Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

7 món ngon ấm bụng ngày mưa

                                  

7  món  ngon  ấm  bụng  ngày  mưa

(Thứ sáu, 26/6/2015 - VnExpress.net)

Thịt kho mắm ruốc, cá chiên sả ớt, cá linh kho lá gừng ăn kèm với rau luộc và cơm nóng rất đưa cơm.


Món đậu phụ non kết hợp với thịt băm và gia vị cay của ớt nên phù hợp cho những ngày mưa khi đơm chén cơm nóng.
1-3694-1435209654.jpg
Nguyên liệu chính của món ăn là đậu hũ non, thịt bằm.

Từng viên xíu mại đậm đà quyện với vị nước sốt cà chua thích hợp để ăn với bánh mì hay cơm nóng.
2_1435209669.jpg
Thịt bằm và cà chua tạo nên món ăn thú vị.

Cá giòn thơm dằm với mắm chanh tỏi ớt ăn kèm rau luộc đưa cơm.
3_1435209699.jpg
Cá hố chiên giòn thơm.

Vị ngọt tươi của cá linh hòa quyện với mùi thơm đặc trưng của lá gừng tạo nên món ăn ngon hấp dẫn.
4_1435209734.jpg
Vị cá linh đậm đà và thoảng đưa mùi lá gừng tươi.

Canh khoai mỡ dùng khi nóng, khi ăn cho ít ngò vào để món canh dậy mùi thơm ăn với cơm cho bữa cơm chiều thêm ấp bụng.
5_1435209765.jpg
Món canh dinh dưỡng và bắt mắt.

Món thịt thơm ngon ăn kèm với cơm nóng, dưa leo và cà chua thái lát hay rau luộc đều ngon. Mùi mắm ruốc thơm dậy căn bếp và vị ngon đậm đà khó quên.
6-jpg.gif
Món thịt kho vừa đậm đà vừa thơm.

Trong không khí se lạnh của những ngày mưa gió, được thưởng thức bát cháo cá cơm đậm đà, vị ngọt thanh nhẹ hòa trong cái cay nồng không chỉ ngon miệng mà còn ấm bụng. 

7-JPG.jpg
Món cháo cá cơm ăn ấm bụng.
Hội An 

PHỎNG VẤN: Cung Hoàng Kim, Miss Nebraska USA

PHỎNG  VẤN:  Cung  Hoàng  Kim,
 Miss  Nebraska  USA



Kính mời cả nhà xem ông Bùi Dương Liêm phỏng vấn cô Cung Hoàng Kim, Miss Nebraska 

USA 2015.  Cô Cung Hoàng Kim sẽ dự thi Hoa Hậu Mỹ Quốc Miss USA tại Baton Rouge, 

Louisiana và đài truyền hình NBC sẽ trực tiếp phần chung kết vào đêm 12/7/2015.



Giữ Ánh Sáng Đức Tin Giữa Đêm Tối Cuộc Đời

Giữ  Ánh  Sáng  Đức  Tin  Giữa  Đêm  Tối  Cuộc  Đời
(Mon, 22/06/2015 - Trầm Thiên Thu-Thanhlinh.net)



 Trời mù sương. Màn sương dày như có thể cắt thành từng lát. Bạn đi tới máy bay và ngồi vào chỗ. Máy bay chuẩn bị cất cánh.Trong màn sương dày đặc không thể nhìn thấy ai, phi công cũng không nhìn thấy, tại sao bạn đi chuyến bay đó? Câu trả lời chắc hẳn phải là vì bạn có niềm tin vào phi công điều khiển hệ thống radar hướng dẫn máy bay đi qua màn sương dày đặc như vậy.

Tin là chấp nhận là thật điều mà bạn không thể chứng mình là thật
Chúng ta chấp nhận điều gì đó là thật dựa vào người nói điều đó. Chúng ta đặt lòng tin vào uy tín (sự đáng tin) của người nói với chúng ta. Nếu chúng ta tin ai đó và biết người đó đáng tin, chúng ta chấp nhận lời nói của người đó và chúng ta tin. Như trong trường hợp máy bay cất cánh trong sương mù, chúng ta tin cả phi công và hệ thống radar. Chúng ta tin máy bay có phi công và radar.

Mặc Khải và Đức Tin
Chúng ta không thể nói về đức tin mà tác rời mặc khải. Thiên Chúa mặc khải chính Ngài, tỏ mình cho chúng ta biết. Thiên Chúa đến gần mỗi chúng ta theo một cách riêng, gợi lên cho chúng ta biết cách đáp lại riêng. Chúng ta gọi đó là mặc khải. Việc đáp lại sự mặc khải đó gọi là Đức Tin.

Chính Thiên Chúa đã tỏ mình cho chúng ta bằng cách mặc khải chính Ngài qua Cựu Ước, và qua Tân Ước – qua chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã “Ngài mặc khải chính Ngài” và nay chúng ta biết đường đến với Ngài. Con đường đó chính là Chúa Giêsu: “Nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha. Trong Đức Kitô và nhờ tin vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa” (Ep 2:18 và Ep 3:12).

Tin là chấp nhận sự giao tiếp riêng được Thiên Chúa bắt đầu và được chúng ta chấp nhận. Đó là khởi đầu sự thân mật với Thiên Chúa; không có khởi đầu này, chúng ta không thể chia sẻ tình bạn của sự sống gia đình thiêng liêng. Kinh Thánh nói rõ rằng tin vào Thiên Chúa là điều cần thiết. Không gì có thể thay thế – dù là sự khôn ngoan của loài người, kinh nghiệm tôn giáo hoặc những việc tốt lành. Không gì có thể thay thế!

Đức Tin Thấm Vào Đời Thường
Chỉ tin vào khái niệm thì không bao giờ đủ. Không có gì để suy nghĩ về một trẻ sơ sinh run rẩy trong đêm lạnh. Không có gì có thể sờ thấy đối với rượu trong tiệc cưới hoặc cá nhiều tới mức nào mà thuyền gần chìm. Không có gì trừu tượng về tai họa, rắn độc và những cây đinh.

Khi nhập thể làm người, Thiên Chúa thực sự hiện hữu hằng ngày trong đời sống của mỗi chúng ta. Đó là lý do hằng ngày chúng ta cũng phải đáp lại Thiên Chúa – trong từng khoảnh khắc đời thường.

Thánh Phanxicô Salê nói rằng chúng ta cần để cho “đức tin thấm nhập vào cuộc sống đời thường”. Ngài nói rằng đức tin làm cho chúng ta có thể gặp được Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường ngay tại trần gian này. Ngài khuyến khích chúng ta phát triển và duy trì cách nhìn siêu nhiên đối với các sự kiện xảy ra hằng ngày trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

Đức Tin Luôn Tập Trung Vào Con Người
Đức tin luôn được “neo đậu” trong tình bạn – mối quan hệ giữa người với người. Tin là chấp nhận lời nói của người khác. Khi đức tin dao động, đó là do tình bạn dao động. Mối quan hệ bằng hữu phải được phép tiến xa và cao hơn.

Nếu đức tin lành mạnh – phát triển, mạnh mẽ, rung động – tính trọn vẹn giữa hai người phải luôn được tôn trọng. Mỗi chúng ta hiện diện trước mặt Ngài khi chúng ta để cho Ngài đến với chúng ta.

Có gần 3.000 đề mục trong Giáo lý Công giáo, và mỗi đề mục là nền tảng hỗ trợ mọi nguyên lý của đức tin, cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa tuyệt đối hoàn hảo và chí thánh. Chính Ngài tự ý tạo dựng chúng ta để chúng ta được thông phần sự sống thánh thiện của Ngài. Vì thế, ở mọi nơi và trong mọi lúc, Thiên Chúa luôn lôi kéo chúng ta đến gần với Ngài. Ngài bảo chúng ta tìm kiếm Ngài, nhận biết Ngài, và yêu mến Ngài hết linh hồn và hết trí khôn. Ngài muốn quy tụ mọi người đang tản mác vì tội lỗi, để nên đoàn tụ trong Gia Đình của Ngài – tức là Giáo Hội. Muốn hoàn tất điều này, khi thời gian đã đến, Chúa Cha đã sai Con Một đến làm Đấng Cứu Độ. Qua Đức Kitô, trong Đức Kitô, và trong Chúa Thánh Thần, Chúa Cha mời gọi chúng ta làm con cái của Ngài, và được thừa kế sự sống đời đời.

Đức tin đưa ra cách nhìn chính xác về sự quan phòng trong đời sống hằng ngày. Không có đức tin, chúng ta rất dễ lầm lẫn khi ước muốn. Tin là để cho Thiên Chúa hành động trong cuộc đời của chúng ta theo kế hoạch cứu độ của Ngài, ngay cả khi chúng ta không biết. Chị Thánh Hoa Hồng Nhỏ Teresa xác định: “Mọi thứ đều là ân sủng”.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ SpiritualDirection.com)



Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Những món cá kho ngon cho ngày mưa




Những  món  cá  kho  ngon  cho  ngày  mưa

(Thứ tư, 24/6/2015-VnExpress.net)

Không có món gì phù hợp hơn cho ngày se lạnh bằng cá kho dân dã ăn kèm cơm trắng đã quen thuộc với bạn từ thuở ấu thơ.

Những con cá chín vàng dậy mùi thơm của gia vị có thể ăn kèm với cơm nóng hay cháo trắng đều ngon miệng.
Untitled-4-5200-1435117497.jpg

Cá bống có thể dùng để nấu canh rau răm, chiên, nướng nhưng món phổ biến nhất và được nhiều người ưa thích vẫn là kho tiêu.

Untitled-1-9181-1435117497.jpg

3. Cá kèo kho rau răm
Loại cá nhỏ nhưng mềm, thơm ngon quen thuộc với người dân Nam Bộ chế biến được nhiều món ăn ngon.


Untitled-2-7013-1435117497.jpg

4. Cá kèo kho lá giang
Cái béo của thịt cá hòa trong cái vị chua thanh của lá giang luôn đem lại những bữa cơm ngon miệng cho các thành viên trong gia đình.


Untitled-3-8841-1435117498.jpg

5. Cá chai kho kẹo
Nồi cá kho kẹo hấp dẫn không chỉ ở con cá cứng mình, chắc thịt, thơm nức mà còn ở nước kho sệt hơi dẻo, thoảng mùi hành tỏi, cái cay cay của ớt.

Untitled-5-9895-1435117498.jpg

6. Cá hố kho rim
Mùa hè là thời điểm cá hố ở miền Trung rộ nhất trong năm. Không đắt tiền, thịt cá hố mềm ngọt nên được ưa thích.


Untitled-6-9900-1435117498.jpg

7. Cá rô kho thịt ba rọi
Thịt cá rô chín mềm, vừa đậm đà vừa có vị béo lại hơi cay là món mặn ngon cơm mà bạn khó có thể bỏ qua.


Untitled-7-4742-1435117498.jpg

8. Kho cá ngon kiểu làng Vũ Đại
Món cá làng Vũ Đại (Hà Nam) là một trong những món đặc sản, được kho theo phương pháp cổ truyền độc đáo, cho hương vị thơm ngon mà không nơi nào có được.


Untitled-8-4540-1435117499.jpg

* Bạn click vào tiêu đề hoặc hình ảnh để xem cách làm chi tiết.
Mai Vân

Đời Sống Thánh Hiến

Đời  Sống  Thánh  Hiến
(Tue, 09/06/2015 - Trầm Thiên Thu - thanhlinh.net)




Năm nay là Năm Phúc Âm Hóa đời sống cộng đoàn – giáo xứ và dòng tu. Khi nói đời sống thánh hiến, chúng ta thường nghĩ về các tu sĩ, những người sống theo lời khuyên Phúc Âm. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng tất cả chúng ta đều phải nên thánh vì Thiên Chúa muốn như vậy (x. 1 Tx 4:3), nghĩa là các Kitô hữu đều được Thiên Chúa thánh hiến hoặc thánh hóa, chứ không riêng gì tu sĩ và giáo sĩ.

Ai cũng có những lời khấn với Thiên Chúa, cách này hay cách khác và có thể khác nhau về mức độ. Có những lời khấn vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, đó là khi chúng ta lãnh nhận các bí tích. Lời khấn liên quan lời hứa, thường gộp chung là khấn hứa. Tu sĩ có các lời khấn công khai qua một nghi thức, và họ được gọi là những người sống đời sống thánh hiến.

Chữ “thánh hiến” (consecration) hoặc “thánh hóa” (sanctification) liên quan chữ “thánh” (saint). Cả ba từ đều phù hợp với chữ “thánh thiện” (holiness). Động từ “thánh hiến” (consecrate) hoặc “thánh hóa” (sanctify) là làm cho người/vật nên thánh bằng một nghi lễ tôn giáo (to make holy, to render holy).

Muốn được thánh hiến thì phải được gọi, được chọn. Nhưng trước đó phải nghe được tiếng gọi của Chúa, nhận biết ý Chúa. Thánh Phaolô nói: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12:1-2).

Chúa Giêsu đã ba lần dùng chữ “thánh hiến” trong một lần Ngài cầu nguyện: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17:17-19). Được thánh hiến hoặc thánh hóa để làm gì? Để nên thánh. Tại sao chúng ta phải nên thánh? Vì Thiên Chúa là Đấng Thánh: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11:44; Lv 20:7). Ông Giô-suê cũng đã nói với dân: “Anh em hãy nên thánh, vì ngày mai Đức Chúa sẽ thực hiện những kỳ công giữa anh em (Gs 3:5). Đặc biệt hơn, chính Chúa Giêsu đã giải thích qua lời cầu nguyện với Chúa Cha: “Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17:16). Mọi Kitô hữu đều là những người “không thuộc về thế gian”, và Ngài yêu cầu họ phải nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

Theo thần học Kitô giáo, thánh hiến là “tình trạng được tách ra dành riêng cho Thiên Chúa”. Các Kitô hữu ở trong tình trạng này khi được sinh bởi Thiên Chúa, như Thánh Phaolô xác định: “Chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em” (1 Cr 1:30). Thánh hiến ở đây là tình trạng thuộc về Thiên Chúa, công việc này do chính Ngài thực hiện, là phần phức tạp của ơn cứu độ và là mối liên kết với Đức Kitô: “Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:10). Đôi khi các thần học gia lại đề cập tình trạng này là “sự thánh hóa thuộc vị trí” (positional sanctification), cũng tương tự sự công chính hóa (justification).

Chúng ta thánh thiện theo vị trí, tức là nhờ Máu Đức Kitô mà chúng ta được sạch tội: “Nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13:39). Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng vẫn phạm tội, vẫn là tội nhân: “Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Ga 1:10). Đó là lý do Kinh Thánh nói đến sự thánh hóa là kinh nghiệm thực hành của việc chúng ta được tách ra dành riêng cho Thiên Chúa. Sự thánh hóa phát triển hoặc theo kinh nghiệm là hệ quả của việc tuân giữ Lời Chúa trong cuộc sống. Đó cũng là quá trình phát triển trong Chúa – tức là “sự trưởng thành tâm linh”, điều mà Thánh Phêrô đề cập: “Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta” (2 Pr 3:18).

Thiên Chúa đã tạo dưng chúng ta nên giống Đức Kitô, và Ngài vẫn tiếp tục công việc đó, như Thánh Phaolô tin chắc: “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1:6). Chúng ta phải không ngừng theo đuổi dạng thánh hóa này. Thánh Phêrô mời gọi: Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1 Pr 1:15). Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện thì không ai sẽ được thấy Chúa” (Dt 12:14). Sự thánh hóa đó đạt hiệu quả nhờ Lời Chúa, như Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga 17:17).

Thánh hóa phát triển là thánh hóa dần dần, thánh hóa liên tục, vì chúng ta được Chúa Giêsu sai đi vào giữa lòng thế giới để làm chứng về Ngài: “Như Cha đã sai con đến thế gian thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17:18-19). Chúa Giêsu xác nhận: “Tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (Ga 10:36). Mỗi chúng ta cũng được thánh hiến và được sai đi như vậy. Sự thánh hiến của Chúa Giêsu là kiểu mẫu hoàn hảo. Việc thánh hóa và việc sai đi là hai điều không thể tách rời. Vì chúng ta được Chúa Giêsu gọi là “những bậc thần thánh” (Ga 10:34-35), nghĩa là “được thánh hóa” hoặc “được thánh hiến”, chúng ta phải ưu tiên cho ơn cứu độ. Cách cư xử của chúng ta phải chứng tỏ cho thế gian biết rằng chúng ta được tách ra dành riêng cho Thiên Chúa: “Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Cố mãi mà chẳng thấy khá hơn, đôi khi chúng ta tự thấy thất vọng về chính mình. Cứ bình tĩnh, ai sinh ra cũng là tội nhân rồi, chẳng ai làm thánh ngay được. Cứ dần dần, từng chút một, thay đổi mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn. Đó là nên thánh hàng ngày, qua từng hơi thở.

Thánh hóa có một nghĩa khác trong Kinh Thánh – thánh hóa hoàn toàn hoặc cuối cùng, tương tự tôn vinh hoặc ca ngợi. Thánh Phaolô cầu chúc: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23). Đức Kitô là “niềm hy vọng vinh quang” (Cl 1:27) và là mối liên kết sự xuất hiện vinh quang của Đức Kitô với sự vinh quang của chúng ta: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Tình trạng vinh quang này sẽ là “vinh quang cuối cùng” của chúng ta, vinh quang hoàn hảo như Đức Kitô, vì chúng ta được tách ra khỏi tội lỗi: “Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2).

Tóm lại, “thánh hiến”“nên thánh thiện” hoặc “được tách ra”, là công việc Chúa Thánh Thần hoàn tất nơi con cái Chúa. Trong quá khứ, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự công chính hóa, sự thánh thiện theo vị trí trong Đức Kitô. Hiện nay, Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta tới sự trưởng thành tâm linh, sự thánh thiện thực hành và phát triển. Trong tương lai, Thiên Chúa sẽ ban sự vinh quang cho chúng ta, sự thánh thiện cuối cùng và vĩnh viễn. Ba giai đoạn này của sự thánh hiến giải thoát người tin khỏi án phạt của tội lỗi (công chính hóa), thoát khỏi quyền lực của tội lỗi (trưởng thành) và thoát khỏi sự hiện hữu của tội lỗi (tôn vinh, vinh quang).

Như đã nói, thánh hóa là làm cho nên thánh. Theo nghĩa đặc biệt, chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh (Is 6:3). Ngài lá Đấng Thánh duy nhất, khác hẳn mọi loài. Không ai có thể chia sẻ “tính thánh” này của Thiên Chúa. Chúng ta nên thánh là được thánh hóa, được thánh hiến. Thiên Chúa bảo chúng ta phải nên thánh vì Ngài là Đấng Thánh (Lv 11:44; Mt 5:48; 1 Pr 1:15-16).

Thiên Chúa cũng đòi hỏi dân Ít-ra-en phải tuân lệnh truyền của Ngài qua ông Mô-sê: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta” (Xh 13:2). Thánh Phêrô dạy: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3:15). Thánh hiến cũng có nghĩa là “tin tưởng và vâng lời”. Có tin tưởng mới vâng lời. Vâng lời cao trọng hơn của lễ. Vâng lời là lời khấn thứ nhất trong ba lời khấn của tu sĩ, người được thánh hiến.

Phàm nhân không thể tự thánh hiến. Chính Chúa Ba Ngôi thánh hiến. Chúa Cha thánh hóa để chúng ta được nên công chính và hiện hữu trong Đức Kitô (1 Cr 1:30), qua Chúa Thánh Thần (2 Tx 2:13; 1 Pr 1:2) và nhân danh Đức Kitô (1 Cr 6:11).

Mặc dù Thiên Chúa thánh hóa bằng ân sủng, loài người vẫn có trách nhiệm nhận biết ơn Chúa nhờ đức tin. Đức tin là phương tiện thông chuyển ơn thánh hóa. Kinh Thánh cho biết có các phương thế khác để thúc đẩy đức tin là Lời Chúa, cầu nguyện, Giáo Hội, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Lời Chúa mặc khải Ý Chúa (Ga 17:17). Cầu nguyện giúp chúng ta sống đức tin trong mọi hoàn cảnh. Giáo Hội là môi trường để chúng ta thực hiện sứ vụ. Sự quan phòng là cách chăm sóc chúng ta hàng ngày để chúng ta có cách phát triển trong ơn thánh. Trong hoàn cảnh, dù vui hay buồn, dù hên hay xui, chúng ta vẫn đủ tự lập (Pl 4:11), chúng ta có thể thánh hóa mọi hoàn cảnh vì biết rằng Thiên Chúa cho phép điều đó xảy ra vì ích lợi cho chúng ta. Khi bị cám dỗ, chúng ta vẫn có cách, như Thánh Phaolô nói: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10:13). Như cành nho bị cắt tỉa để phát triển tốt, Thiên Chúa sửa dạy chúng ta chỉ vì muốn tốt cho chúng ta: “Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người” (Dt 12:10).

Sự thánh hiến hoặc thánh hóa cũng có hướng tích cực và tiêu cực. Về phương diện tiêu cực, sự thánh hóa là thanh luyện hoặc tẩy sạch tội lỗi (Is 66:17; 1 Cr 6:11; Ep 5:26; Tt 3:5-6; Dt 9:13). Người theo Chúa phải chịu đau khổ, khó nhất là phải từ bỏ chính mình, nhưng đó là điều kiện ắt có và đủ trong đời sống tâm linh: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Từ bỏ mình không phải là sống khổ hạnh, kiềm chế niềm vui, hoặc làm hại thể xác, mà là từ bỏ ý riêng và vâng theo Ý Chúa. Nghe chừng đơn giản nhưng lại rất nhiêu khê, khó lắm! Đó là ưu tiên Thiên Chúa, chấp nhận mọi thứ vì Chúa: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:33).

Về phương diện tích cực, sự thánh hóa là phát triển các động thái đúng đắn, công chính. Sống tốt để thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa (Ep 2:10), sống thánh thiện để nên giống Đức Kitô (1 Pr 1:15), vì chúng ta được mời gọi sống như vậy (1 Pr 2:21). Chu toàn lề luật (Rm 8:4) là phương cách thánh hóa. Chúng ta phải nỗ lực đạt được lời hứa của Thiên Chúa nhờ đức tin (Pl 3:12). Thánh Phaolô cho biết: “Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1:29).

Việc thánh hóa phải được thực hiện cả đời (1 Ga 1:8-10). Thánh hóa liên quan việc chấn chỉnh tính cách nhờ sức mạnh của sự thật. Nói cách khác, thánh hóa là biến đổi, là trở về, là tái sinh, là phát triển thành con người toàn diện và hoàn hảo (Rm 6:13; 1 Cr 6:19; 2 Cr 4:6; Cl 3:10; 1 Ga 4:7). Đó là tác động của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch cứu độ (1 Cr 6:11; 2 Tx 2:13). Đức tin là khí cụ thánh hóa kết hiệp với Đức Kitô (Gl 2:20), giúp chúng ta sống với sự thật, vâng lời để đón nhận lời hứa của Thiên Chúa.

Sự thánh hóa hoàn hảo không thể đạt được ở đời này (1 V 8:46; Cn 20:9; Gv 7:20; Gc 3:2; 1 Ga 1:8). Trong Rm 7:14-25; Pl 3:12-14; 1 Tm 1:15, Thánh Phaolô liệt kê nhiều thứ. Rồi lời tự thú của Thánh vương Đa-vít (Tv 19:12-13 và 51), của Mô-sê (Tv 90:8), của Thánh Gióp (G 42:5-6), của Đa-ni-en (Đn 9:3-20). Càng thánh thiện, người ta càng khiêm nhường, từ bỏ mình, ghê tởm tội lỗi, và kết hợp mật thiết với Đức Kitô.

Thánh hóa hoặc thánh hiến là tặng phẩm của Thiên Chúa, nhưng cần chúng ta cộng tác tích cực. Chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của chúng ta do lòng yêu thương của Ngài (Pl 2:13).

Về việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu, Sắc lệnh Perfectæ Caritatis (Đức Mến Trọn Lành, số 1, ĐGH Phaolô VI, 28-10-1965) cho biết: “Ngay từ thời sơ khai của Giáo Hội, đã có những người nam cũng như nữ, qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, quyết tự nguyện theo Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát hơn, bắt chước Người cách trung thành hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sống tận hiến cho Thiên Chúa.” Điều đó cho thấy đời sống Thánh hiến là một trong những cách thức sống đạo để được thánh hiến ‘sâu xa hơn’, bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy và việc tận hiến cho Thiên Chúa. Trong đời sống thánh hiến, dưới tác động của Thánh Thần, các Kitô hữu sẵn sàng “vâng nghe Lời Người Con Yêu Dấu” (Mc 9:7), tự hiến cho Thiên Chúa là Cha Toàn Năng hằng hữu – Đấng được yêu mến trên hết mọi sự; đồng thời theo đuổi đức ái hoàn hảo (mến Chúa, yêu người) để phục vụ Nước Trời, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo đến tận cùng trái đất”.

Các Kitô hữu sống đời thánh hiến là tự nguyện “buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với sự sống và sự thánh thiện của Giáo Hội” (Hiến chế Tín lý về Giáo Hội – Lumen Gentium, số 44).

Nói chung, cả Giáo Hội đều được thánh hiến qua bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, sau đó sự thánh hiến được nâng tầm cao hơn tùy theo bí tích hoặc lời tuyên khấn do cá nhân hay cộng đoàn Kitô hữu tự chọn. Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata, số 31, ĐGH Gioan Phaolô II, 25-3-1996) nói: “Sứ vụ của giáo dân – những người có nhiệm vụ tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo kế hoạch Thiên Chúa – đặt nền tảng trên sự thánh hiến do bí tích Rửa tội và Thêm sức, chung cho tất cả các thành phần của Dân Thiên Chúa. Ngoài sự thánh hiến căn bản ấy, các giáo sĩ được thánh hiến bằng bí tích Truyền chức Thánh để nối tiếp sứ vụ tông đồ qua dòng thời gian. Những người tận hiến cam kết sống các lời khuyên Phúc Âm được thánh hiến một cách mới mẻ và đặc biệt; sự thánh hiến này, tuy không mang tính bí tích nhưng ràng buộc, khiến họ chấp nhận sống độc thân, khó nghèo và vâng phục, đã được Đức Giêsu đích thân thể hiện và đề nghị cho các môn đệ. Cho dù cả ba bậc sống khác nhau đều biểu lộ mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô, nhưng các giáo dân thì có đặc tính riêng biệt tuy không độc hữu là sinh hoạt giữa trần thế; các mục tử mang trách nhiệm về tác vụ, còn những người tận hiến nên cố gắng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục”.

Thánh Phaolô nói: “Chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Cả nam và nữ đều có thể là người thừa hành sứ vụ đối với Nhiệm Thể Đức Kitô.

Mỗi người đều có một tặng phẩm trong chín tặng phẩm được Thánh Phaolô liệt kê: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1 Cr 12:7-10).

Có năm tặng phẩm về sứ vụ: [1] Tông đồ, người kiến thiết và củng cố Giáo Hội; [2] Ngôn sứ, người loan báo sứ điệp của Thiên Chúa; [3] Người truyền bá, người được gọi để loan báo Tin Mừng; [4] Mục tử, người chăm sóc và hướng dẫn các tín hữu; [5] Thầy dạy, người chỉ bảo các tín hữu theo Lời Chúa.

ĐGH Phanxicô có năm mơ ước đối với những người sống đời thánh hiến: [1] Ở đâu có các tu sĩ thì có niềm vui; [2] Phải đánh thức thế giới, vì tu sĩ là “những ngôn sứ chứng tá cho Đức Giêsu đã sống ở thế giới này, tu sĩ không bao giờ được khước từ tính ngôn sứ; [3] Các tu sĩ và những người tận hiến phải trở nên các chuyên viên hiệp thông; [4] Tất cả mọi thành phần của Giáo Hội phải ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời; [5]
Mỗi hình thức đời sống thánh hiến hãy tự vấn về điều mà Thiên Chúa và nhân loại đang đòi hỏi, các đan viện và các nhóm có khuynh hướng chiêm niệm có thể gặp gỡ hoặc liên kết với nhau để trao đổi những kinh nghiệm về đời cầu nguyện, về cách thức tăng trưởng sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, về cách thức nâng đỡ các Kitô hữu bị bách hại, về cách thức đón tiếp và đồng hành với người tìm kiếm một đời sống thiêng liêng sâu xa hơn hoặc đang cần sự nâng đỡ tinh thần hay vật chất.

Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis (1992, về việc đào tạo linh mục), Thánh GH Gioan Phaolô II nói rằng các linh mục tương lai phải là “những con người quân bình, mạnh mẽ và tự do, có khả năng mang gánh nặng của trách nhiệm mục tử” (số 43). Ngài tuyên bố mạnh mẽ rằng tầm quan trọng hàng đầu của toàn bộ tiến trình chuẩn bị cho chức linh mục trong việc đào tạo nhân bản, là các ứng viên chức thánh phải phát triển nhân bản, phát triển các đức tính tự nhiên cộng với các nhân đức thiêng liêng; ngài nói rằng nhân cách của chúng ta, bản chất, tính khí con người hòa trộn và trở thành “phẩm chất” của chức tư tế, rồi được Chúa “sắp xếp lại” và sử dụng trong bí tích Truyền chức. Nhân cách, tính khí và con người của họ với tư cách là linh mục, hoặc sẽ lôi cuốn mọi người đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội, hoặc xua đuổi họ. Nhân cách cơ bản của một linh mục phải được hòa hợp cách hợp lý, lành mạnh đủ để đời sống thiêng liêng có thể phát triển, nhờ đó mà trở thành mục tử tốt lành, rất nhân bản mà cũng rất thánh thiện.

Đó là “ơn thánh được xây dựng trên nhân tính”. Lời mời gọi tiến đến chức linh mục là công việc của ân sủng, nhưng lại đòi hỏi sự hợp tác của con người. Chúng ta cung cấp “nguyên liệu thô” cho ân sủng tuyệt vời của Thiên Chúa, như ngạn ngữ có câu: “Chủng sinh sao, linh mục vậy”.

Chiếc áo không làm nên tu sĩ, chữ “tâm” mới quan trọng, nhưng chiếc áo vẫn cần để nhắc nhở họ phải làm gì cho xứng đáng. ĐGH Phanxicô nhắn nhủ: “Tôi muốn nói với anh chị em một chữ, và chữ đó chính là NIỀM VUI. Ở đâu có người sống thánh hiến, ở đấy luôn có niềm vui!”.

Trong Thư Luân Lưu, số 2, gửi những người sống thánh hiến nhân dịp năm dành riêng cho đời sống thánh hiến, Thánh Bộ Dòng Tu và Các Hiệp Hội Đời Sống Tông Đồ nói: “Bằng chữ niềm vui (tiếng Hêbrơ: simhâ/samah,gyl), Thánh Kinh muốn diễn tả vô số những trải nghiệm tập thể và cá nhân, gắn kết đặc biệt với việc phụng tự và các lễ hội, để nhận ra ý nghĩa sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử Israel”.

Tu sĩ là ai? Là người “đi tu”. Tu là sửa. Tu sĩ là người sửa mình trước, rồi có trách nhiệm sửa người khác: “Hãy an ủi dân Ta, hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem” (Is 40:1). Tục ngữ nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Điều đó chứng tỏ việc tu thân rất quan trọng, phải là điều tiên quyết của mọi người – đặc biệt là những người sống đời thánh hiến. Họ phải là người trung tín bước theo Chúa, trở nên sứ giả niềm vui của Thần Khí, làm vang dội tiếng “alleluia” (hoan ca) nơi đoàn người đông đảo (Kh 19:6), và kiến tạo “trời mới và đất mới” (Is 66:22) ngay tại thế gian này.

Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chẳng có chi tự đông đoài hay sa mạc làm cho ai được cất nhắc lên” (Tv 75:7). Được gọi và được chọn thì phải cố gắng sống xứng đáng với đời sống thánh hiến, làm đẹp lòng Đấng thánh hiến – Thiên Chúa. Ba lời khấn là “lời khuyên Phúc Âm” – một số dòng còn có thêm một hoặc hai lời khấn khác, như một tam giác đều làm “khung” cho đời sống thánh hiến: Vâng lời, nghèo khó, và khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Hãy luôn ghi nhớ “lời thiêng” mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta: “Ta thương con, thương con thật nhiều” (Gr 31:20). Điều này càng phải được ghi nhớ sâu sắc hơn đối với những người sống đời sống thánh hiến.

TRẦM THIÊN THU



Sự Dữ va Đau Khổ

Sự  Dữ  và  Đau  Khổ
(Wed, 24/06/2015 - Trầm Thiên Thu – thanhlinh.net)



 Thánh Phaolô tông đồ đã từng phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7).

Từ xưa tới nay, vấn đề sự dữ và đau khổ là thách đố lớn đối với mọi tôn giáo, kể cả Kitô giáo. Trong Cựu Ước, sách Gióp đã đề cập vấn đề tương tự. Ông Gióp là người tốt lành nhưng mất hết con cái và tài sản, lại còn bị bệnh nặng. Dù thế nào ông cũng vẫn tin vào Thiên Chúa, đau khổ của ông cho biết một phần câu trả lời về lý do có đau khổ: Điều tốt lành có thể đến từ đau khổ. Ông Gióp trở nên người thánh thiện hơn, là người bạn tốt hơn, và tin tưởng Thiên Chúa hơn nhờ đau khổ của ông. Câu chuyện về Giuse (St 37–45) cũng cho thấy điều này. Giuse bị các anh em xô xuống hố sâu cho chết, nhưng rồi họ lại bán Giuse làm nô lệ. Nhưng nhờ chịu đau khổ, Giuse trở nên phụ tá của Pha-ra-ô ở Ai Cập, có quyền phân phát lương thực khi nạn đói hoành hành khắp nơi. Trong cương vị này, ông có thể cứu gia đình mình khỏi chết đói.

Sự hiểu thấu giúp ông Gióp kiên trì cho tới cùng, ông thưa với Thiên Chúa: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết để làm cho kế hoạch của Ta không còn được rõ ràng minh bạch? Phải, con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều kỳ diệu vượt quá sức con. Vậy, xin Ngài lắng nghe, và cho con thưa gửi đôi điều, con sẽ hỏi và xin Ngài đáp lại. Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (G 42:2-6).

Ông gióp chân nhận rằng đường lối Chúa nhiệm mầu, không thể hiểu được. Hãy khiêm nhường, tín thác, và chân nhận rằng chúng ta không bao giờ có thể hiểu hết mầu nhiệm của sự đau khổ và sự dữ xảy ra trên thế gian.

Nhưng chúng ta có thể hiểu một số điều về sự dữ và đau khổ. Hãy cân nhắc mấy điểm này:

     Thế giới được tạo dựng để tiến tới sự hoàn hảo. Thế giới ở trong quá trình biến đổi vì chưa hoàn hảo. Sức mạnh xây dựng và sức mạnh hủy hoại của thiên nhiên cùng hiện hữu. Điều hoàn hảo hơn cùng xảy ra với điều ít hoàn hảo: “Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có việc vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý” (GLCG, số 310).

Như vận động viên phải khổ luyện nhiều mới có kỹ năng, thế giới cũng phải trải qua đau khổ để đạt tới sự hoàn hảo như Thiên Chúa muốn. Chúng ta không thể đánh giá sự đau khổ trong quá trình phát triển vì thấy có những người vô tội chịu đau khổ dưới bàn tay của thiên nhiên. Nhưng chúng ta tin rằng, trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự phát triển này tốt cho riêng mỗi cá nhân và cả nhân loại khi chúng ta hành trình tới sự hoàn hảo.

     Lạm dụng tự do là nguyên nhân gây sự dữ về luân lý. Thiên Chúa tốt lành đã tạo dựng con người (và các thiên thần) là các sinh vật thông minhtự do, chứ không tự động. Nhưng hai tặng phẩm này đòi hỏi trách nhiệm. Chúng ta có quyền tự do chọn yêu mến Thiên Chúa và những điều khác trên hành trình tiến tới sự vĩnh hằng. Khi chúng ta từ chối yêu thương, chúng ta phạm tội. Tội lỗi sinh ra sự dữ và đau khổ.

Mặc khải Kitô giáo cho chúng ta biết rằng khi các thiên thần phạm tội, họ sa ngã và trở thành ma quỷ đối nghịch với Thiên Chúa. Đây là một cách giải thích về sự dữ trên thế gian (đánh bom, động đất, bão tố, lụt lội,…).

Tội lỗi con người dẫn tới sự dữ luân lý như chiến tranh, hiếp dâm, phá thai, lạm dụng ma túy, xét đoán, tham lam,... Thiên Chúa không gây ra sự dữ luân lý. Vì lạm dụng tự do, chính con người là nguyên nhân. Tuy nhiên, Thiên Chúa “cho phép” sự dữ luân lý xảy ra vì Ngài yêu thương và tôn trọng sự tự do của các sinh vật mà Ngài đã tạo dựng. Theo cách mà chỉ có Thiên Chúa biết (sự thật mà ông Gióp chấp nhận), Thiên Chúa biết cách làm cho điều tốt xảy ra từ điều xấu.

     ● Đức tin Kitô giáo loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chiến thắng sự dữ. Chắc chắn rằng sự dữ luân lý tồi tệ nhất trên thế giới là nhân loại đã giết chết Con-Thiên-Chúa-làm-người. Như một người bình thường, Chúa Giêsu rất ghét đau khổ và Ngài đã xin Chúa Cha loại bỏ đau khổ. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tự do ôm lấy đau khổ xảy đến với Ngài bằng cách dâng mọi đau khổ lên Chúa Cha: “Xin cho ý Cha nên trọn” (Mt 26:39 và 42).

Thiên Chúa nghe lời cầu của Đức Kitô, nhưng không cứu Chúa Giêsu khỏi cái chết mà cứu Ngài trong cái chết. Sự đau khổ, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ tồi tệ nhất: Sự chết và sự tách khỏi Thiên Chúa. Nếu chúng ta yêu thương như Chúa Giêsu dạy và liên kết sự đau khổ của chúng ta với Ngài, chúng ta sẽ thông phần sự sống dồi dào của Thiên Chúa.

Đây là “tin vui” có thể giúp chúng ta đối phó với mầu nhiệm sự dữ và đau khổ: “Hãy ngắm xem việc Thiên Chúa làm: Người đã bẻ cong, nào ai uốn thẳng được? Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng. Ngày bị rủi ro, hãy gẫm mà xem: Ngày nào cũng do Thiên Chúa làm nên, vì thế con người không thể khám phá những gì sẽ xảy ra sau khi mình nhắm mắt xuôi tay. Xét lại quan điểm truyền thống về sự thưởng phạt” (Gv 7:13-14).

Chúng ta cảm thấy thế nào và làm gì khi có điều xấu xảy ra cho chính mình?

TRẦM THIÊN THU


Nhờ Đức Mẹ mới thành Gioan Baotixita

Nhờ  Đức  Mẹ  mới  thành  Gioan  Baotixita
(Chủ nhật - 28/06/2015- ĐGM. GB Bùi Tuần-tinvui.net)



Như xưa, nhờ Đức Mẹ mà Gioan Baotixita mới được là như thế, thì nay, nhờ Đức Mẹ, con mới có thể trở thành kẻ được sai đi theo gương thánh Gioan Baotixita như Chúa muốn.

1. Từ nhiều ngày nay, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ Maria một cách tha thiết khác thường. Tôi nói với Đức Mẹ đại ý thế này:

Thánh Gioan Baotixita là món quà quý Chúa tặng cho loài người. Nên Chúa đã nhờ Mẹ chăm sóc Gioan Baotixita cách riêng. Chưa sinh ra, thì Gioan Baotixita đã được Mẹ đến thăm. Khi sinh ra, thì Gioan Baotixita đã được Mẹ ẵm vào lòng. Vậy, khi con cảm tạ Chúa vì thánh Gioan Baotixita, thì con nên để ý điều gì cách riêng nơi Ngài?

2. Đức Mẹ đã chia sẻ cho tôi nhiều điều. Nhưng có một điều Mẹ muốn tôi để ý cách riêng nơi thánh Gioan Baotixita, điều đó là sự Gioan Baotixita có một cảm quan thiêng liêng rất bén nhạy. Nghĩa là Gioan Baotixita nhận ra một cách chính xác và mau  lẹ những gì Chúa muốn cho ngài góp phần vào chương trình cứu độ của Chúa.

3. Thực vậy, khi còn là bào thai trong lòng mẹ, Gioan Baotixita đã nhảy mừng, nhận ra Chúa Cứu Thế đến qua Đức Mẹ viếng thăm (x. Lc 1,41).

4. Khi đang giảng, thấy một người giữa đám đông tiến lại, Gioan Baotixita nhận ra ngay người đó là Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29).

5. Khi thấy mấy người Pharisêu đến bên ngài, Gioan Baotixita liền nhận ra ngay họ là loại người nguy hiểm. Ngài nói thẳng:“Các ông là loài rắn độc” (Mt 3,7).

6. Khi thấy tình hình phức tạp, Gioan Baotixita nhận ra ngay mình phải vắn gọn và tập trung. Ngài khuyên chỉ 2 điều: Sám hối và tin vào Chúa Giêsu.

7.Khi bị bắt, Gioan Baotixita nhận ra ngay sứ vụ của mình sẽ mau chấm dứt. Ngài vâng phục ý Chúa mà ra đi, mặc dầu công việc còn dang dở.

Như vậy, Gioan Baotixita phân định một cách chính xác và mau lẹ về con người, về việc làm và về tình hình. Nhờ ơn thông hiểu Chúa ban, mà tôi tạm gọi là một cảm quan thiêng liêng.

Vâng lời Đức Mẹ, tôi xin cảm tạ và chúc tụng Chúa, vì cảm quan thiêng liêng đã ban cho Gioan Baotixita.

8.  Tiếp đó, Đức Mẹ dạy tôi là cũng hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa cũng đã ban cho Hội Thánh được cảm quan thiêng liêng, qua một số người Chúa chọn.

Điều Đức Mẹ dạy tôi cách riêng, là đừng để ý nhiều quá đến những nhân vật lớn và những việc lớn, để tìm ra ơn đó, mà hãy tìm ra ơn đó nơi những người bé mọn, bình thường, trong đời thường của họ.

9.  Và đúng là như vậy. Tôi thấy nhiều người bé mọn lại có khả năng phân biệt được thiện ác, đúng sai một cách chính xác và mau lẹ.

Người này thì có một trực giác đạo đức bén nhạy. Vừa thấy một sự kiện xảy ra, thì họ liền nhận ra ngay ý nghĩa đạo đức trong đó.

Người nọ thì có một lương tri đạo đức dễ xúc động. Vừa gặp một tình huống, thì họ liền biết ngay mình phải có lựa chọn nào mới là đạo đức.

Người kia thì có một cảm quan thiêng liêng sâu sắc, vừa gặp một người, thì họ có thể nhận ra ngay người đó có Chúa ngự trị, hay bị ma quỷ khống chế.

10. Một thoáng nhìn trên đây về những người có trực giác đạo đức tốt, có lương tri đạo đức tốt, có cảm quan thiêng liêng tốt đã cho tôi niềm vui và hy vọng. Tôi thấy tất cả họ đều là những người quen sống kỷ luật, trung thực, biết sống phấn đấu, từ bỏ, nhất là biết sống trong bầu khí cầu nguyện. Họ phần nào giống thánh Gioan Baotixita trong phục vụ đời thường.

Riêng tôi, tôi nhận ra Đức Mẹ là bầu khí đạo đức của tôi. Tôi nói với Mẹ rằng: Như xưa, nhờ Đức Mẹ mà Gioan Baotixita mới được là như thế, thì nay, nhờ Đức Mẹ, con mới có thể trở thành kẻ được sai đi theo gương thánh Gioan Baotixita như Chúa muốn.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đến thăm con. Xin Mẹ ở lại với con. Mẹ là bầu khí đạo đức của con.
 
ĐGM. GB Bùi Tuần