Chức vụ và Trách nhiệm
(Chúa Nhật XXI TN, năm A)
Chức
vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan trọng. Chức
danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và bổn phận về
chức vụ – gọi là chức phận.
Như
vậy, chức danh không cần có chuyên môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh
từ “chức sắc” thường dùng trong tôn
giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó.
Người
có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu danh vô thực”, là “bù nhìn”, là hình nộm, như ma-nơ-canh
(mannequin, người giả ở các tiệm trang phục). Loại người “ham chức, quên vụ” này chẳng làm nên trò trống gì, đôi khi còn phá
bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây”.
Chúa rất ghét loại người này.
Thời
Cựu ước, viên quan Sép-na là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay),
được người ta coi là “người hùng”,
nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽ tống ngươi khỏi chức
vụ, Ta sẽ đuổi
ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim,
con của Khin-ki-gia-hu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của
ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó
sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta
sẽ đặt trên vai nó. Nó
mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được.
Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho
nhà cha nó” (Is 22:19-23). Quyền “tháo
cởi” này trong Cựu ước có liên quan quyền “tháo cởi” trong Tân ước: Bí tích Hòa Giải.
Thiên
Chúa từ bi và nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn và
dứt khoát. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn
chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ
có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất” (Mt
13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26). Có lần Chúa Giêsu nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự
trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi” (Mt 15:13). Thật là đáng sợ
biết bao!
Ngược
lại, nếu người có lỗi biết sám hối và sửa sai, Chúa sẵn sàng tha thứ và phục
hồi nguyên trạng:“Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa
cũng ném thật xa ta” (Tv 103:12). Trên cả tuyệt vời! Đức Khổng Tử cũng
nói: “Có lỗi mà không sửa mới
thành ra có lỗi”. Tuy nhiên, Lời Chúa có lúc làm chúng ta vui mừng, rồi
cũng có khi làm chúng ta đau điếng, nhưng tất cả vẫn là Hồng Ân, Ngài luôn lắng
nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Tác giả Thánh Vịnh đã thành tâm thân
thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa,
hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn
thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi
sự” (Tv 138:1-2).
Dù
chúng ta có thế nào thì vẫn cần tâm tình tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì
nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày
con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi
đế vương dưới trần đều cảm
tạ khi
nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca
ngợi đường
lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:3-5).
Còn
hơn thế nữa, Thiên Chúa làm cho chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên
khác, và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của
Ngài: “Chúa tuy thật cao cả,
nhưng vẫnnhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn
ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy
Chúa, muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài
thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:6 và 8). Được thương xót nhiều hay
ít là điều tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai
tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Thánh
Phaolô xác định, vừa đặt vấn đề vừa giải thích: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông
suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu!
Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa?
Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau?
Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên
Chúa đến muôn đời! Amen” (Rm 11:33-36). Những vấn đề
vẫn này vẫn luôn nóng bỏng và nhức nhối ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu
hỏi để mỗi chúng ta tự trắc nghiệm và tự cân-đo-đong-đếm mức độ tín thác của
mình vào Thiên Chúa.
“Tại sao tôi tin vào Thiên Chúa? Ngài là
ai mà tôi tin?”. Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người
vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ
dạ nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê
hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để
chứng minh rằng “không có Thiên Chúa”, nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin
cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và
không tin thì hoàn toàn bất trị – nói vui theo ngôn ngữ @ là “bó-tay-chấm-com” (BoTay.com). Người vô
thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì họ càng đi vào ngõ cụt, hoàn toàn
bế tắc. Thật vậy, chính một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế, nhưng rồi cũng
đành phải đầu hàng Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một
Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng
Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh.
Trước
khi Chúa Giêsu công khai sứ vụ, Ngôn sứ Gioan ở trong lao tù nên đã bảo đệ tử
đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai
khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các
anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem
thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống
lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”
(Mt 11:4-6). Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống,
tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con
Thiên Chúa không?” (Mt 26:63; Mc 14:61). Chúa Giêsu nói: “Chính ngài vừa nói” (Mt 64).
Thánh Luca cho biết rằng Chúa Giêsu nói: “Tôi
có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả
lời” (Lc 22:67-68). Và rất có thể chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc
tự hỏi về Thiên Chúa như vậy.
Một
hôm, khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”
(Mt 16:13). Hỏi để mà hỏi, vì Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để
người khác tự xác tín. Và các ông đều thưa: “Kẻ
thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông
Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (Mt 16:14). Mỗi người mỗi ý, mỗi
cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một “người đặc biệt”.
Sau
đó, Ngài hỏi chính các đệ tử của mình: “Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống” (Mt 16:16). Đức Giêsu nói: “Này
anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người
có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy,
nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh
là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền
lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá
Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy;
dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt
16:17-19). Ý Chúa quan phòng và tiền định vô cùng kỳ diệu, chúng ta chẳng
làm sao suy thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn đệ không được
nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô.
Từ
đó, Ngư phủ Phêrô đã trở thành Giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng. Chìa
khóa Sư phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ,
Chìa-Khóa-Nước-Trời để mở lối vào cho các hối nhân, chứ không là
Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền, nhưng cũng đầy
bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền hành, thế nên đôi
khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái “hành” người khác. Việt ngữ thâm thúy thật!
Con
người rất dễ háo danh và hám
lợi, vì có “cái danh” thì
thường có kèm theo “cái lợi”. Chức
danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá rõ
ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo hội cũng
có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của DANH và LỢI. Người ta chú
trọng “cái danh” mà quên “cái phận”, trong khi “cái phận” cần thiết hơn “cái danh”. Thật vậy, Đức Kitô đã động
viên người ta làm “ngược đời” chứ
không theo lẽ thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ” (x. Mt 20:28). Hai động thái trái
ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.
Mới
đây, ngày thứ Sáu 1-8-2014, ĐGH Phanxicô (TGM Jorge Mario Bergoglio ngày
nào luôn gần gũi đám dân nghèo) đã bất ngờ đến ăn trưa tại một tiệm ăn bình dân dành cho các công nhân áo xanh và những
người lao công trong khu công nghiệp nhỏ ở Vatican. Ngài vẫn tự cầm khay và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi
quầy thức ăn làm sẵn, giống như mọi người,không nhận quyền ưu tiên nào.
Điều này chứng tỏ lời ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước
đám đông giới trẻ: “Tôi không
muốn làm giáo hoàng”.
Giáo
hoàng là “vua” của Công giáo, là “ông lớn”, thế nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ”, tự phục vụ chứ không cần
người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ
xíu” lại muốn biến thành “ông lớn”.
Chẳng khác gì truyện ngụ ngôn “Ếch Muốn
Bằng Bò” (*). Vừa khôi hài, vừa đau điếng!
Tam
nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên – Trong ba người cũng có một người làm thầy.
Lẽ tất nhiên. Chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người
khác. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó
để cộng tác với Ngài mà hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai
được “ngồi mát ăn bát vàng”. Người ta thích “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc
muốn phục vụ. Người ta cũng leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang”, nhưng rồi có mấy ai thích vinh quang mà
chỉ ưa ngồi rung đùi, chỉ tay năm ngón, và... hốt bạc tỷ. Sống chết mặc bay,
tiền thầy bỏ túi – đời cũng thế mà đạo cũng vậy. Thế là ô-kê. Xong!
Nói
được thì phải làm được, đừng nói trước rồi bước không qua, đó là “lẻo mép”. Viết được thì cũng phải làm
được, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là “lẻo bút”. Dạng “lẻo” nào
cũng chết. Chết chắc! Vì đó là người có “máu”
Pharisêu, mang gien-đạo-đức-giả, đúng như Ngôn sứ Isaia đã nói trước: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng
dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9). Dạng người
như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi” (Mt 23:27). Một biệt hiệu
(nickname) nghe rất “kêu”, nhưng lại
cảm thấy “nhột gáy” thật đấy!
Trước
mặt Thiên Chúa, ai cũng bình đẳng, chẳng ai hơn hoặc kém ai. Mọi người là con
cái Chúa thì tất nhiên là anh em với nhau (Mt 23:8). Chắc chắn Chúa không quan
tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén, thậm chí là nửa
nén cũng không thành vấn đề, quan trọng là SINH LỜI. Thế thôi! Thế nhưng ở đời
cũng “lắm chuyện”. Không nói thì người ta bảo hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo
đóm ăn tàn. Dám nói thẳng nói thật thì bị ghét bỏ, bị trù dập, bị xa lánh. Dốt
nát thì bị KHINH, thông minh thì bị GHÉT. Chúa Giêsu cũng chỉ vì
thẳng-thắn-thật-thà mà bị giết chết thê thảm!
Dù
sao thì cũng cứ là chính mình, không nịnh bợ, luồn cúi hoặc khép nép trước bất
cứ ai, nhưng cũng không hống hách hoặc khinh miệt bất cứ ai. Cứ bình thường!
Thiên
Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng Chúa
ban. Đó là Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo
danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay. ĐGH danh dự
Benedict XVI, khi còn đương nhiệm, đã nhận xét:“Kitô giáo không là triết lý
mới hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ
là Kitô hữu nếu
chúng ta gặp
gỡ Đức
Kitô. Chỉ trong mối quan hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới
thực sự là Kitô hữu”.
Con
người luôn khắc khoải về thân phận hoặc số phận, luôn thao thức về chính mình,
một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, nỗi đọa đày. Cố NS Trịnh Công Sơn
đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hóa
kiếp thân tôi?” (Cát Bụi). Nhưng ông không thể giải đáp, nên ông tự nhủ và
nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục tự vấn: “Đừng
tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng... Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng...
Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế? Tôi là ai, là ai,
là ai mà yêu quá đời này?” (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng). Cuộc đời như một chu
kỳ lẩn quẩn. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô cũng luôn
như biển động: “Linh hồn con
bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Và tác giả
Thánh Vịnh kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”
(Tv 62:2).
Ước
gì mỗi chúng ta khả dĩ xác định được như vậy, đồng thời có thể nói như Ngôn sứ
Êlia: “Lòng nhiệt
thành đối với Chúa nung nấu con” (1 V 19:14). Biết Chúa và biết mình, điều
nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa để có thể biết mình. Vâng, Thánh tiến sĩ
Augustinô đã cầu nguyện: “Lạy
Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim
me”. Chính Thánh Augustinô cũng đã tỏ ra hối tiếc mà thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn màng”.
Biết Chúa và được yêu Chúa thì quả là đại phúc!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhận biết Chúa là Thánh Phụ
giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp chúng con
nhận diện chính mình để chúng con biết khiêm nhường đúng mức, chứ không ảo
tưởng mà kiêu ngạo, đồng thời cũng biết sống đúng bậc mình, quyết tâm nên thánh
theo bậc của mình qua bổn phận và trách nhiệm. Xin cho những người có chức có
quyền đừng “hành hạ” người khác,
nhưng biết dùng quyền để yêu thương và nâng đỡ người khác đến với Chúa. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Ngụ ngôn “La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que
Le Boeuf” của Jean de La Fontaine (Pháp).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét