Dụ ngôn Nước Trời
(Chúa Nhật XI TN, năm B)
Dụ ngôn cũng được gọi là ngụ ngôn. Hai danh
từ này có nghĩa tương đương nhưng cũng nghĩa khác nhau.
Ngụ ngôn (Anh: parable, fable; Pháp:
parabole, fable) là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi hoặc văn vần,
mang tính hoang đường, truyền thuyết, hư cấu, “bịa” ra như chuyện phiếm, nhưng vẫn có bài học luân lý, mang tính
giáo dục, răn đời; các nhân vật thường là vật hoặc con vật được nhân cách hóa,
các nhân vật cũng có thể là người hoặc thần linh.
Dụ ngôn (parable, parabole) cũng là một câu
chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi, nhưng khác là mang tính bí ẩn, mang tính
tục ngữ, đặc biệt là mang chiều kích tâm linh. Chúa Giêsu dùng thể loại này,
tức là Ngài dùng thể loại “dụ ngôn”
chứ không dùng “ngụ ngôn”.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để minh họa chân
lý, dùng hình ảnh dưới thế nhưng mang ý nghĩa trên trời. Ngài thích dùng dụ
ngôn, có lẽ vì loại văn này độc đáo, như Kinh Thánh xác nhận: “Ngài
không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34; Mc 4:34). Có khoảng
35 dụ ngôn trong các Phúc Âm nhất lãm.
Có lần các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao
Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” (Mt 13:10). Ngài nói: “Bởi vì
anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã
có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có,
cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, vì họ nhìn mà
không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời
sấm của ngôn sứ I-sai-a: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt
nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt,
kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ
chữa chúng cho lành” (Mt 13:11-15; x. Mc 4:10-12 và Lc 8:9-10).
Nhưng khi chỉ có Thầy trò với nhau, Chúa
Giêsu giải thích hết cho các môn đệ hiểu. Ngài nói rằng việc sử dụng các dụ
ngôn có hai mục đích: Mặc khải sự thật cho những người muốn biết và che giấu sự
thật đối với những người dửng dưng, không quan tâm. Nhóm Pha-ri-sêu đã công
khai khước từ Đấng Mê-si-a và phỉ báng Chúa Thánh Thần, nghĩa là họ phạm loại
tội nặng nhất, không được tha cả ở đời này và đời sau (Mt 12:22-32). Họ đã ứng
nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a nói về những người cứng lòng, đui mù và câm điếc: “Hãy
đi nói với dân này rằng: Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kỹ,
nhưng đừng nhận ra. Hãy làm cho lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho
mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được
chữa lành” (Is 6:9-10).
Sau khi dùng các dụ ngôn, Chúa Giêsu thường
nói: “Ai có tai nghe thì nghe” (Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc
14:35). Đó là cách mời gọi lắng nghe dụ ngôn, không chỉ nghe chuyện đời
thường mà là tìm kiếm sự thật của Thiên Chúa. Ngài ban cho mỗi người có HAI TAI
và MỘT MIỆNG, tức là PHẢI NGHE nhiều hơn NÓI. (Ngoài ra còn hai mắt, hai chân
và hai tay – nhìn nhiều, đi nhiều và làm nhiều).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán hứa: “Từ ngọn cây, từ
ngọn hương bá cao chót vót, Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non; chính Ta sẽ trồng
nó trên đỉnh núi cao vòi vọi. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en. Nó sẽ
trổ cành và kết trái thành một cây hương bá huy hoàng. Muông chim đến nương
mình bên nó, và ẩn thân dưới bóng lá cành. Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ
nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm
cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi. Chính
Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện” (Ed 17:22-24).
Trong đó có “hình bóng” của dụ ngôn
thời Tân Ước mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về Nước Trời. Đó là một lời hứa,
nhưng là lời hứa đang ứng nghiệm trong “Thời
Cánh Chung” – thời chúng ta đang sống.
Được lời hứa của Thiên Chúa thì còn gì hạnh
phúc bằng, vì lời hứa đó chắc chắn ứng nghiệm và hiện thực, chứ không như lời
hứa của phàm nhân – nhưng con người mang họ “hứa”
và liên quan dòng máu Chú Cuội. Tác giả Thánh Vịnh thầm nguyện: “Thú vị
thay được tạ ơn Chúa, được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao, được tuyên
xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh
khuya” (Tv 92:2-3). Tạ ơn và xưng tụng Chúa là trách nhiệm của phàm nhân,
các “sinh vật cao cấp” được Ngài tạo
dựng vì yêu quý và thương xót.
Tác giả Thánh Vịnh so sánh: “Người
công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được
trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn
sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng:
Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất
công” (Tv 92:13-16). Màu xanh thiên nhiên cho thấy sức sống dồi dào của
cảnh vật, đó là nhờ bám rễ sâu vào lòng đất để hút các dưỡng chất; cũng vậy,
con người sẽ thanh thản và bình an phát triển nhờ hồng ân Thiên Chúa, mãi mãi
không tàn úa.
Thánh Phaolô bộc bạch: “Chúng tôi
luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa
Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phảinhờ
được thấy Chúa. Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn,
đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:6-8). Đức tin thực
sự rất cần thiết, cần hơn việc “được thấy
Chúa”. Thế nhưng, nhiều người vẫn “đua
nhau” tìm kiếm “sự lạ” ở nơi này
hoặc nơi kia, Thánh Thể là phép lạ vĩ đại nhất, hằng ngày vẫn xảy ra tại các
nhà thờ hoặc nhà nguyện ở khắp nơi trên thế giới, thế thì còn tìm điều gì lạ ở
nơi nào chứ?
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nhưng,
dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng
là làm đẹp lòng Người. Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh
sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các
việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:9-10). Ý Chúa có
lẽ không phức tạp như chúng ta tưởng, ý Chúa là bổn phận của chúng ta trong
thời điểm hiện tại, dù chúng ta ở nơi này hoặc nơi khác. Làm tròn bổn phận và
trách nhiệm của mình là “làm đẹp lòng
Chúa”. Đơn giản mà lại không dễ hoàn tất!
Trình thuật Mc 4:26-34 là dụ ngôn “Hạt Giống Tự Mọc Lên” mà Chúa Giêsu
dùng với ngụ ý đề cập Nước Trời. Ngài nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì
cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy
có ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, người ấy
không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ
đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem
liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa”. Cái mà chúng ta gọi là “tự động” hoặc “tự nhiên” thì thật ra chính là ý Chúa quan phòng và tiền định.
Không ai thấy Nước Trời, nhưng Nước Trời vẫn lớn dần trong mỗi chúng ta và
trong xã hội. Đơn giản và thực tế như chính phủ, chẳng ai thấy chính phủ và
chẳng ai là chính phủ, nhưng chính phủ vẫn hiện hữu.
Nói dụ ngôn xong, Ngài đặt vấn đề: “Chúng
ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước
Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên
mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum
xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Ngài muốn dùng cách nói cụ
thể để ai cũng hiểu, tất nhiên tùy theo mức độ nghe và hiểu của mỗi người –
nhưng phải hiểu đúng chứ đừng hiểu theo ý riêng mình.
Hiểu ý Chúa qua Phúc Âm cũng dễ mà cũng khó. Có lẽ dụ ngôn “Người Gieo Giống” (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20; Lc 8:11-15) là dụ ngôn duy
nhất được Chúa Giêsu đã giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ. Để hiểu các dụ ngôn khác, có
thể lưu ý mấy điểm này:
1. Xác định phạm vi tâm linh. Chúa Giêsu thường
giới thiệu một dụ ngôn bằng cách nói “Nước
Trời ví như...” hoặc “giống như…”
(đề cập 7 lần trong chương 13, Phúc Âm theo Thánh Mát-thêu). Trong dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và Người Thu Thuế”,
Thánh Luca ghi: “Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự
hào cho mình là công chính mà khinh chê người
khác...” (Lc 18:9).
2. Phân biệt “chính” và “phụ”. Nói cách khác, không phải các chi tiết của dụ
ngôn đều có ý nghĩa sâu sắc. Một số chi tiết chỉ làm cho câu chuyện thực tế
hơn. Chẳng hạn, theo cách giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn “Người Gieo Giống”, Ngài không bình luận
về bốn loại đất khác nhau. Chi tiết “bốn loại” chỉ là chi tiết phụ đối với toàn
bộ dụ ngôn này.
3. So sánh Kinh
Thánh.
So sánh Kinh Thánh với Kinh Thánh là quy luật chú giải vô giá khi tìm hiểu các
dụ ngôn. Các dụ ngôn của Chúa Giêsu không bao giờ mâu thuẫn với Lời Chúa (Kinh
Thánh), bởi vì Ngài đã xác nhận: “Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng
là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố
gì” (Ga 12:49). Các dụ ngôn minh họa giáo lý, và các giáo huấn của Chúa
Giêsu luôn rõ ràng, mạch lạc.
Chúng ta thấy sách Châm Ngôn có những điều tương tự. Thánh vương
Sa-lô-môn đã dùng cách so sánh (tỷ giảo cách) để dạy về sự thật, đặc biệt trong
tính tương đương điển hình, sinh ra một “dụ
ngôn đơn giản”. Chẳng hạn: “Cơn thịnh nộ của vua như tiếng gầm sư
tử, kẻ làm vua nổi giận là làm hại chính mình” (Cn 20:2). Tiếng gầm của sư
tử được “ví như” cơn giận của nhà vua với mục đích là so sánh. Cách so sánh là
cách giúp người ta dễ hiểu vấn đề nào đó. Văn so sánh là đặc ngữ trong các dụ
ngôn – ngụ ngôn không có loại này.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con hiểu rõ và biết cố gắng thực
hành các huấn lệnh Ngài dạy, cụ thể là qua các dụ ngôn. Chúng con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét