Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Ly dị là ly dị khỏi hôn nhân, và khỏi cả thực tại


Ly  dị  là  ly  dị  khỏi  hôn  nhân,  và  khỏi  cả  thực  tại
(Thu, 28/08/2014 - Vũ Văn An – Thanhlinh,net)





Ly dị là vấn đề không đơn giản. Dù bạn có ý nghĩ gì về nó, vẫn có người nghĩ khác bạn. Nói cách khác, dù Giáo Hội có dạy sao, thì vẫn có người không hài lòng. Đó là ngụ ý của một bài đóng góp gần đây của Đức Ông Charles Pope, thuộc Tổng Giáo Phận Washington Hoa Kỳ.

Thực ra, chủ đích của bài báo muốn nói rằng: phần lớn những người ly dị nghĩ tới mình chứ không nghĩ tới con cái, vốn là một trong các lý do của cuộc hôn nhân của họ. Nhận định này được rất nhiều ý kiến đóng góp, kẻ khen người chê.


Ly dị và con cái
Trước nhất, ta hãy tìm hiểu xem Đức Ông Pope nói gì về chủ đề này. Ngài kể rằng cách đây ít năm, một phụ nữ giáo dân tới nói nói với ngài: bà và người chồng dự tính sẽ ly dị. Biết bà có hai đứa con đều dưới 10 tuổi, ngài hỏi bà: “còn xấp nhỏ?”. Bà bình thản cho hay: chính vì xấp nhỏ mà vợ chồng bà tính ly dị, vì không muốn chúng phải nghe những la ó, thóa mạ nhau hàng ngày của bố mẹ.
Nghe vậy, Đức Ông nói với bà: “sao ông bà không ngưng việc la ó, thóa mạ nhau. Không tự ý làm được, thì nhờ người khác giúp làm cho bằng được. Đừng bắt xấp nhỏ phải trả giá hơn nữa cho các nan đề của ông bà”.
Không những không nghe, người đàn bà còn tới bề trên của Đức Ông để kể tội Đức Ông thiếu mẫn cảm và xin vị bề trên này dạy Đức Ông biết mẫn cảm và ngoại giao hơn. Rất may vị bề trên này nhận ra: chính vợ chồng bà mới cần mẫn cảm và ngoại giao hơn đối với hai đứa con!

Điều thứ hai, Đức Ông Pope muốn nói là trong thập niên 1960, ly dị bị coi là điều ngỡ ngàng và sai lầm về luân lý. Năm 1969, đạo luật cho phép ly dị không cần lỗi lầm của ai chi cả đã ra đời. Trong non một thập niên sau đó, ly dị tiến từ chỗ gây ngỡ ngàng và bị xầm xì qua 1 hành vi chính dòng mà ai ai cũng nên có thiện cảm. Vả lại, há Thiên Chúa không muốn mọi người được hạnh phúc đó sao? Làm thế nào ta lại có thể bần tiện đến thế khi cứ nằng nặc cho rằng người ta nên ở lại các cuộc hôn nhân bất hạnh?

Người ta chú trọng tới hạnh phúc đến nỗi quên khuấy rằng trong hôn nhân còn có cả Thánh Giá nữa: “khi thịnh vượng… lúc gian nan; khi bệnh hoạn… lúc mạnh khỏe”. Những lời vừa kể, theo họ, chỉ là những công thức nghi lễ, buộc phải có thế thôi. Thậm chí, họ không tin Chúa Giêsu thực sự muốn nói tới Thánh Giá.
Chỉ trong mấy thập niên sau, họ đã tiến tới chỗ không coi hôn nhân như một tuân giữ lời hứa, hay cam kết, hoặc những gì tốt nhất cho con cái. Hôn nhân từ nay chỉ là chuyện của người lớn và điều gì làm họ hạnh phúc.

Trong một cuốn sách gần đây tựa là “Defending Marriage, 12 Arguments for Sanity” (Bảo vệ hôn nhân, 12 luận điểm cho sự lành mạnh”, Anthony Esolen đưa ra mấy nhận xét sau đây:
“Cha mẹ thường nói, ‘con cái tôi không thể nào hạnh phúc nếu tôi không hạnh phúc’, nhưng họ không nên đặt cái câu nói bôi dầu kiểu tự yêu mình đó lên tâm hồn họ. Con cái cần cha mẹ yêu thương chúng, chứ không cần những cha mẹ hài lòng; chúng quá non nớt để người ta có thể yêu cầu chúng hy sinh mạng sống vì một ai khác. Con cái không có bổn phận phải chịu đau khổ vì cha mẹ, nhưng nhiệm vụ cha mẹ là chịu đựng, là lợi dụng tối đa hoàn cảnh tồi tàn, là nuốt tự hào, là quì gối xuống, vì con cái. Tôi đã được nghe nhiều người giọng vẫn còn run run mỗi lần nói tới những gì cha mẹ ly dị của họ làm cho họ: thẩy họ hết từ nửa căn nhà này sang nửa căn nhà khác, biến họ thành người “chỉ điểm”, chống báng nhau, [đe dọa] họ rằng họ sẽ ít có cơ hội gặp gỡ người cha hoặc người mẹ họ yêu dấu nếu họ không chịu làm y hệt điều [người đe dọa] đòi hỏi…” (tr.142).
Ấy là chưa kể tới những nỗi khổ phải chịu đựng người bạn gái mới của cha vừa dọn vào ở chung, hay ông chồng mới của mẹ hoặc một ông anh hay em trai “kế” rất khó tính và bắt đầu rở trò rờ mó bậy bạ… Chưa hết, Esolen cũng nhận định lối người ta “giải thích” ly dị cho con cái:
“[Đứa con] phải được nói cho hiểu người cha, dù không đến nỗi nào, nhưng vì một lẽ ‘huyền nhiệm’ nào đó, vẫn không làm hài lòng được người mẹ, và một cách tệ hại đến nỗi sự không hài lòng này khiến bà không còn chọn lựa nào khác ngoài việc buộc con trai [hay con gái] bà phải sống như không có cha… Người lớn có tài một cách kỳ lạ trong việc dệt nên chung quanh mình những màng nhện tự lừa dối mình để tự vệ. Con cái đâu có… chúng chưa bị thói quen, tuyên truyền hay lịch sử bóp méo sự thật làm cùn nhụt, nên những gì chúng thấy, chúng thấy rất rõ” (tr.138).
Quả thế, con cái nổi tiếng về việc nhìn thấu sự giả hình của người lớn. Sự trong trắng ngây thơ của chúng luôn ngỡ ngàng trước tác phong tồi và sự bất nhất. Người bạn cùng lớp của Đức Ông Pope, có cha mẹ ly dị, vẫn lấy làm lạ tại sao “luật lệ’ trong nhà lại chỉ áp dụng cho cô mà thôi. Một hôm, cô hỏi người mẹ ly dị của cô tại sao bà không còn thương ba cô nữa. Bà trả lời: “nhưng má vẫn thương ổng mà”. Người cùng lớp thấy rõ sự dối trá nhằm để tự biện minh này nên đã thách thức mẹ cô trở về với cha cô. Mẹ cô chỉ còn biết nói: “con sẽ hiểu khi con lớn hơn”. Trong cái câu ngắn ngủi này, mẹ cô cố gắng vừa lên mặt cha chú với con gái vừa đưa cô vào cái thế giới hợm hĩnh và chuyên thỏa hiệp của thế hệ “baby-boomer” (nhiều con nít), một thế hệ, xét như một tập thể, chưa bao giờ biết trưởng thành và có lẽ là thế hệ tự yêu mình, ích kỷ, vị kỷ và ít trưởng thành nhất từ thời các nhà quí tộc xưa của văn hóa La Hy.

Xưa và nay

 Điều thứ ba, trước khi nói thêm về các tác hại của ly dị đối với con cái, Đức Ông Pope muốn minh xác: Ở đây ngài chỉ nói một cách tổng quát thôi, không nói tới các trường hợp cụ thể. Ngài biết mỗi cuộc ly dị đều có lịch sử riêng của nó, nên nhiều bạn đọc có thể tức giận hay tổn thương khi những điều trình bày ở đây không lưu ý tới những hoàn cảnh chuyên biệt và độc đáo từng khiến họ phải ly dị. Có những người đã làm hết cách để cứu vãn cuộc hôn nhân của mình mà vẫn không được. Điều ngài muốn nói là nền văn hóa ưa ly dị. Ngày trước, nói chung, người ta thường cố gắng giải quyết các dị biệt để ở lại với nhau. Ngày nay, người ta không còn làm như thế nữa.
Ngày trước, người ta hay cân nhắc tác dụng của ly dị đối với con cái. Ngày nay, một là người ta không cân nhắc việc này hai là con cái được đẩy xa xuống dưới bảng liệt kê các nhu cầu và ước muốn của người lớn. Ngài cho hay: ly dị xé nát các gia đình, gây hại nặng nề và gây tổn thương cho con cái về tâm lý, về xúc cản, về tâm linh và cả về thể lý nữa. Không thấy điều này, ta không những ly dị với hôn nhân, ta còn ly dị với thực tại nữa.
Nhiều người không tin như thế. Nhưng ta thử nói với những người có cha mẹ ly dị mà xem. Họ sẽ cho bạn nghe các sự phi lý họ từng phải chịu: nào là phải sống hòa sống thuận với anh em trong khi ba và má chơi theo luật khác. Họ sẽ cho bạn hay họ bị chở tới chở lui những căn nhà khác nhau ra sao, họ cảm thấy tội lỗi như thế nào khi thích một khung cảnh hay thích cha hoặc mẹ này hơn cha hoặc mẹ kia, phải sống ở hai căn nhà với những “bộ” luật khác nhau, phải nghe cha mẹ “xấu miệng” với nhau, bị cha mẹ “thử” lòng trung thành như thế nào … Hãy hỏi: vì những kinh nghiệm ấy, họ có ý niệm gì về sự chấp nhận, lòng trung thành, sự tin tưởng, tôn trọng thẩm quyền, trân quí sự thật, trách nhiệm bản thân, lòng can đảm, đức kiên nhẫn, lòng tha thứ, nhân phẩm, trách nhiệm tính dục, hôn nhân, gia đình, tình yêu, v.v…
Ta cần nhìn ly dị trong cái gian dối ma quái của nó. Nó phát sinh từ sự cứng lòng, như Chúa Giêsu nói trong Mátthêu 19.

Góp ý 1: sử dụng con cái làm vũ khí

Một người tên Deb chia sẻ rằng bà làm việc trong các dịch vụ xã hội đã được 33 năm, trong lãnh vực trợ giúp trẻ em. Nhưng bà vẫn chưa hết ngỡ ngàng trước cách con cái bị sử dụng làm vũ khí trong các vụ giải quyết ly dị… Người lớn quá tự yêu mình đến không còn khả năng hiểu các tai hại họ gây ra cho con cái. Không nên bắt những đứa trẻ 4 tuổi phải được sư trợ giúp của ngành phân tâm học!
Một nhà tâm lý học Công Giáo nhất trí với Deb. Dù hành nghề lượng giá tâm lý để kiếm sống, ông cũng nhận ra rằng: phần lớn, ly dị là một hình thức hơp pháp để hành hạ con cái. Phải chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, tranh chấp nhau, con cái bị đặt dưới một căng thẳng tâm lý khủng khiếp và sự căng thẳng này dẫn tới nhiều vấn nạn tâm lý trầm trọng nơi phân nửa số con cái chứng kiến cảnh ly dị của cha mẹ. Mọi con cái nạn nhân của ly dị đều học được rằng hôn nhân không kéo dài và trốn chạy/tránh né là bộ máy đệ nhất hạng để đương đầu ở trên đời.
Ông còn nhận định thêm và cho rằng ly dị cũng chuốc độc đối với các trẻ em thuộc các gia đình không có cha mẹ ly dị. Vì các em có thể có bạn bè có cha mẹ ly dị, nghe truyện của bạn, chúng cũng có thể bắt đầu hoài nghi chính chúng và cha mẹ chúng… Các tranh luận thông thường của cha mẹ chúng có thể gây nên nỗi sợ bị bỏ rơi nơi chúng…
 Ly dị tăng cường mối hoài nghi bản thân và chủ nghĩa hoài nghi triết học. Trẻ em các gia đình không ly dị có thể khởi đầu hoài nghi mọi thứ cam kết hiện có chung quanh chúng, và điều này dẫn tới lòng hoài nghi chính chúng. Vì ly dị đã thành phổ biến hiện nay, nên nó tạo hoài nghi nơi mọi trẻ em. Chúng ta đang ở trong thế hệ thứ ba của ly dị.
Là một người tìm hiểu bản chất con người, ông nghĩ xã hội đã tới cái điểm bất khả trở lui của nó, không thấy bất cứ con đường tự nhiên nào (dù là luật pháp, xã hội, điều trị hay giáo dục) để thoát khỏi nan đề này. Ly dị và bất hoà gia đình đang tăng cường một phức hệ gồm nhiều lực lượng bản thân và xã hội gây ra những nỗi sợ tự lớn mạnh và khiến người ta chỉ còn quan tâm tới mình. Các trụ đỡ về xúc cảm và triết lý của cam kết đang bị phá sập quanh ta. Chỉ có Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người mới cứu ta ra khỏi sự hỗn mang này.
Suzanne Carl, một giáo sư cao đẳng dạy về môn diễn thuyết, cho hay: bà hỏi các sinh viên của bà xem chủ đề nào họ muốn nói tới nhiều nhất. Có người cho là ngày 11 tháng Chín, có người cho là vụ bắn bừa bãi giết các học sinh tại Trung Học Columbines, nhưng phần đông nói: “lúc cha mẹ tôi ly dị”. Bà mong cha mẹ họ nghe được lời phát biểu này. Bà cho rằng các em này đã đánh mất mỏ neo đời họ.

Góp ý 2: Án vô hiệu

Theo thủ tục hiện nay, tòa án Giáo Hội chỉ thụ lý những vụ nào đã ly dị xong ở tòa đời. Nên có thể nói: tuyên bố vô hiệu hôn nhân của Giáo Hội là cái hậu của việc ly dị. Việc tuyên bố này hiện gây cay đắng cho rất nhiều bên vô tội trong các vụ ly dị. Dưới mắt những người này, nó là cái đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài hôn nhân khiến nó không còn hy vọng gì sống lại nữa. Paricia là một trong những người này. Bà chia sẻ rằng “thủ tục này (tuyên bố vô hiệu) mỗi ngày mỗi tan nát (cõi lòng), nhất là về phương diện tâm linh, hơn cuộc ly dị khởi đầu. Tôi thắc mắc không hiểu bụi mờ có chịu lắng xuống sau cuộc hủy diệt một gia đình hay không? Tôi không nghĩ vậy”.
Có người khuyên Patricia nên trung thành với Giáo Hội dù giữa cuộc khủng hoảng. Patricia trả lời rằng: sau hai lần tuyên bố vô hiệu, bà hoàn toàn tan nát cõi lòng. “Sau một đời làm người Công Giáo ngoan đạo, tôi đã không còn thực hành đức tin nữa, cho tới nay đã hai năm. Đến cầu nguyện, tôi cũng rất ít khi làm. Tôi đã mấy hết lòng kính tọng đối với các linh mục như một toàn thể. Hiện nay, tôi nhìn Giáo Hội bằng cái nhìn của người bàng quan… Tôi không muốn nói tôi sẽ không bao giờ trở về với Giáo Hội, nhưng tôi không rõ điều gì có thể thuyết phục tôi trở về như thế”.
Nhưng cũng có người tên Anna In California nói với Patricia rằng bà là “phó sản của một gia đình ly dị và bị chồng ly dị. Nhưng tôi luôn có đức tin, có Chúa chúng ta, có Mẹ của Người, có gia đình tôi là các thánh và các thiên thần, và có mái ấm là Giáo Hội nơi tôi được nuôi dưỡng và được tăng sức”. Bà khuyên Patricia trở về để được tiếp nhận Thánh Thể.

Góp ý 3: trì chí ở lại

Jennifer có một kinh nghiệm khác với Giáo Hội Công Giáo: bị chồng ly dị để sống với một anh đực rựa giầu có, chỉ có Giáo Hội Công Giáo thăm hỏi bà trong vụ ly dị này, một vụ được bà coi như thời thanh luyện thiêng liêng, nên bà đã từ bỏ Đạo Mormon mà bà vốn thực hành từ năm lên mười.
Magdalene thì cho hay bà không ly dị, nhưng hôn nhân của bà cũng rất khó khăn. Bà nghĩ rằng “điều thuyết phục chị (nói với Patricia) trở về với Giáo Hội là: uớc muốn yêu thương trở lại, uớc muốn được gần gũi với Chúa trở lại, uớc muốn được Chúa Giêsu chữa lành. Ta không thể cậy nhờ con người vì họ thường làm ta ngã lòng”.
Trước những tâm tình và lời cầu nguyện này, Patricia thổ lộ rằng “Xin các bạn cầu nguyện cho tôi vì tự tôi, tôi không còn cầu nguyện. Nhưng hiện tôi không còn thấy chút yêu thương nào trong Giáo Hội nữa. Nói với tôi về việc Satan xúi giục hay yêu cầu tôi trở về với Đức Mẹ, vào thời điểm này, quả chẳng ích lợi gì. Có lẽ tôi cần một phương thức mới, một phương thức trí thức, ngược với phương thức yêu thương/sợ sệt đầy xúc cảm. Tôi không biết nữa… Tôi ghét chính phủ lớn, và tôi đã tiến tới chỗ coi Giáo Hội như một bàn giấy lớn khác, và là một bàn giấy điều hành bởi những người đàn ông, vâng những người đàn ông độc thân, những người không thể và không hiểu phụ nữ, không hiểu điều ta phải chịu đựng trong một cuộc hôn nhân Công Giáo, không hiểu điều ta phải chịu đựng trong một diễn trình vô hiệu hóa của Giáo Hội… Điều này xem ra như thể tôi là một người duy nữ, mà thực sự thì không phải, tôi chưa hề là một người duy nữ. Tôi luôn là đứa con gái vâng phục Mẹ Thánh Giáo Hội. Nhưng mấy năm qua đã thay đổi tôi, nay tôi đã là một con người rất khác, và tôi không hoàn toàn bất hạnh với điều này...”
David Heath, một blogger, chia sẻ rằng: “ly dị không giải quyết được gì ngoại trừ việc cần thiết là hai người lớn phải lớn lên”. Ông thổ lộ: “tôi đang ở năm thứ năm của một cuộc ly dị không kèn không trống từng hủy diệt cả một gia đình, hủy diệt liên hệ cha mẹ - con cái và quan trọng hơn nữa, đã làm rối loạn và phi cảm 10 đứa con của một cuộc hôn nhân đã kéo dài 22 năm nay đối với giáo huấn đức tin của chúng và hạn từ “trung thành”. Tuyên bố vô hiệu sau đó không làm được gì khác ngoại trừ củng cố các sai lầm này. Nhưng bất kể các điều ấy, tôi vẫn quyết định tôn trọng các lời hứa ban đầu và tình yêu dành cho người vợ đầu tiên và là người vợ duy nhất của tôi…
Trong một bài đăng ngày 19 tháng Tám vừa qua, tựa là “Ly dị và kẻ vô tội”, blogger này trích dẫn Thánh Vịnh 24: “Xin đoái nhìn con và rủ lòng thương xót con, lạy Chúa, vì con cô đơn và khốn khổ. Hãy đoái nhìn sự hèn hạ và thống khổ của con, và hãy tha thứ mọi tội lỗi con” và ca nhập lễ Chúa Nhật thứ Ba sau Hiện Xuống: “Lạy Chúa, hồn con hướng lên Chúa. Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Người, đừng để con bị xấu hổ”.

Góp ý 4: tấn công Thượng Hội Đồng sắp tới

Ấy thế nhưng một bà tên Magdalene vẫn cho rằng “việc tuyên bố vô hiệu sau đó quả là một tai tiếng! Kết hôn cả hàng thập niên và đã có một gia đình lớn chứng tỏ ông (Heath) đã sống trọn vẹn các bí tích. Các tòa án này quả là trò hề: tuyên bố vô hiệu chính là các vụ ly dị của Công Giáo bất kể các luận điểm nói ngược lại. Tôi cũng đã kết hôn cả mấy thập niên nay nhưng tôi cá là tôi có thể được tuyên bố vô hiệu. Giáo Hội khi phân phát án vô hiệu như ‘phát kẹo’ đã biến bí tích thành trò cười. Các tàn phá đối với con cái cũng y hệt như ly dị. Dối trá, ích kỷ, ngoại tình và phản bội tất cả đều như nhau”.
Người với tên tắt MA, biệt danh người cha đau khổ, thì nhân cơ hội này tấn công thượng hội đồng ngoại thường sắp tới, bảo rằng nó “nuôi dưỡng nền văn hóa sa đoạ”.

Góp ý 5: Công Giáo do con người

P. McCoy thì công khai bác bỏ các nhận định của Đức Ông Pope trên đây về ly dị. Anh ví việc một giáo sĩ bàn tới ly dị, hôn nhân hay tính dục giống như việc đi tham khảo người phu đổ rác để lấy lời khuyên về y khoa! Anh bảo: giáo phái độc hại là cái đạo Công Giáo do con người này, chứ không do Chúa Kitô, đã dám yêu cầu những con người chỉ là người “vác thánh giá” cả hàng thập niên chứ không phải mấy giờ!
Đức Ông Pope trả lời rằng ngài trình bày căn cứ vào lời Chúa Giêsu trong Máccô 10:1-10, chứ không theo Chúa Giêsu tưởng tượng của McCoy: “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân chia… Ai ly dị vợ mình và cưới một người đàn bà khác là phạm tội ngoại tình... ”
Richard Ryan thì cho rằng nếu McCoy đúng, chẳng hóa ra những ai chưa bị sát hại thì không thể nói giết người là điều quấy! Ryan trích thư Êphêsô 5:25: “Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội và phó mình cho Giáo Hội”.

Góp ý 6: đôi vai rộng
Nhưng nói sao về trường hợp sau, trường hợp người vợ phản bội? Bà May kể rằng cuộc hôn nhân của bà đến nay kéo dài được 29 năm, trong đó bà ngoại tình tới 5 lần, dù người chồng “không làm bất cứ điều gì gây ra sự bất trung của tôi”.
Bốn lần đầu, người chồng không biết gì. Đến lần thứ năm, bà tưởng “cuối cùng tôi đã phá hủy hoàn toàn mọi sự, vâng mọi sự”. Điều bất ngờ là khi khám phá ra điều khủng khiếp này, chồng bà “đã như thể dính chặt vào mông tôi”. Tiếp theo là những cuộc ân ái “như để trả thù”. Nhưng rồi, người chồng gặp một linh mục được bà gọi đùa là “Cha Tha Thứ Cho Nàng”. Cha hỏi ông xem đã có bao giờ phạm tội chưa. Dĩ nhiên chồng bà thưa có, tuy thuộc một lãnh vực khác hẳn. Đó là khởi điểm đưa vợ chồng bà từ giường ngủ bước vào tâm và trí. Không những hòa giải mà còn hòa hợp qua những tách cà phê mỗi buổi sáng, qua đọc sách chung mỗi buổi chiều, và nhất là qua Kinh Magnificat mỗi buổi tối. Họ đã cứu được hôn nhân chung. Họ hiểu thêm rằng tình yêu không phải là chuyện 100 phần trăm và 100 phần trăm, mà thường là 80 phần trăm và 20 phần trăm, nghĩa là thế nào cũng có người “chịu thiệt” hơn và do đó phải hy sinh hơn. Trong trường hợp vợ chồng bà, bà cám ơn Chúa đã cho chồng bà đôi vai rộng hơn!
Kathryn chia sẻ rằng ly dị là ung thư trong gia đình bà: cả cha mẹ bà, các anh chị em bà, chính bà và hàng “tỷ” các bà cô ông cậu của bà đều ly dị. Gần đây nhất là em gái bà, một người bỏ đạo và hiện nay là một nhà vô thần. Bà đồng ý với Đức Ông Pope: vì tất cả chỉ chú trọng tới hạnh phúc của riêng mình.

Góp ý 7: ca ngợi án vô hiệu

Doug thì đồng ý với thủ tục tuyên bố hôn nhân vô hiệu của Giáo Hội. Anh và vợ lấy nhau quá sớm, lại sống quá xa gia đình, thân nhân và bằng hữu. Cả hai chưa sẵn sàng lãnh trách nhiệm của đời sống hôn nhân. Nên anh rất biết ơn khi có người khuyên nên tiếp xúc với Giáo Hội để xin tuyên bố vô hiệu.
Dennis kể lại các kinh nghiệm của riêng anh và của cha mẹ anh về những cuộc hôn nhân “vô giá trị”, nhưng cũng có thể trở thành giá trị. Anh lấy người vợ đầu để rồi khám phá ra chị chỉ lấy anh để có quốc tịch Hoa Kỳ. Ly dị xong, anh lấy được “một bà góa”, “không hẳn lúc nào cũng như tiên nhưng luôn tràn đầy yêu thương”. Trong khi ấy, cha anh lấy mẹ anh vì tinh thần trách nhiệm, đã làm mẹ anh mang bầu anh trước khi kết hôn. Bà cụ không thích thú lắm với động thái này. Không biết có phải vì cụ bị buộc phải trở lại đạo hay không. Để thuyết phục, ông cụ hứa với bà cụ: sau 5 năm, nếu bà muốn, ông sẽ để bà ra đi. Năm năm sau, dù đã có với nhau 4 đứa con, bà yêu cầu ông giữ lời hứa, và đồng ý để ông được giữ các con. Ông cụ hết sức ngỡ ngàng, đành nói với vợ sẽ nhờ mẹ chăm sóc bày trẻ. Rất may, nhờ bà cụ rất ghét mẹ chồng, nên đã quyết định ở lại. Rồi 3 đứa con nữa ra đời và khoảng 30 năm sau đó, khi các con đã khôn lớn, vấn đề lại nổi lên. Ông cụ đi vấn kế linh mục chánh xứ. Linh mục khuyên: nếu cụ bà muốn ly dị, hãy để cụ bà ra đi! Rất may (lại rất may nữa!), nhờ ông cụ “ngưng… không bước chân vào một nhà thờ Công Giáo” nào để phản đối cái lời khuyên quái ác này, dù trước đó rất ngoan đạo, có lúc đã nghĩ tới việc làm thầy sáu, và sau đó lên cơn nhồi máu cơ tim, nên bà cụ hết lòng chăm sóc ông cụ và không bao giờ còn “đặt vấn đề” nữa. Dennis cho rằng dù anh không hiểu hết mọi khúc mắc của vấn đề, nhưng anh tạ ơn Chúa vì cha mẹ anh vẫn ở lại với nhau trong cuộc hôn nhân “vô giá trị” của họ.

Góp ý 8: phân phát vô hiệu như phân phát kẹo

Về nhận định cho rằng Giáo Hội phân phát án vô hiệu như phân phát kẹo, Jay, một luật gia giáo luật, từng phụ trách cả “hàng ngàn án vô hiệu” cho rằng nhận định đó không đúng: “Giáo Hội không ban hành án vô hiệu một cách dễ dàng hoặc đơn thuần để làm vui lòng các cá nhân. Mà thực sự ma quỉ hết sức chi tiết trong mọi vụ án hôn phối và chúng tôi phán đoán mọi vụ án trên căn bản từng vụ một”. Bà cho rằng càng ngày càng có nhiều án vô hiệu là vì “xã hội ta hiện cực kỳ thiếu chín chắn, duy vật chủ nghĩa và quá tự yêu mình. Người ta tiếp cận hôn nhân một cách rất khác nhau và bất hạnh một điều: nhiều người tiếp cận nó với những động lực hết sức vị kỷ và coi hôn nhân như một cấu trúc bản thân mà họ có quyền thay đổi tùy ý”.
Một nhà tâm lý học Công Giáo muốn biết con số án vô hiệu thực sự tại Hoa Kỳ. Một mục tử tại Buckeye thêm: con số này nên được phân tích: bao nhiêu án vô hiệu vì những cuộc hôn nhân này chưa bao giờ diễn ra trong một nhà thờ Công Giáo, bao nhiêu án vô hiệu vì sự hiện hữu của một hôn nhân hiện còn đang hữu hiệu, bao nhiêu án vô hiệu vì đặc ân Phaolô hay Phêrô.

Góp ý 9: bất đắc dĩ mới ly dị

Chưa thấy có ai lên tiếng đáp lời. Trong khi ấy, Anne, dù đồng ý rằng ly dị thường là vì cha mẹ chỉ chú ý tới hạnh phúc của mình mà quên hạnh phúc của con, nhưng cho rằng “cũng có nhiều truyện khác…” từ ngay chính gia đình chị: “Mẹ tôi có lời thề sẽ ở với cha tôi cho tới chết, do đó, cha tôi thấy ông có quyền coi mẹ tôi và chúng tôi như nơi đương nhiên để ông trút giận dữ lên đầu tùy thích. Ngày mẹ tôi bỏ cha tôi là một trong những ngày vĩ đại nhất trong đời tôi. Lần đầu tiên, tôi được sống trong một gia hộ không có bạo lực… Ly dị khỏi vợ và ra xa lạ với con cái, cuối cùng cha tôi mới học được rằng ông đã không còn sở hữu gia đình của ông nữa, và rất hối hận về lối sống của mình. Chúng tôi rất hòa thuận trong những ngày cuối đời ông, mẹ tôi hiện diện bên cạnh giường khi cha tôi qua đời”.
Chị tự hỏi: chuyện gì sẽ xẩy ra nếu mẹ chị không được phép ly dị… “Khi ly dị, người ta có những lý do xấu, nhưng họ cũng có những lý do tốt. Có những đứa con đau khổ vì cha mẹ ly dị, thì cũng có những đứa con được cứu nhờ việc ly dị này”. Chị nhắc lại câu của Đức Phanxicô: “Tôi là ai mà dám phê phán?”
Luận điểm trên nghe ra có vẻ có lý. Nhưng Louise nhắc Anne nhớ rằng: mẹ chị có quyền bỏ cha chị, nhưng không cần phải ly dị ông!
Nghe thấy thế, Marie góp ý: tuy ly thân là điều hợp pháp, nhưng ly dị đôi lúc vẫn cần vì đó là “phương thế hợp pháp nhất để giải quyết các vấn đề như sở hữu tài sản, trông coi con cái... Dĩ nhiên, sau đó, đôi bên không được tái hôn…”.
Không thấy ai bàn thêm, nhưng theo các Tin Mừng Nhất Lãm, ly dị kiểu Marie góp ý không phải là ly dị theo Chúa Kitô: ai bỏ vợ và lấy người khác, mới phạm tội ngoại tình. Còn chỉ bỏ vợ (hay bỏ chồng) mà không lấy người khác, không phạm tội ngoại tình.
Lorrie vẫn không hiểu như thế, nên chị cho rằng tổng quát hóa những người ly dị vì muốn ly dị là điều thật đáng buồn, thật hết sức “vô cảm và đầy kết án!”. Bởi chị là người “đã làm mọi sự con người có thể làm được để cứu gia đình tôi nhưng vẫn không đánh bại được sự ác do cơn ghiền của chồng tôi giáng xuống. Ở lại trong tình huống đó là đặt con cái tôi vào vòng nguy hiểm. Một cách nghiêm túc… tôi không tin có ai nghiêm túc muốn ly dị cả”.

Góp ý 10: hôn nhân là liên hệ hàng đầu và vẫn là liên hệ quan trọng nhất
Thiển nghĩ, chia sẻ của Franklin được coi là thấm thía nhất. Theo anh, “các liên hệ của con người cũng quan yếu và bất tử như chính linh hồn của con người. Tôi nghĩ đây là lý do tại sao ta được dạy là phải yêu người lân cận (nghĩa là những ai ở gần ta) như chính ta. Chị cả tôi thường bảo tôi rằng chị tin những ai gần ta nhất trên Thiên Đàng cũng là những người gần ta nhất trên Trái Đất. Điều này có ý nghĩa đối với tôi, để xây đắp những gì ta hiện có, đừng vất bỏ chúng để khởi đầu lại.
“Và hôn nhân là liên hệ đệ nhất đẳng giữa các hữu thể nhân bản; nghĩa là, nó có trước nhất và vẫn có ý nghĩa nhất. Không có liên hệ nào trước Ađam và Evà, và không có liên hệ nào mà lại không có nó. Và không có liên hệ nào được nâng lên hàng bí tích, cũng chẳng có liên hệ nào được so sánh với mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Thực sự, ta có thể coi Thánh Kinh đã khởi sự với hôn nhân, và kết thúc với nó.
“Nhưng ngay khi hôn nhân bị hủy diệt, mọi liên hệ sẽ bị hủy diệt, vì không có hôn nhân, ta hết còn coi mình như có liên hệ với nhau nữa. Và không có loại liên kết này, ta không còn lý do nào để coi bất cứ ai khác là con người hay là giống ta nữa. Theo tôi, đó là lý do tại sao một người đàn bà lại đi giết đứa con trong bụng mình; bà không coi đứa con là con người. Nhưng tại sao bà phải coi như thế, nếu bà thấy mình như đã cắt đứt với những người khác, và cô đơn?
“Người ta lầm lẫn khi cho rằng một ai đó có thể ly dị người phối ngẫu của mình nhưng vẫn trân quí con cái. Nhưng tôi xin hỏi: tại sao người ta có thể trân quí các liên hệ họ không tự ý chọn (tức con cái) khi họ không trân quí mối liên hệ chính họ tự ý chọn (hôn nhân).
“Tôi thấy điều đáng lưu ý sau: tất cả năm vấn đề không thể thương lượng được là phá thai, an tử, lấy tế bào phôi thai nghiên cứu, ‘hôn nhân’ đồng tính, và sinh vô tính ra con người, hết 4 chủ yếu có tính tính dục. Nhưng theo tôi, chúng đều có chung một gốc rễ, như thể là ‘năm ngón tay trên bàn tay năm ngón’, một bàn tay bị ly dị…

“Tôi thường nghe những lời cầu nguyện trong Thánh Lễ cầu cho sự thánh thiện của linh hồn con người; theo tôi, nay là lúc, ta nên bắt đầu thường xuyên cầu nguyện cho sự thánh thiện của các liên hệ nhân bản, nhất là hôn nhân”.

Sưu Tầm: Đời sống


Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

BIẾN ĐỔI TRÁI TIM

BIẾN  ĐỔI  TRÁI  TIM
(Thứ sáu - 29/08/2014 - ĐGM GB Bùi Tuần- tinvui@dmin)



1. Tôi thuộc kinh Lạy Nữ Vương từ lúc còn rất nhỏ. Khi đọc kinh đó, tôi chào Đức Mẹ là Nữ Vương. Còn khi nói với Đức Mẹ, tôi luôn gọi Đức Mẹ là Mẹ.
 Cũng may, mà kinh Lạy Nữ Vương chỉbắt đầu bằng từ Nữ Vương, nhưng ngay liền đó, đã tiếp nối bằng từ Mẹ.
“Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”. Nhìn Đức Mẹ và gọi Đức Mẹ là Mẹ dễ thương như vậy, tôi cảm thấy gần gũi và âu yếm ngọt ngào.

2. Với những lời kinh sau lời chào đó, tôi hay tâm sự với Mẹ về cuộc đời của tôi, một cuộc đời với bao nỗi lầm than, long đong, khổ sở. Tôi cảm thấy Mẹ âm thầm chia sẻ với tôi, Mẹ lặng lẽ ủi an tôi. Dần dần, tôi được Mẹ cho tôi ơn xin ở cuối kinh, là được thấy Chúa Giêsu, Con của Mẹ.

3. Chúa Giêsu, Con của Mẹ, do Mẹ cho thấy, là Đấng đã đổ máu mình ra, để cho tôi và nhiều người được tha tội.
Càng thấy Chúa Giêsu là như thế, tôi càng nhận ra tôi là kẻ tội lỗi, cần phải xin ơn tha thứ. Nhận ra mình là kẻ chìm sâu trong vực thẳm tội lỗi, tôi cảm thấy tôi rất mọn hèn. Mẹ dạy tôi hãy từ thân phận hèn mọn đó, mà cầu nguyện.
Mẹ dạy tôi nhìn lên Chúa Giêsu, tha thiết xin đón nhận ơn Chúa cứu chuộc.

4. Khi tôi thực sự tha thiết muốn đón nhận ơn Chúa Cứu Chuộc, Mẹ lại dạy tôi là hãy chân thành cộng tác với ơn Chúa, mà biến đổi trái tim mình. Mẹ cho tôi nhớ lại lời thánh vương Đavít:

5. “Của lễ con dâng là trái tim tan nát, khiêm cung” (Tv 50,19).
Mẹ muốn trái tim tôi hãy là trái tim khiêm nhường sám hối.
Khiêm nhường sám hối đòi một sự quên mình sâu sắc, để chỉ tìm ý Chúa mà thôi. Mà ý Chúa thế nào, thì chỉ Thánh Thần Chúa mới rõ. Tôi phải rất khiêm tốn lắng nghe Thánh Thần Chúa soi dẫn.
Dần dần, tôi được Mẹ dạy bảo là với ơn Chúa Thánh Thần, trái tim tôi, nếu chịu tan nát khiêm cung, thì sẽ bỏ đi được tình trạng xơ cứng, mà trở thành mềm mỏng, bén nhạy với những gì Chúa muốn. Tôi xin vâng.
Mẹ còn dạy tôi thêm một điều nữa, mà thánh vương Đavít xưa đã thưa với Chúa:

6. “Xin Chúa tạo cho con một trái tim trong trắng” (Tv 50,12).
Trái tim trong trắng là thế nào? Mẹ dạy tôi là trái tim biết dứt lìa những thứ gọi là hưởng thụ. Hưởng thụ gồm các thứ đam mê, ước muốn lôi kéo tôi xa Chúa. Không phải chỉ những thú vui xác thịt, mà cũng gồm cả loại kiếm tìm những gì về tinh thần hầu thoả mãn sự kiêu căng ích kỷ.

7. Biến đổi trái tim, tức biến đổi tấm lòng như thế, là điều không dễ chút nào. Mẹ rõ điều đó, nên Mẹ cho tôi biết là: Chúa không đòi tôi phải thành công hoàn toàn trong việc biến đổi khó khăn đó. Nhưng Chúa sẽ rất hài lòng, nếu thấy tôi chịu khó  can đảm trên con đường biến đổi trái tim mình.

8. Tôi nhìn vào trái tim Mẹ. Tôi tha thiết xin Mẹ cho trái tim tôi được một chút nào của trái tim Mẹ, để tôi sống ơn gọi của trái tim được đổi mới tại Việt Nam hôm nay.

9. Với một cách rất âm thầm, Mẹ dạy tôi là hãy rất tỉnh thức về một nguy cơ đang ngầm phá các trái tim những người có đạo tại Việt Nam hiện giờ.
Nguy cơ đó là sự xung đột trong nội bộ. Xung đột giữa nhóm này với nhóm kia, giữa phong trào đạo đức này với phong trào đạo đức kia, giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa cộng đoàn nọ với cộng đoàn kia.
Xung đột do ganh tị, do cạnh tranh, do tìm lợi ích riêng, do thành kiến, do bị lôi cuốn. Xung đột, nên xa nhau, hạ nhau và loại trừ nhau.
Xung đột dưới nhiều hình thức đạo đức giả. Từ nhân danh truyền thống đến nhân danh làm sáng danh Chúa.
Những xung đột đó đang làm suy yếu Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay một cách thê thảm.
Thành ra, thay vì trái tim được biến đổi nên hình ảnh trái tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ, thì lại vô tình dễ biến đổi thành trái tim những kẻ phá đạo.

10. Như để cảnh giác tôi một cách cương quyết, Mẹ cho tôi đọc lại tiên tri Êdêkien, đoạn nói về các chủ chiên thời đó. Tôi xin trích lại cho chính tôi, vì tôi là một chủ chiên. Nhờ vậy, tôi lo biến đổi trái tim mình.
“Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Khốn cho các chủ chiên Israel. Họ chỉ lo nuôi chính bản thân. Chớ thì các chủ chiên không phải lo chăn nuôi đoàn chiên sao?
Các ngươi đã uống sữa chiên, đã mặc áo lông chiên. Hễ con nào béo tốt, các ngươi làm thịt. Con nào yếu đuối, các ngươi không bổ dưỡng. Con nào đau ốm, các ngươi không chạy chữa. Con nào bị thương, các ngươi không băng bó. Con  nào đi lạc, các ngươi không đem về. Con nào đi mất, các ngươi không tìm kiếm.
Các ngươi chăn dắt chúng bằng bạo lực và nghiêm khắc. Các chiên Ta tản mác vì thiếu chủ chăn, chúng làm mồi cho thú dữ ngoài đồng...” (Ed 31,1-11).

11. Với những lời khiển trách nghiêm khắc trên đây của tiên tri Êdêkien, Chúa dạy tôi là hãy có trái tim biết yêu thương thực sự những kẻ Chúa trao phó cho tôi.
Yêu thương vị tha.
Yêu thương quên mình.
Như Chúa Giêsu trên thánh giá.
Như Đức Mẹ dưới chân thánh giá.
Nếu được biến đổi là một trái tim như thế, tôi sẽ là một của lễ đẹp ý Chúa Cha. Cho dù thời cuộc sẽ tối tắm đến mấy, trái tim của lễ như vậy vẫn sẽ là một chứng nhân đích thực cho Nước Thiên Chúa là Nước Tình Yêu.

Lạy Mẹ giàu lòng thương xót, xin Mẹ luôn giúp con biết cộng tác với ơn Chúa trong việc biến đổi trái tim tội lỗi, yếu đuối, mọn hèn của con.                            
                                                  Long Xuyên, ngày 22. 8. 2014
                                                       Lễ Mẹ Maria, Nữ Vương

                                ĐGM GB Bùi Tuần

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

Tính cách

Tính  cách   Tính  cách   Tính  cách
(Chúa Nhật XXII TN, năm A)
 (Thứ năm - 28/08/2014 - TRẦM THIÊN THU-tinvui@dmin)


Tính cách là tính chất, là đặc điểm nội tâm của mỗi con người, có ảnh hưởng trực tiếp đến cách suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Trong văn nói, tính cách gọi là “tính tình” hoặc nói gọn là “tính” – tính hiền, tính thẳng thắn, tính giản dị,... Một người có thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách.

 Tính cách là yếu tố quan trọng của một con người. Người ta thường đánh giá các động thái – đôi khi kể cả cách suy nghĩ – của một người, từ đó suy ra tính cách của người đó, cuối cùng là kết luận về bản chất của người đó.
Thường thì tính cách được chia làm hai loại: tính tốt và tính xấu. Tốt và xấu là theo quan niệm của đa số. Tuy nhiên, đối với những tính cách mà số người cho là xấu bằng số người cho là tốt, hoặc không ai cho là tốt hay xấu gì cả, chúng ta nên xem xét lại trong từng trường hợp cụ thể hoặc “gắn” cho nó cái quan niệm trung lập.
Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính. Người ta không thể hiểu hết một con người, có gọi là “đi guốc trong bụng” thì cũng chỉ là một phần mà thôi. Ngay cả vợ chồng sống nên “một xương, một thịt” với nhau vài chục năm rồi mà cũng chẳng hiểu hết tính tình của nhau. Và rồi vì không hiểu hết nhau, người ta đâm ra dị đoan bằng cách đoán tính cách qua giờ sinh, ngày sinh, năm sinh, chòm sao,... Hoàn toàn vô ích!
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng thích may mắn và sợ xui xẻo, thế nên người ta thường nói: “May hơn khôn”. Điều gì xảy ra hợp ý mình thì người ta cho đó là may mắn, là hên; điều gì xảy ra không hợp ý mình thì người ta cho đó là xui xẻo. Thật ra chẳng có gì là hên hoặc xui, chỉ là cách so sánh của con người mà thôi. Tuy nhiên, sách Huấn Ca cho biết: Người khôn ngoan biết thinh lặng chờ dịp tốt, còn kẻ bép xép, dại khờ lại bỏ lỡ cơ may. Kẻ nhiều lời sẽ bị chán ghét, người hiếu thắng thì bị khinh chê” (Hc 20:7-8). Người ta cũng thường nói: “Mình tính không bằng trời tính”. Một khái niệm đầy chất tâm linh. Rõ ràng tất cả đều là Ý Chúa. Thật vậy, có những mơ ước cháy bỏng nhưng rồi tan thành mây khói, có những điều mình không dám nghĩ tới thì lại xảy ra bất ngờ.
Thật vậy, có những điều “trời cho” mà chỉ là “trò chơi”, nhưng có những điều tưởng chỉ là “trò chơi” thì lại là điều “trời cho”. Thực tế cho chúng ta thấy có những điều nghịch lý mà lại “thuận” – gọi là nghịch-lý-thuận, và có những điều thuận lý mà lại “nghịch” – gọi là thuận-lý-nghịch. Một điều hiển nhiên: Thập Giá là đau khổ, là xui xẻo, nhưng chính Thập Giá lại trở nên hạnh phúc, là cái hên. Con người không thể hiểu hết hoặc biết chính xác. Hên hoặc xui, may mắn hoặc không may mắn, đó chỉ là quan niệm của con người mà thôi. Ngay cả khoa tâm lý học cũng chỉ suy luận từ những gì đã xảy ra nhiều lần ngẫu nhiên trùng hợp.
Kinh Thánh cũng đề cập những điều nghịch lý: “Có khi lâm nạn lại thành công, gặp may mà hoá thiệt thòi” (Hc 20:9). Vì không biết vấn đề ra sao nên chúng ta gọi là “hên – xui”. Có một câu chuyện mà chắc hẳn nhiều người đã biết:
Tái Ông mất ngựa. Chẳng biết đâu là hên hoặc xui. Cái mà chúng ta gọi là xui thì lại là hên, cái mà chúng ta cho là tốt thì có thể lại là xấu. Chỉ có Thiên Chúa biết, vì Ngài quản lý và sắp xếp mọi sự. Ngay cả những gì chúng ta cho là tự nhiên thì cũng chẳng tự nhiên, mà là cách sắp đặt của Thiên Chúa – tức là Ngài quan phòng và tiền định. Chúa biết tức là Ý Chúa muốn điều đó xảy ra cho chúng ta – dù chúng ta cho đó là hên hoặc xui: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi” (Lc 12:7).
Thiên Chúa toàn năng, quan phòng và tiền định. Chúng ta không thể nào hiểu hết Ý Chúa nhiệm mầu, vì thế chúng ta chỉ có thể cúi đầu và thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3). Chúng ta làm như vậy không phải vì miễn cưỡng hoặc “bị triệt buộc”, mà vì khiêm nhường chân nhận Thiên Chúa duy nhất. Tác giả Thánh Vịnh vừa lý giải vừa xác tín đại diện cho mỗi chúng ta: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” (Tv 63:4-6).
Niềm vui trào dâng, chúng ta thật hạnh phúc trong Chúa: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Tv 63:8-9).

Tính cách của mỗi Kitô hữu phải là sống khiêm nhường. Không khiêm nhường sao được, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, đáng án tử, nhưng lại được Thiên Chúa thương xót nâng lên khỏi chốn bùn nhơ hôi tanh để được làm con cái của Ngài. Phép lạ lớn quá! Chúng ta đang “bị xui”“gặp hên” vì Thiên Chúa nhân hậu. Đó là chúng ta thực sự “gặp may”. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12:1-2).
Để đáp lại lòng thương xót vô biên và vô điều kiện của Chúa, chúng ta phải tự chấn chỉnh đời sống, tu tâm sửa tính, thay đổi tính nết để có thể hoàn thiện mỗi ngày một hơn như lòng Chúa mong muốn: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Ai biết thay đổi tính cách không chỉ có lợi về phương diện xã hội đời thường – được người khác quý mến, mà còn có lợi cả về phương diện tâm linh – được Thiên Chúa thương xót.
Người ta ghét cay ghét đắng đến nỗi giết chết Đức Giêsu Kitô vì Ngài có tính cách “khác người”, nhưng rất độc đáo: Thẳng thắn, cương trực, nhưng khiêm nhường và nhân hậu. Ngài nói ít mà làm nhiều. Ngài rất ghét những người ba hoa, nói hay mà làm dở, ưa chỉ tay năm ngón, thích ăn trên ngồi trước, phe cánh, ưa hình thức, tự tôn, ra vẻ ta đây,... Nói chung là những dạng giả hình, những người có “máu” Pharisêu (Mt 23:2-7; Mc 12:38-40; Lc 11:39-46; Lc 11:52; Lc 20:45-47). Với những người khoái làm “ông này, bà nọ”, Ngài nói thẳng: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ” (Mt 20:28; Mc 10:45). Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ thích vế thứ hai, chứ không muốn đề cập vế thứ nhất!
Một hôm, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Vốn dĩ ngư dân chân chất, tính nóng như Trương Phi và thẳng như ruột ngựa, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16:22).
Có lẽ ông Phêrô tưởng sẽ được cảm ơn, ai dè Đức Giêsu quay lại “phang” liền: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23). Thầy kỳ ghê đi! Phêrô là “tổ trưởng” mà Thầy cũng chẳng nể nang chi ráo trọi. Không thể được! Tính cách của Chúa Giêsu là “thẳng thắn thật thà”, không phải cứ làm lớn thì có thể làm láo, càng lớn càng phải làm gương.
Có thể nói rằng Chúa Giêsu không nguyền rủa ai nặng như lời trách dành cho Phêrô, giáo hoàng tiên khởi. Phải bị vậy thì Phêrô mới không dám lên mặt, phải xem lại mình mà khiêm nhường. Chúng ta cũng có những lúc đã từng “ảo tưởng” như ông Phêrô, cứ nghĩ mình “ngon” hơn người khác về lĩnh vực này hoặc phương diện nọ, nhưng thực ra chỉ là “thùng rỗng kêu to”, đôi khi còn quá lố nên bị hố.
Về điều kiện phải có để làm môn đệ, Đức Giêsu nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:24-26). Chắc chắn chẳng có ai ra điều kiện “ngược đời”“chói tai” như Chúa Giêsu. Thường thì khi muốn người khác về phe với mình, người ta đưa ra những điều kiện “béo bở”, được lợi này ích nọ, chứ chẳng ai dám hứa hẹn về sự đau khổ. Các công ty muốn có nhân viên giỏi thì hứa hẹn lương bổng cao, các tổ chức muốn có nhiều thành viên thì hứa hẹn nhiều lợi lộc (cả lợi và lộc). Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược. Ấy vậy mà càng ngày người ta càng nghiệm ra “ẩn số” trong tính cách độc đáo của Ngài và muốn theo Ngài tới cùng. Lạ thật!
Khi sinh thời, ông Mohandas Karamchand Gandhi (1869–1948), một nhà ái quốc chủ trương bất bạo động, được dân Ấn Độ coi là người cha (Bapu) và thánh sống (Mahatma), cũng đã từng thần tượng Chúa Giêsu sau khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi (Bát Phúc, tám Mối Phúc). Quả thật, chỉ có người giỏi mới nhận ra tài năng độc đáo và cái giỏi của người khác. Người ta càng giỏi càng tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Với các môn đệ và những người muốn theo Ngài, Chúa Giêsu không hứa hẹn mà chỉ giải thích: “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16:27). Thời cánh chung đang dần thu ngắn lại, hãy hoán cải để được cứu độ!

Lạy Chúa, xin mở mắt đức tin của chúng con để chúng con biết hoán cải như lòng Ngài mong muốn. Con đường dài nhất là con đường từ miệng tới tay, xin giúp chúng con biết làm đúng với lời nói chứ không giả hình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU