng chúng ta tốt hơn so với sự thèm ăn cơ bản của mình. Chúng ta xứng đáng được hưởng thứ gì đó hơn là rác rưởi vật chất, bị thương mại hóa. Lý do rất đơn giản, trong cuốn “The Face of God” (Khuôn Mặt Thiên Chúa), triết gia Roger Scruton viết: “Khuôn mặt con người tỏa sáng trong thế giới vật chất bằng một thứ ánh sáng không thuộc về thế giới này – ánh sáng của tính chủ quan.”

Khoa học xã hội ngày nay có xu hướng quy các cá nhân thành các điểm dữ liệu và kinh nghiệm con người thành các mô hình hành vi. Tất nhiên sự thật là con người chúng ta là carbon hoạt hình, giống như mọi loài động vật khác. Chúng ta có bản năng và chúng ta sinh sản ít nhiều giống như mọi loài động vật khác. Nhưng chúng ta không giống bất kỳ loài động vật nào khác vì chúng ta có ý thức duy nhất về cá nhân và sự chết của mình. Điều đó giải thích nỗi sợ cô đơn và nhu cầu tìm kiếm ý nghĩa. Chúng ta là loài duy nhất chôn cất và tôn kính người chết. Bản chất của chúng ta là muốn nhiều hơn những gì cuộc sống này có thể đem lại, để cảm nhận rằng điều gì đó ngày càng cao hơn có thể xảy ra.

Một lần nữa, trong cuốn “The Face of God” (Khuôn Mặt Thiên Chúa), Scruton đã viết:

Loại bỏ tôn giáo, loại bỏ triết học, loại bỏ những mục tiêu cao hơn của nghệ thuật, và bạn tước mất những cách mà những người bình thường có thể thể hiện sự khác biệt của họ. Bản chất con người đã từng là điều đáng sống theo thì nay lại là điều sống cho qua ngày đoạn tháng. Chủ nghĩa giản lược sinh học nuôi dưỡng “sự sống cho qua” này, đó là lý do tại sao mọi người rất dễ mê nó. Nó làm cho sự hoài nghi trở nên đáng tôn trọng và sự thoái hóa trở nên sang trọng. Nó xóa bỏ đồng loại của chúng ta và cả lòng tốt của chúng ta.

Ngược lại, vẻ đẹp là sự xác định phẩm giá chung của con người. Nó nhắc nhở chúng ta về sự tốt đẹp của cuộc sống trong thời đại quá tự ái và chối bỏ quá khứ. Theo truyền thống Công giáo, đó là lý do có thái độ thù địch với nền văn hóa cao cấp, tới sự xuất sắc và chính xác trong đời sống tinh thần, gần đây hơn và hạn hẹp hơn là Thánh lễ Latinh truyền thống có thể có vẻ rất kỳ lạ.

Tôi lớn lên với hình thức Thánh Lễ cũ. Tôi không muốn quay lại với nó. Nó thường có thể máy móc và nhàm chán, và những cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II đã quá muộn và cần thiết. Khi thực hiện tốt, chúng tạo ra một hình thức thờ phượng vừa tôn kính vừa sâu sắc.

Nhưng điều mà Thánh Lễ xưa đã có, khi linh mục cử hành với lòng khiêm tốn và xác tín, là vẻ đẹp hiển nhiên lôi cuốn mọi giác quan, đặc biệt là thị giác, thính giác và khứu giác. Khi làm điều đó, nó truyền đạt mầu nhiệm của một thực tại vô hình một cách sống động – một Thiên Chúa chí thánh, một Thiên Chúa hoàn toàn khác chúng ta, nhưng đồng thời vẫn thân mật, yêu thương và nhập thể trong nhân tính của chúng ta.

Ngày nay người ta rời bỏ Giáo hội Công giáo và cộng đồng Kitô giáo lớn hơn vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng một trong những lý do đó là sự tầm thường thiếu thuyết phục, tư sản, có thể quá phổ biến trong việc thờ phượng của chúng ta – điều này sau đó sẽ lây nhiễm vào toàn bộ bầu không khí của đời sống Kitô hữu.

Quan điểm của tôi đơn giản thế này: Sự xấu xí giết chết tinh thần và giải thích động lực xúc phạm đã lây nhiễm rất nhiều “nghệ thuật” hiện đại. Sự xấu xí làm tê liệt trí tưởng tượng, làm mềm não và làm cứng lòng. Những người có đức tin khao khát vẻ đẹp, sự huyền bí và thuộc về một câu chuyện, câu chuyện về một cộng đồng sống động, tin tưởng, đang diễn ra và chân thực xuyên suốt các nền văn hóa và thời gian. Họ thường không nhận được điều đó ở các Giáo hội địa phương.

Trong cuốn “Beauty: A Very Short Introduction” (Vẻ Đẹp: Giới Thiệu Rất Ngắn), Scruton viết:

Nhu cầu về cái đẹp của chúng ta không phải là thứ mà chúng ta có thể thiếu mà vẫn được đáp ứng với tư cách là con người. Đó là nhu cầu phát sinh từ điều kiện siêu hình của chúng ta, với tư cách là những cá nhân tự do đang tìm kiếm vị trí của mình trong một thế giới chung và được chia sẻ. Chúng ta có thể lang thang khắp thế giới này, bị xa lánh, bực bội, đầy nghi ngờ và không tin tưởng. Hoặc chúng ta có thể tìm thấy ngôi nhà của mình ở đây, đến để an nghỉ trong sự hòa hợp với người khác và với chính mình. Kinh nghiệm về cái đẹp hướng dẫn chúng ta theo con đường thứ hai này: Nó cho chúng ta biết rằng chúng ta đang ở trong thế giới này, rằng thế giới đã được sắp xếp trật tự trong nhận thức của chúng ta như một nơi phù hợp với cuộc sống của những sinh vật như chúng ta. Nhưng những sinh vật như chúng ta... trở thành như ở nhà trên thế giới chỉ bằng cách thừa nhận tình trạng “sa ngã” của chúng ta... Do đó, trải nghiệm về cái đẹp cũng hướng chúng ta ra ngoài thế giới này đến một “vương quốc của những điều cuối cùng,” trong đó những khao khát bất diệt và khao khát sự hoàn hảo của chúng ta rồi cũng được đáp ứng.

Đây là lý do tại sao sự khao khát cái đẹp và khuôn khổ tâm hồn tôn giáo có liên quan mật thiết với nhau và rất quan trọng đối với sự hưng thịnh của con người. Cả hai đều xuất phát từ cảm giác khiêm tốn về sự không hoàn hảo của con người khi vươn tới cái siêu việt. Dù tốt hay xấu, đó cũng là lý do tại sao rất nhiều gia đình trẻ tìm kiếm vẻ đẹp và sự huyền bí của Thánh Lễ Latinh cổ xưa.

Chúng ta cần vẻ đẹp để nâng cao trí tưởng tượng của mình, hướng dẫn trực giác khoa học của chúng ta và chọc thủng những lời ba hoa và nọc độc của “sự thức tỉnh.” Chúng ta cần nó để nhìn rõ thực tế. Chúng ta cần vẻ đẹp vì nó giữ gìn con người chúng ta. Vẻ đẹp cho chúng ta biết rằng mặc dù tội lỗi và thất bại, thụ tạo chúng ta vẫn tốt lành. Và đằng sau đó là Đấng Tạo Hóa hằng yêu thương chúng ta.

 

FRANCIS X. MAIER

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

*****************

 

TỪ BỎ MÌNH

Trong Công giáo, ngoài hình phạt và chịu đau khổ, sự khổ hạnh được quan niệm như một cách thực hành cho phép tín nhân sống một cuộc sống trọn vẹn hơn – một cuộc sống có mục đích, tránh xa những điều phù phiếm không cần thiết, và sống gần Chúa hơn. “Từ bỏ mình” là thuật ngữ gợi lên hình ảnh của sự khổ hạnh nghiêm khắc, nghiệt ngã. Quả thật, từ bỏ mình là một trong những khái niệm thường bị hiểu lầm nhiều nhất trong hầu hết các truyền thống.

Phúc Âm đầy những cách đề cập việc từ bỏ mình. Chúa Giêsu có câu nói nổi tiếng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16:24) Đây không phải là lời kêu gọi về sự khốn khổ, mà là lời mời gọi tập trung. Giống như điêu khắc gia loại bỏ những phần cẩm thạch thừa để lộ ra một kiệt tác, sự từ bỏ mình khuyến khích chúng ta loại bỏ những gì không cần thiết để con người thật của chúng ta phát triển.

Thánh Augustinô lặp lại tình cảm này. Trong tác phẩm Quy Tắc, ngài viết: “Nếu sức khỏe cho phép, hãy kiểm soát sự thèm ăn của cơ thể bằng cách ăn chay và kiêng đồ ăn thức uống.” Ở đây, sự từ bỏ mình không phải là làm hại bản thân mà là đạt được sự cân bằng trong chừng mực và kiểm soát. Đó là nhận ra rằng niềm vui thực sự không đến từ những thú vui thoáng qua mà đến từ tính cách ổn định của con người.

Hãy nghĩ theo cách này: Hãy tưởng tượng rằng trái tim chúng ta có khả năng yêu thương hạn chế. Khi nó đầy những ràng buộc với của cải vật chất, những ham muốn trần tục, hoặc ích kỷ, thì sẽ có ít chỗ cho tình yêu Thiên Chúa lấp đầy. Việc từ bỏ mình giúp chúng ta dọn dẹp trái tim mình, buông bỏ những gì thực sự không quan trọng và tạo không gian cho mối quan hệ sâu sắc hơn với chính mình, với Thiên Chúa và với người lân cận.

Rõ ràng, sự từ bỏ mình không có nghĩa là sống thiếu niềm vui. Đó là sống “gọn gàng” hơn, sống hạnh phúc đích thực chứ không phụ thuộc ngoại tại. Thật vậy, sự từ bỏ mình có nghĩa là từ chối làm điều gì đó khiến giảm khả năng yêu thương, và làm điều đúng đắn.

Theo nghĩa đó, thực hành việc từ bỏ mình trở thành một hành trình giải thoát. Bằng cách buông bỏ những ràng buộc đang đè nặng, chúng ta có thể tự do tập trung vào những gì thực sự quan trọng: phục vụ Chúa, yêu thương người lân cận và sống có mục đích. Đó là cách thực hành giúp củng cố quyết tâm của chúng ta, trau dồi sự tập trung của chúng ta và cuối cùng cho phép chúng ta trải nghiệm cuộc sống trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn dành cho chúng ta.

 

DANIEL ESPARZA

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Báo động 'đại dịch' ung thư ở người dưới 50 tuổi

 

Thứ ba, 26/3/2024, VnExpress.net

Báo động 'đại dịch' ung thư ở người dưới 50 tuổi

Tiết lộ của Vương phi Kate Middleton về việc hóa trị ở tuổi 42 cho thấy một phần về thực trạng bệnh ung thư đang ngày càng trẻ hóa trên toàn cầu.

Theo Cancer Research UK (CRUK), hơn 375.000 trường hợp ung thư được phát hiện mỗi năm ở Anh, tương đương 1.000 ca mỗi ngày. Trong số 1.000 bệnh nhân này, có 100 người dưới 50 tuổi. Ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi và ruột chiếm phần lớn trong số ca chẩn đoán ung thư mới.

Anh không phải quốc gia duy nhất có nhiều ca ung thư ở người trẻ. Nghiên cứu do Đại học Edinburgh (Scotland) và Trường Y Đại học Chiết Giang (Trung Quốc) thực hiện, công bố trên tạp chí BMJ Oncology tháng 9 năm ngoái, cho thấy số ca ung thư ở người dưới 50 tuổi toàn cầu tăng gần 80% trong ba thập kỷ qua.

Các chuyên gia đã tổng hợp dữ liệu từ 204 quốc gia, gồm 29 loại ung thư. Họ đi sâu phân tích các trường hợp mới, tử vong, ý nghĩa sức khỏe và các yếu tố nguy cơ khiến người từ 14 đến 49 tuổi mắc bệnh kể từ năm 1990 đến năm 2019.

Trong khoảng thời gian này, số ca mắc ung thư khởi phát sớm trên toàn cầu tăng từ 1,82 triệu lên 3,26 triệu. Tỷ lệ tử vong ở độ tuổi 40, 30 hoặc trẻ hơn tăng 27%, tương đương hơn một triệu bệnh nhân dưới 50 tuổi tử vong vì ung thư mỗi năm. Tiến sĩ Claire Knight, nhà quản lý thông tin y tế cấp cao tại Cancer Research UK, nhận định mức tăng ung thư như trên là "đáng báo động".

Trong số các bệnh ung thư, u ác tính đại tràng khởi phát sớm tăng một cách chóng mặt. Nghiên cứu của giáo sư Ogino, Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan, cho thấy mỗi năm, số ca mắc ung thư đại trực tràng ở thanh niên Mỹ, Australia, Canada, Pháp và Nhật Bản tăng khoảng 2%. Con số ở Anh, Scotland và xứ Wales là 3%. Ở Hàn Quốc và Ecuador là khoảng 5%.

"Tỷ lệ không lớn, nhưng hãy nghĩ đến tốc độ của nó. Nếu các ca ung thư ruột tăng 2% mỗi năm, con số sẽ cao đến thế nào trong 10 hoặc 20 năm tới?", Ogino nói.

Từ năm 1988 đến năm 2015, tỷ lệ ung thư trực tràng khởi phát sớm đã tăng từ 8 lên gần 13 trên 100.000 người (tương đương với 63%), theo đánh giá của Tạp chí Y học New England. Các nghiên cứu khác cho thấy cứ 10 trường hợp ung thư đại trực tràng ở Mỹ thì có một người trong độ tuổi từ 20 đến 50.

Nghiên cứu của Ogino chỉ ra "hiệu ứng thuần tập", nghĩa là nguy cơ ung thư khởi phát sớm ở thế hệ sau đều tăng lên so với thế hệ trước. Ví dụ, người sinh năm 1990 có tỷ lệ ung thư cao hơn so với những người sinh năm 1980.

 

Công nương Kate Middleton đến thăm Đại học Nottingham Trent để tìm hiểu về hệ thống hỗ trợ sức khỏe tâm thần, tháng 10/2023. Ảnh: People

Theo ông Ogino, độ tuổi ung thư trẻ hóa là do lối sống không lành mạnh, tình trạng béo phì, lười vận động, tiểu đường, thói quen uống rượu, hút thuốc, ô nhiễm môi trường, chế độ ăn nhiều thịt đỏ, làm việc theo ca và thiếu ngủ gây ra.

"Có rất nhiều yếu tố chưa được kiểm chứng khác như chất gây ô nhiễm hoặc phụ gia thực phẩm", ông nói, thêm rằng rất nhiều bệnh ung thư khởi phát sớm liên quan đến hệ tiêu hóa, cho thấy vai trò của chế độ ăn uống và hệ vi sinh đường ruột đối với sức khỏe.

Còn giáo sư Andrew Begss, bác sĩ phẫu thuật đại trực tràng tại Đại học Birmingham, nhận định lý do khác khiến các ca ung thư xuất hiện ngày càng nhiều là ý thức tầm soát sớm của người trẻ. Các phương pháp phát hiện ung thư đã tốt hơn, người dưới 40 tuổi cũng có nhận thức về triệu chứng và các yếu tố di truyền làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Maia Kennedy, 38 tuổi, sống tại Hackney, là một trong những bệnh nhân tầm soát ung thư sớm tại bệnh viện của giáo sư Begss. Cô thường xuyên bị buồn nôn vào tháng 12/2023 và đi khám. Ban đầu, bác sĩ cho rằng đây là chứng trào ngược axit dạ dày, song Kennedy không yên tâm và quyết định nội soi. Kết quả cho thấy cô có một khối u trong đại tràng. Cô được chỉ định làm phẫu thuật để cắt bỏ một phần ruột vào đầu năm nay.

Bản thân Công nương xứ Wales cũng phát hiện sớm nguy cơ mắc ung thư thông qua ca phẫu thuật bụng hồi tháng 1. Kate được chỉ định hóa trị phòng ngừa vào cuối tháng 2.

Để ngăn ngừa bệnh ung thư khởi phát sớm, các chuyên gia khuyên mọi người thực hành lối sống lành mạnh, chế độ ăn hợp lý, hạn chế tiêu thụ thuốc lá và rượu, tăng hoạt động ngoài trời.

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

7 thời điểm uống nước tốt cho sức khỏe

 

Thứ tư, 24/4/2024, Vnexpress.net

7  thời  điểm  uống  nước  tốt  cho  sức  khỏe

Buổi sáng thức dậy, ốm sốt, lúc đói, trước và trong khi hoạt động thể chất là những thời điểm thích hợp để bổ sung nước cho cơ thể.

Mọi tế bào trong cơ thể đều cần nước để duy trì hoạt động. Nước rất quan trọng đối với chức năng tiêu hóa, tim, phổi và não. Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ thuật và Y học Quốc gia Mỹ khuyến nghị nam giới nên uống ít nhất 13 cốc chất lỏng mỗi ngày và phụ nữ là 9 cốc. Lượng chất lỏng này bao gồm thực phẩm và đồ uống trong các bữa ăn.

Tuy nhiên, lượng nước uống hàng ngày phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể, mức độ hoạt động thể chất, tình trạng sức khỏe của mỗi người. Một số thời điểm dưới đây cơ thể cũng cần bổ sung nước.

Mới thức dậy

Buổi sáng là một trong những thời điểm tốt nhất để uống nước vì cơ thể đã trải qua một đêm dài không ăn uống. Thay vì chọn một ly cà phê ngay khi thức dậy, hãy uống một đến hai cốc nước. Sau khi ăn sáng, bạn có thể uống nước chanh để tăng cường các chất dinh dưỡng thực vật chống oxy hóa, vitamin C và kali.

Khi đang đói

Bộ não truyền dẫn những tín hiệu đói và khát khá giống nhau nên nhiều người không nhận ra rằng họ thực sự khát khi cơn đói ập đến. Nếu không thể ăn ngay lập tức, hãy uống một ít nước trước. Uống một cốc nước trước bữa ăn có thể tạo cảm giác no hơn và tránh ăn quá nhiều, có lợi cho người muốn kiểm soát cân nặng.

Đổ mồ hôi

Tắm hơi hoặc tắm bồn nước nóng, ở bên ngoài những ngày nóng oi bức khiến cơ thể mất nước do đổ quá nhiều mồ hôi. Uống nước vào lúc này có thể bù lại lượng nước đã mất.

Trước, trong và sau khi tập thể dục

Uống nước thường xuyên trong những ngày chuẩn bị tập luyện, nhất là cường độ cao hoặc đổ nhiều mồ hôi. Theo phòng khám Cleveland, các vận động viên nên tập trung vào chiến lược cung cấp nước bắt đầu từ tuần trước cuộc đua sức bền. Mất nước khi tham gia một cuộc đua sức bền có thể làm giảm hiệu suất.

Người tập bài tập chạy bộ ngoài trời, đi bộ vào buổi sáng hoặc đạp xe có thể uống một cốc nước trước khoảng 30 phút. Chuẩn bị một chai nước và uống 170-340 ml sau mỗi 10-15 phút khi hoạt động.

Khi ốm, sốt

Bổ sung nước có thể giúp nhanh khỏi bệnh. Các triệu chứng như tiêu chảy, nôn mửa và sốt thường khiến cơ thể mất nước. Khi có dấu hiệu đầu tiên của bệnh, nên uống nhiều nước, nhất là khi cảm thấy đói. Ưu tiên nước lọc, nước trái cây, tránh rượu và đồ uống có chứa caffeine vì chúng gây mất nước nhanh hơn.

Trước kỳ kinh

Một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra chuột rút hoặc đau đầu là mất nước. Uống nước cũng góp phần giảm triệu chứng tiền kinh nguyệt và đầy hơi trong kỳ kinh. Điều này còn có thể rút ngắn chu kỳ, giảm đau vùng chậu ở những phụ nữ bị đau bụng kinh nhiều.

Đau đầu

Đau nửa đầu có thể do mất nước gây ra, người bệnh cảm thấy choáng váng và trong một số trường hợp cần phải điều trị y tế. Người mắc chứng đau nửa đầu nên mang theo một chai nước bên mình và theo dõi lượng nước để uống khi có dấu hiệu đau.

CN IV PS - Được sinh ra trên Cõi Đời và Cõi Trời

 Sun, 21/04/2024 - 15:42

Tác giả: 
 Lm Dương Trung Tín

 

 

CN IV PS  

Được sinh ra trên Cõi Đời và Cõi Trời

 

  “Vậy xin tất cả quí vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: Chính nhờ Danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quí vị đã đóng đinh vào thập giá; Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh đang đứng trước mặt quí vị đây”(Cv 4,10).

 

   “Chính nhờ Danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là “Chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. “Danh” hay “Tên” chính là người đó. Người ta nói TÊN là NGƯỜI là như vậy. Dân Do-thái đâu có đóng đinh “TÊN” Giê-su Ki-tô vào thập giá đâu; họ đóng đinh Người có tên là Giê-su Ki-tô đó chứ. Và Thiên Chúa cũng không làm cho TÊN Giê-su Ki-tô trỗi dậy; mà làm cho Đấng có tên là Giê-su Ki-tô trỗi dậy.

 

   Đức Giê-su Ki-tô đó được Thiên Chúa làm cho trỗi dậy, tức làm cho Đức Giê-su Ki-tô PHỤC SINH. Theo sách Giáo Lý Công Giáo thì: “Sự phục sinh của Đức Ki-tô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và trong lịch sử. Trong cuộc phục sinh này, cả Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng chung hoạt động, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mình. Sự phục sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng “đã làm cho Đức Ki-tô, Con của Người sống lại”, nhờ đó, Chúa Cha đưa trọn nhân tính- cùng với thân xác của Đức Ki-tô vào mầu nhiệm Ba Ngôi một cách hoàn hảo. Đức Giê-su được mặc khải chung cuộc là “Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng theo Thánh Thần, do việc Người từ cõi chết sống lại””(x. GLCG, số 648).

 

    “Về phần Chúa Con, Người tự sống lại do quyền năng Thiên Chúa của mình”(x. GLCG, số 649). Vì Đức Giê-su có hai bản tính, nên xét về bản tính loài người, thì Thiên Chúa làm cho Người từ cõi chết sống lại; xét về bản tính Thiên Chúa, thì Đức Giê-su tự mình sống lại.

 

  “Các Giáo Phụ thì chiêm ngắm mầu nhiệm phục sinh từ Ngôi Vị Thiên Chúa của Đức Ki-tô. Ngôi Vị này vẫn kết hợp với hồn và xác đã bị cái chết tách rời. “Nhờ sự duy nhất của bản tính Thiên Chúa, nên bản tính Thiên Chúa hiện diện ở cả hai phần của con người “Ki-tô”, nên hai phần này có thể tái hợp với nhau. Như vậy, chết là sự tách rời hai phần của con người “Giê-su” và phục sinh là sự kết hợp hai phần đó lại”(x. GLCG, số 650).

 

   Có thể nói: “Sự Phục Sinh” xác nhận Thiên Tính thật của Đức Giê-su. Người đã nói: “Khi các ông đưa Con Người lên cao, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu”(Ga 8,28). Sự Phục Sinh của Đấng bị đóng đinh, chứng minh rằng Người thực sự là “Đấng Hằng Hữu”; là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thánh Phao-lô có thể tuyên bố với người Do-thái: “Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh Vịnh 2: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Tv 13, 32-33). Mầu nhiệm Phục Sinh liên kết mật thiết với mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. Sự Phục Sinh hoàn tất mầu nhiệm Nhập Thể theo ý định muôn đời của Thiên Chúa”(x. GLCG, số 653).

 

   Theo đó, có thể nói, mỗi người chúng ta có ba ngày sinh. Ngày sinh thứ nhất là chúng ta được sinh ra trên cõi đời này. Ngày sinh thứ hai là ngày chúng ta chịu phép rửa tội; ngày chúng ta được sinh ra trong Hội Thánh; và ngày sinh thứ ba là ngày chúng ta được sinh ra trên cõi trời. Trong ba ngày đó, Chúa nói với chúng ta rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.

 

   Chúa sinh chúng ta trên cõi đời này; Chúa sinh chúng ta trong Giáo Hội và Chúa sinh chúng ta trên cõi trời. Khi chúng ta được sinh ra trên cõi đời này, có sự giúp sức của cha mẹ chúng ta, chúng ta được làm một con người. Rồi khi chúng ta được rửa tội, chúng ta được sinh ra trong Giáo Hội Công Giáo, để từ đó, chúng ta sống trên trần gian này với tư cách là một con người và với tư cách là Con Thiên Chúa.

 

   Nhưng chúng ta sẽ ra sao; chúng ta sẽ như thế nào; chúng ta có được sinh trên cõi trời hay không, điều đó chưa được tỏ hiện. Khi Đức Ki-tô xuất hiện mà chúng ta không giống như Người thì nguy to. Nếu, khi Đức Ki-tô xuất hiện, Người thế nào chúng ta cũng giống Người như vậy, thì phúc cho chúng ta lắm. Khi đó chúng ta sẽ được sinh ra trên cõi trời.

 

   Để được như vậy, thì ngay khi còn sống trên cõi đời này, chúng ta phải noi gương Đức Giê-su mà sống; chúng ta phải nghe lời Đức Giê-su dạy và đem ra thực hành. Từng ngày và từng ngày, cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay, chúng ta dần dần nên giống Chúa; để rồi khi Đức Ki-tô xuất hiện hay khi chúng ta xuất hiện trước mặt Đức Ki-tô, chúng ta thấy mình giống Chúa. Càng giống Chúa bao nhiêu thì chúng ta sẽ được sinh vào cõi trời nhanh bấy nhiêu.

 

   Đức Giê-su Ki-tô là Mục Tử nhân lành mà. Đấng đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên; hy sinh mạng sống cho mỗi người chúng ta, để chúng ta được sinh ra trên cõi trời đấy. Vậy, chúng ta phải biết vâng nghe Vị Mục Tử nhân lành của chúng ta và chỉ vâng nghe một mình Người mà thôi. Vì, Dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác; không có một người nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó; phải nhờ vào Người đó mà được cứu độ, mà được sinh ra trên cõi trời đâu. Chỉ nhờ Danh của Đức Giê-su Ki-tô; chỉ nhờ một người là Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta mới được cứu độ; chúng ta mới được sinh ra trên cõi trời mà thôi. Vậy chúng ta hãy tin vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô và sống mầu nhiệm đó trong cuộc đời của mình, để chúng ta đã được Chúa sinh ra trên CÕI ĐỜI, chúng ta cũng sẽ được Chúa sinh ra trên CÕI TRỜI nữa.

 

(Lm. Bosco Dương Trung Tín)

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

5 điều người thành công không nói với bản thân

 

Thứ ba, 23/4/2024, VnExpress.net

5 điều người thành công không nói với bản thân

Điểm chung của nhiều người thành công là không bao giờ tự chỉ trích và cảm thấy chán ghét chính mình.

Tiến sĩ Emma Seppälä, giảng viên Đại học Yale (Mỹ), giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học giáo dục ĐH Stanford cho rằng mọi người nên tránh những cụm từ tiêu cực khá phổ biến sau đây.

"Mình không đủ tốt"

Đây là câu nói chạy trong đầu của hầu hết mọi người. Bộ não của chúng ta tập trung nhiều hơn vào tiêu cực hơn là tích cực. Nó giải thích vì sao nếu một người nhận được 9 lời khen và một lời chỉ trích, mọi người có xu hướng chỉ tập trung vào những lời chỉ trích.

"Mình không đủ tốt" khiến bạn cảm thấy lo lắng và chán nản. Do đó, thay vì tự phê bình, hãy tự hỏi bản thân, "Điều gì sẽ tốt cho mình lúc này?". Bạn có thể cần nghỉ ngơi, ăn uống hoặc đi dạo bên ngoài để giúp bạn cảm thấy tốt hơn. Bạn sẽ trở lại mạnh mẽ hơn và có tinh thần tốt hơn.

"Mình sẽ không bao giờ làm được điều này"

Câu nói này không chỉ làm mất tinh thần mà còn không chính xác về mặt khoa học. Bộ não dễ uốn nắn và có thể tiếp tục thay đổi, phát triển cho đến già - một hiện tượng mà các nhà thần kinh học gọi là neuroplasticity.

Bạn hoàn toàn có thể "nhảy việc" ở tuổi 50 và chơi piano ở tuổi 80. Bạn có thể học những điều mới bất cứ lúc nào và làm tốt hơn thông qua thực hành. Vì vậy, hãy nhắc nhở bản thân "mình cần luyện tập nhiều hơn".

Hãy nghĩ về điều gì đó mà bạn thường xuyên làm được một cách dễ dàng, dù đó là điều hành cuộc họp, nấu ăn hay đọc sách. Sau đó, nghĩ lại lần đầu tiên bạn cố gắng làm điều đó. Bạn sẽ thấy bạn đã được đi xa đến thế nào. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra khi bạn lặp lại nỗ lực ấy ngay từ hôm nay.

"Mình thật là một kẻ thất bại"

Câu nói này sẽ hủy hoại bạn, đánh đồng thất bại hiện tại với con người bạn. Nhớ rằng nếu không đạt được mục tiêu nào đó không có nghĩa là bạn đã thất bại ở mọi thứ. Nó không đồng nghĩa bạn chắc chắn sẽ thất bại trong tương lai hoặc bản thân bạn là một kẻ thất bại.

Thông thường, thất bại là cơ hội để phát triển và là bước đệm cần thiết trên con đường thành công. Do đó, thay vì tự trách móc, bạn nên nói với bản thân rằng "Mình đã học được rất nhiều". Kinh nghiệm sống giúp bạn khôn ngoan hơn và nhận thức rõ ràng hơn.

"Không thể tin mình đã làm điều ngu ngốc đó"

Bị gọi là kẻ ngốc là một trải nghiệm không dễ dàng. Nó khiến bạn thấy kiệt quệ và bị hạ thấp, có thể làm bạn ngừng cố gắng.

Tuy nhiên, cách duy nhất để học hỏi – dù một người bẩm sinh đã là thiên tài – là thử và phạm sai lầm. Chẳng hạn, trẻ sẽ ngã đôi lần trong quá trình tập đi. Chúng ta không gọi trẻ là ngu ngốc hay phán xét chúng mà cổ vũ cho đến khi trẻ tự bước đi liên tục. Thêm vào đó, mọi người không phán xét bạn khắc nghiệt như bạn nghĩ khi bạn mắc một sai lầm đáng xấu hổ.

Hãy cho bản thân sự khuyến khích tương tự mà bạn dành cho đứa trẻ mới biết đi khi bạn nghĩ về thứ gì đó không như ý. "Không ai hoàn hảo" và "mọi người đều phạm sai lầm" là những sự thật phổ biến. Khi nhắc nhỏ bản thân như vậy, bạn có thể thư giãn, hít thở và tiến về phía trước.

"Mình không giỏi bằng họ"

Khi so sánh bản thân với người khác, thật dễ dàng để cảm thấy bạn không bằng ai cả. Sự thật là không ai giống ai.

Thay vì tập trung vào việc mình không xinh đẹp, hài hước hay sáng tạo như người khác, hãy tập trung vào những phẩm chất của bạn. Chẳng hạn, bạn không biết kể chuyện cười nhưng người khác lại cảm thấy thoải mái khi ở bên bạn. Bạn không biết nhiều ngoại ngữ nhưng kỹ năng Excel lại vô song.

Bạn có thể hỏi bạn bè và đồng nghiệp về những điều họ đánh giá cao ở bạn. Những phản hồi ấy sẽ giúp bạn nhận ra bạn có ý nghĩa như thế nào với những người xung quanh, cũng như thế mạnh của bạn là gì. Nó làm tăng niềm tin vào bản thân và năng lực của bạn.

 

Huy Phương (Theo CNBC)

Bệnh do chấy rận

 

Thứ tư, 24/4/2024, VnExpress.net

Bệnh  do  chấy  rận


Chấy rận xuất hiện nếu quần áo hay môi trường không sạch sẽ, cắn hút máu người và động vật, gây ngứa ngáy khó chịu.

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi ThS.BS Thái Thanh Yến, Khoa Da liễu - Thẩm mỹ Da, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM.

Bệnh do chấy rận là gì?

- Chấy hay chí (gọi theo phương ngữ vùng miền) là loài côn trùng ký sinh cư trú ở trên da và tóc đầu người.

- Chấy sinh sống bằng cách hút máu vật chủ người cũng như thú vật. Chúng có cấu trúc ở phần miệng được thiết kế đặc biệt để xuyên qua da người và lấy máu.

- Chấy cắn gây ngứa, khó chịu cho con người, thường gặp nữ nhiều hơn nam.

- Chấy xuất hiện trong những điều kiện vệ sinh cá nhân kém hoặc sinh hoạt tập thể dùng chung các đồ dùng như quần áo, lược chải tóc, đặc biệt là trẻ tuổi đi học và học bán trú.

- Chấy thường phát tán qua sự tiếp xúc như chỗ ngủ chật chội, khu tập thể, doanh trại, nhà trọ hay trường học...

- Chấy không có cánh, kích thước cỡ 1,5-3 mm, mắt thường có thể nhìn thấy. Miệng có 6 đôi móc để bám vào da và một mũi nhọn chích hút máu người.

- Chấy rận có vòng đời với 3 giai đoạn là trứng, thiếu trùng và trưởng thành. Quá trình phát triển từ trứng đến trưởng thành mất khoảng 2 tuần. Chấy đẻ khoảng 200-300 trứng sau khi giao phối, trứng hình bầu dục, màu hơi vàng và thường nằm ở gần chân tóc. Trứng nở và trưởng thành trong khoảng 7 đến 12 ngày. Trung bình chấy sống khoảng 30 ngày, có thể sống sót suốt 48 tiếng dù không được hút máu.

- Chấy, rận trưởng thành có thể sống nhờ việc hút máu vài lần trong một ngày, nhất là môi trường ấm, như trên da người và động vật. Nếu vài ngày không được tiếp xúc với cơ thể người hay động vật, chấy sẽ chết.

- Ngoài ra, chấy rận có thể là vật trung gian truyền bệnh quan trọng, truyền bệnh sốt phát ban, sốt hồi quy, sốt chiến hào... Những vụ dịch sốt phát ban do chấy rận gây ra có thể gây biến chứng nguy hiểm và tử vong.

Triệu chứng

- Khi bị chấy cắn, người ta có cảm giác ngứa ngáy phải gãi đầu liên tục, có cảm giác kim chích trên da đầu, xuất hiện vệt đỏ trên da đầu, cổ hoặc vai, có vảy vùng da đầu.

- Chấy là loài hoạt động về đêm, do đó hay gây khó chịu nhất cho con người là vào ban đêm.

- Trường hợp chấy rận quá nhiều có thể làm nhiễm trùng da đầu và gây rụng tóc.

Chẩn đoán

- Bác sĩ kết hợp khám lâm sàng, xác định triệu chứng qua việc hỏi thăm những thói quen vệ sinh, sinh hoạt để có định hướng bệnh chấy rận.

- Các kỹ thuật chẩn đoán như tìm trứng chấy rận, tìm con trưởng thành để chẩn đoán.

Điều trị

- Có nhiều loại thuốc có khả năng điều trị hiệu quả. Tùy từng trường hợp và tình trạng người bệnh, bác sĩ đưa ra phương pháp điều trị phù hợp đạt kết quả điều trị cho người bệnh.

- Bản thân người bệnh cũng có thể tự điều trị:

Bắt trứng và chấy trưởng thành bằng lược đặc biệt.

Kiểm tra kỹ các nơi trên cơ thể có nguy cơ bị chấy rận để đảm bảo bệnh được điều trị tận gốc.

Kiểm tra các vị trí có thể nguy cơ chấy rận trú ngụ như quần áo, tủ quần áo, giường, chiếu, đệm...

Đảm bảo nơi ở được vệ sinh sạch sẽ, không còn nguồn bệnh lây lan.

- Người bệnh nên đến bác sĩ chuyên khoa khám để được kê toa và dùng theo chỉ định, tránh tác dụng phụ do thuốc.

Phòng ngừa

- Giặt quần áo, vật dụng bằng nước nóng. Chấy và trứng chấy không thể chịu được nhiệt độ cao. Chúng có thể chết sau khi tiếp xúc với nhiệt độ cao ít nhất 60 độ C và làm khô bằng nhiệt ít nhất 20 phút.

- Giặt bất cứ thứ gì chạm vào da hoặc da đầu của người bệnh, như áo khoác, mũ, khăn quàng cổ, vỏ gối, ga trải giường, băng đô...

- Đối với quần áo không giặt được, nên phơi nắng hoặc ủi bằng bàn là trước khi sử dụng. Có thể cho vật dụng dễ lây nhiễm này vào trong túi nylon ít nhất trong hai tuần.

- Hút bụi thảm, ghế sofa, vải bọc, đồ nội thất, sàn nhà để loại bỏ lông có thể có trứng chấy bám vào.

- Đối với những bề mặt như ghế sofa hay nệm, dùng các loại thuốc xịt diệt chấy rận và trứng của chúng. Sau khi xịt thuốc diệt, bạn không nên sử dụng những đồ vật này ngay. Hãy đợi khoảng hai tuần rồi sử dụng lại.

- Khu vực tập thể, như lớp mẫu giáo, cần giữ vệ sinh chung sẽ giảm được bệnh do chấy rận và rất nhiều lợi ích khác.

- Dùng thuốc trị chấy rận (Pediculicides) dưới dạng dầu gội, sữa tắm, kem xả... Nên tham vấn bác sĩ chuyên khoa để đảm bảo an toàn mỗi khi sử dụng thuốc này, nhất là cho trẻ nhỏ.

 

TIẾNG NGƯỜI LẠ

 

Tue, 23/04/2024 -  Lm Minh Anh

TIẾNG NGƯỜI LẠ


“Chúng sẽ không theo nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”.

Một người Mỹ du lịch Syria, thấy ba người chăn chiên dẫn đoàn vật của mình đi chung trên một con đường. Một lúc sau, người thứ nhất hô to, “Men ah! Men ah!”, tiếng Ả Rập là “Hãy theo tôi!”. Chiên của anh tách đàn, túc tắc theo anh lên một ngọn đồi. Người thứ hai cũng làm thế, chiên lững thững theo anh. Người Mỹ nói với người thứ ba, “Cho tôi mượn mũ, gậy của anh; tôi sẽ gọi, xem làm sao?”. Người ấy vui lòng. Người Mỹ gọi, “Men ah! Men ah!”. Chẳng con nào ngẩng lên! “Chiên không nghe ai khác, chỉ trừ một mình anh?”. Người ấy trả lời, “Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”. Lời Chúa hôm nay bất ngờ hỏi chúng ta, “Con có khoẻ không?”. Và hy vọng, bạn khoẻ, để từ chối ‘tiếng người lạ’ và chỉ nghe tiếng Giêsu - Chủ Chiên - như lời Ngài nói, “Chúng sẽ không theo người lạ!”.

Có lẽ chúng ta thường tự trấn an, ‘tiếng người lạ’ không ảnh hưởng mấy đến tôi! Thế nhưng, tiếng của ‘tin lạ’, ‘người lạ’, ‘tiền lạ’, dục vọng và các thứ khác… lại ảnh hưởng lên bạn và tôi nhiều hơn chúng ta tưởng. Và dù tin hay không tin, chúng vẫn tác động và áp lực mạnh mẽ! Chúa Giêsu nói đến sự khác biệt giữa tiếng mục tử và ‘tiếng người lạ’. Chiên dễ thuần thục khi được dạy để phản ứng có điều kiện, vì chủ chiên thường nói chuyện với chiên. Nghe anh, chiên ngẩng lên và đi theo anh; với người lạ thì không!

Điều này cũng đúng với chúng ta. Bạn sẽ đi theo tiếng mà bạn quen thuộc! Vậy thì bạn quen với điều gì nhất? Lý tưởng là chúng ta dành đủ thời gian cho việc đọc Lời Chúa, học ngôn ngữ, giọng điệu và tiếng của Ngài; lý tưởng là chúng ta dành một phần thời gian trong ngày, mỗi ngày, để im lặng đủ mà chiêm ngắm, cầu nguyện. Khi làm điều này, bạn xây dựng cho mình một ‘thói quen nghe’ và trở nên dễ chịu với tiếng Chúa. Một khi thói quen này được hình thành, chúng ta sẽ dễ dàng hơn rất nhiều trong việc nhận ra tiếng Chúa giữa những bận rộn ‘đời đời’ của mình và làm theo ngay!

Câu chuyện Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một minh hoạ. Những người đồng hương trách Phêrô vì ông giao du với người ngoại. Nhưng nhờ cầu nguyện và lắng nghe, Phêrô nhận ra tiếng Chúa qua câu chuyện dài mà ông đã kể, “Nghe xong, họ mới chịu im”; họ nói, “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”.

Anh Chị em,

“Chúng không nhận biết tiếng người lạ”. Chúa Giêsu không bao giờ nghe ‘tiếng người lạ!’; cuộc chiến của Ngài trong hoang địa 40 đêm ngày chứng tỏ điều đó. Ngài luôn hướng về Chúa Cha, quen với tiếng của Cha, nên Ngài luôn làm điều đẹp lòng Cha. Cũng thế, với chúng ta, đừng để ‘tiếng người lạ’ lấn át tiếng nói của Giêsu Mục Tử và Thánh Thần của Ngài! Ngài không bao giờ xa lạ; Ngài là bạn, là anh em, miệt mài nói to nói nhỏ với chúng ta mỗi ngày để bạn và tôi có thể ‘phản xạ có điều kiện’ mỗi khi Ngài gọi. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng nhạy bén để nghe được Ngài giữa bao bận rộn. Vì thế, hãy cẩn thận! Chúng ta luôn có nguy cơ bị phân tâm bởi những ‘tiếng lạ’ vốn luôn ngọt ngào, lôi cuốn. Đừng để mình thuộc số “Vài con bị bệnh, sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có lẽ con ‘không khoẻ’ lắm, nếu không nói là ‘bệnh’. Xin cứu con, để con không đi theo bất cứ ai!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

GIÁO DỤC CON KHI NÀO VÀ NHƯ THẾ NÀO

 

Mon, 22/04/2024 - Trần Mỹ Duyệt

GIÁO DỤC CON KHI NÀO VÀ NHƯ THẾ NÀO 

Trong câu truyện trao đổi về tuổi trẻ và những khó khăn của các bậc phụ huynh trong lãnh vực  giáo dục con cái ở thời điểm hiện tại, một người bạn đã hỏi tôi: “Điều gì quan trọng nhất mà những người làm cha mẹ phải dạy cho con mình?” Trong khi tôi còn đang suy nghĩ chưa biết phải nói gì, thì anh đã tự đưa ra câu trả lời: “Có tư tưởng cho rằng là dạy cho đứa trẻ khả năng để biết về những giá trị của tự lập và tự tồn tại”. Và anh đưa ra một dẫn chứng:

Bà cô của tôi có ba người con, một gái đầu và một gái út, giữa là một con trai. Không hiểu vì ý nghĩ “trọng nam khinh nữ” hay vì quá chiều con, mà thằng con trai được từ mẹ đến chị, đến em săn sóc, lo lắng. Nó không phải làm một chuyện gì dù lớn hay nhỏ trong nhà. Việc làm chính của nó là ăn và lêu lổng suốt ngày. Kết quả là cho đến nay, dù ở tuổi 50 mà nó chưa làm được một cái gì ra hồn. Lấy vợ rồi bị vợ bỏ. Sống nhờ vào sự giúp đỡ của mẹ qua chị và em gái. Hai người này đã có gia đình, nhưng vì thương mẹ nên vẫn giử tiền về cho mẹ, và dĩ nhiên, mẹ lại đi nuôi báo cô cái thằng vô dụng ấy. Tôi không biết vài ba năm nữa cô tôi chết thì tương lai của nó sẽ ra sao? Rồi anh kết luận: Chắc là tại cô tôi nuông chiều nó, nên nó không trưởng thành nổi, và cũng tại nó quá lười biếng!

Trường hợp trên cũng tương tự như một trường hợp mà tôi gặp tại văn phòng. Một thanh niên gần 30 tuổi, có trình độ đại học mà không biết luộc một quả trứng, nấu một tô mì. Tất cả là do mẹ làm, mẹ lo cho từng miếng cơm, manh áo, từng giấc ngủ, chỉ việc ăn rồi học. Kết quả là tuy đã tốt nghiệp đại học, người thanh niên này vẫn sống lệ thuộc vào mẹ, vẫn không dám lăn xả vào đời. Anh ta vẫn cô đơn, không xã giao, không bạn bè, và cũng không tìm được một việc làm thích hợp.

Tóm lại, hai câu truyện trên phần nào đã nói lên rằng nền giáo dục gia đình hết sức quan trọng. Chiều con, thương con nhưng không dạy con biết sống tự lập, biết tự tồn tại, biết sống có ý nghĩa bằng cuộc sống của mình là một sai lầm trong vai trò làm cha mẹ.

GIÁO DỤC CON KHI NÀO?

- Lý thuyết: Có tư tưởng cho rằng phải giáo dục đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời. Điều này hàm ý là để giúp những ai đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, gia đình và mong muốn làm cha mẹ. Họ cần phải sẵn sàng, nghiêm túc về vai trò làm chồng, làm cha, làm vợ và làm mẹ của mình.

Thực tế: Khi người mẹ biết mình có thai và khi người cha biết vợ mình có thai. Trong y khoa gọi thời gian là thai kỳ. Và người cha, người mẹ tương lai phải ăn uống, ngủ nghỉ, suy nghĩ, hành động như thế nào để ảnh hưởng tốt đến đứa trẻ sắp sửa sinh ra. Hành động này gọi là thai giáo.

- Tâm lý giáo dục: Theo tâm lý giáo dục, lúc đứa trẻ lên 3 tuổi là thời gian tốt nhất để bắt đầu việc giáo dục. Ca dao Việt Nam có câu: “Dạy con từ thuở lên ba”. Cũng theo tâm lý giáo dục, thời gian quan trọng nhất cho việc giáo dục là 5 năm đầu đời. Đây là thời điểm hết sức quan trọng để một em bé phát triển về thể lý, trí thông minh, xã hội tính.

DỰA THEO TÂM LÝ PHÁT TRIỂN

Tuổi nào khó khăn nhất của một đứa trẻ? Bình thường chúng ta vẫn nghe nói các em khi bước vào tuổi dậy thì sẽ gặp những khó khăn về mặt tâm lý và giáo dục. Thật ra, các em nhỏ từ 7 đến 10 tuổi đã bắt đầu cảm thấy bị căng thẳng khi tìm kiếm những điều đúng và tốt cho mình. Chúng sợ bị đánh đòn, bị chê, bị coi thường. Chúng cũng biết buồn, biết căng thẳng về bầu khí gia đình, vì chúng đang phát triển khả năng để đón nhận sự chấp thuận, đối đãi tử tế của người khác. Do đó rất thích được cha mẹ, anh chị, hoặc người khác khen và khích lệ.

Về mặt tính chất, từ  8 tuổi các em đã bắt đầu có những dấu hiệu bướng bỉnh, khó chịu. Những hành động như đóng sầm cửa khi không vừa ý, la hét, trợ mắt, giận hờn, nắm tay, dậm chân vừa bày tỏ thái độ phản đối, vừa là dấu hiệu chúng muốn chứng tỏ sự tự lập và tính thích độc lập. Ở tuổi này chúng bắt đầu thử thách sự nhẫn nại của cha mẹ. 

Bước sang tuổi dậy thì, khó khăn của tuổi này thuộc cả hai phái, trẻ nam cũng như trẻ nữ. Cha mẹ có con ở tuổi 12 tới 14 thường cảm thấy khó chịu hơn cả. Đây cũng là tuổi khó khăn nhất cho các em gái. Các tuyến nội tiết dậy thì bắt đầu hoạt động gây ra những cảm xúc khó chịu, trong khi đó, các em lại chưa hoàn toàn phát triển khả năng để thích ứng với những thay đổi ấy.

Về mặt tình cảm, con gái tuổi 16 là tuổi đẹp và duyên dáng. Tình yêu phát triển, các em trai gái ở tuổi này bắt đầu tìm hiểu và hẹn hò. Một số em trai phát triển sớm đã có bạn gái ở tuổi 15. Nếu chưa trưởng thành ở tuổi 16 thì phải chờ một hay hai năm sau. 

GIÁO DỤC NHƯ THẾ NÀO?

-         Bằng gương sáng chính mình: Sách Huấn Ca (Sirach) có viết: “Khi người cha nhắm mắt thì ông vẫn chưa chết, vì ông còn để lại sau ông một kẻ giống ông” (30:4). 

Như vậy, tầm quan trọng nhất của giáo dục. Nghệ thuật giáo dục cao nhất vẫn là gương sáng và đời sống gương mẫu của cha mẹ. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói: “Thầy đã làm gương để các con noi theo mà bắt chước” (Gioan 13:15). Theo gương Chúa, cha mẹ cũng phải biết giáo dục con cái về phần tâm linh, đạo đức. Nếu con người không được hướng dẫn bằng những giá trị đạo đức, họ sẽ chỉ sống theo lý trí và bản năng. Sẽ coi nhẹ nhân phẩm, tư cách và giá trị của một con người.  

- Sự đồng nhất của cha mẹ: Đây là chìa khóa thành công trong vấn đề giáo dục con cái. Sự bất hòa trong đường lối sẽ dẫn đến những tai hại trong giáo dục. Đứa trẻ sẽ mất định hướng, và sẽ nghiêng về phía người nào chiều chúng hơn. 

- Tránh so sánh giữa các con: Dù là con cùng một cha mẹ sinh ra nhưng tâm lý con trai khác với con gái. Tâm lý anh, chị khác với các em. Nên phải dựa theo từng lứa tuổi, từng hoàn cảnh và từng tâm tính của mỗi con để giáo dục và hướng dẫn. Sai lầm lớn nhất của cha mẹ là so sánh con này với con khác, khen con này mà chê con khác.

TRẺ EM HỌC VÀ PHÁT TRIỂN

- Sau khi sinh, trẻ em học bằng cách chơi hoặc khám phá các đồ vật và môi trường chung quanh.

- Những tiếp xúc hằng ngày giúp các em học những khả năng giao thiệp, suy nghĩ và giải quyết vấn đề. Nhờ đó, các em có thể tạo nên một hình ảnh lạc quan và tiếp tục trưởng thành trong tự lập. Chúng sẽ có khả năng để thử thách những tài năng mới trong phạm vy.

- Trẻ em học tốt nhất bằng cách trực tiếp qua việc học hành với cha mẹ, thầy cô, bạn bè, và qua va chạp thực tế với môi trường, cũng như qua sự cố gắng bằng nhiều hành động khác nhau. Một nền giáo dục sớm sủa có thế bắt đầu ngay trước 15 tháng tuổi và tiếp tục khi đứa trẻ lên 6 tuổi.  Những gì các em học được từ trường sẽ cung cấp những căn bản cho việc học hành tương lai, giúp phát triển khả năng xã hội, khả năng giao tiếp, và có những tương quan tốt hơn với những kết quả về tâm lý.

Như vậy một thanh niên gần 50 tuổi mà thiếu khả năng tự lập, không tự lo cho chính mình là người thiếu trưởng thành về tâm lý, thiếu tự tin, thiếu ý thức tự lập, và khả năng tự tồn tại. Cũng vậy, một thanh niên gần 30 tuổi, tuy có trình độ đại học, nhưng cũng vẫn chưa biết (hay không muốn) luộc một trái trứng, nấu một tô mì là thiếu khả năng tự sống, thu gọn trong không gian của riêng mình là thiếu khả năng giao tiếp xã hội, hoặc mang mặc cảm tự ty. Thanh niên này cũng chưa trưởng thành về tâm lý. Câu hỏi là lỗi tại ai? Vì người mẹ quá nuông chiều con hay không biết cách dạy con! Vì người con thiếu trưởng thành và không dám đối mặt với những khó khăn cuộc đời? Có lẽ cả hai.

Tóm lại, dạy con khi con bắt đầu lên ba. Dạy con sống trưởng thành, song song với việc phát triển lý trí và tâm linh.