Thánh Lễ
Hướng Đông
(Fri, 21/08/2015 -Vũ Văn An-Vietcatholic.net)
Ngày 12 tháng 6 vừa qua, Đức HY Robert Sarah, Tổng Trưởng Thánh
Bộ Phụng Thờ Thiên Chúa và Kỷ Luật Bí Tích, có viết một bài trên tờ
L’Osservatore Romano về Thánh Lễ Hướng Đông (Ad Orientem). Ngoài việc cho rằng
ở một số phần trong lễ qui, cộng đoàn phụng vụ có thể quay vế hướng Đông ra,
ngài còn đề cập tới nhiều hình thức hoặc cử chỉ phụng vụ bất xứng với tinh thần
Vatican II. Chúng tôi xin phóng dịch sau đây dựa vào bản tiếng Anh của Michael
J. Miller đăng trên Catholic World Report ngày 15 tháng 6.
Năm mươi năm sau ngày Đức GH Phaolô VI công bố, liệu Hiến Chế về
Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II có đã được đọc dứt khoát hay chưa? Sacrosanctum
Concilium thực ra không phải chỉ là một danh mục các “công thức” để
cải tổ, nhưng là một Đại Hiến Chương đích thực cho mọi hành động phụng vụ.
Trong đó, Công Đồng cho ta một bài học có tính huấn quyền về
phương pháp luận. Thực vậy, không hề chỉ bằng lòng với cách tiếp cận có tính kỷ
luật và bề ngoài đối với phụng vụ, Công Đồng muốn chúng ta chiêm niệm chính yếu
tính của phụng vụ. Thực hành của Giáo Hội luôn luôn phát sinh từ điều Giáo Hội
nhận lãnh và chiêm niệm trong mạc khải. Thừa tác mục vụ không thể tách biệt
khỏi tín lý.
Trong Giáo Hội, “hành động
được điều hướng về chiêm niệm” (xem số 2). Hiến Chế của Công Đồng mời gọi
ta tái khám phá nguồn gốc Ba Ngôi của công tác phụng vụ. Thực vậy, Công Đồng ấn
định rằng có một sự liên tục giữa sứ mệnh của Chúa Kitô Cứu Chuộc và sứ mệnh
phụng vụ của Giáo Hội. “Như Chúa Kitô đã
được Chúa Cha sai thế nào, thì Người
cũng sai các Tông Đồ như thế” để “nhờ
lễ hy sinh và các bí tích mà quanh đó
toàn bộ sinh hoạt phụng vụ xoay vần” các ngài có thể “hoàn tất công trình cứu rỗi” (số 6).
Thi hành phụng vụ, do đó, cũng là một với việc chu toàn công
trình của Chúa Kitô. Xét trong yếu tính, phụng vụ là “actio Christi”: tức
“công trình của Chúa Kitô trong việc cứu chuộc nhân loại và hoàn toàn tôn
vinh Thiên Chúa” (số 5). Người là thầy cả thượng phẩm vĩ đại, là chủ thể
thực sự, là người chủ đạo chân chính của phụng vụ (xem số 7). Nếu không dùng
đức tin để chấp nhận nguyên tắc hết sức quan trọng này, ta liều mình biến phụng
vụ thành công trình của con người, tự nó là một cử hành của cộng đồng.
Trái lại, công việc có thực chất của Giáo Hội là bước vào hành
động của Chúa Kitô, là tham gia vào công việc Người vốn được Chúa Cha ủy nhiệm.
Do đó, “tính viên mãn của việc thờ phượng
Thiên Chúa đã được ban cho ta, vì nhân tính của Người, kết hợp với Ngôi Lời,
chính là dụng cụ để cứu rỗi ta” (số 5). Do đó, đến lượt mình, Giáo Hội,
Nhiệm Thể Chúa Kitô, phải trở nên một dụng cụ trong tay Ngôi Lời.
Đó là ý nghĩa tối hậu của quan niệm chủ chốt trong Hiến Chế của
Công Đồng: “participatio actuosa” (tham dự tích cực). Đối với
Giáo Hội, việc tham dự này hệ ở việc trở nên dụng cụ của Chúa Kitô Linh Mục,
nhằm mục đích tham dự vào sứ mệnh Ba Ngôi của Người. Giáo Hội tham dự tích cực
vào công trình phụng vụ của Chúa Kitô bao lâu còn là khí cụ của Người. Theo
nghĩa này, kiểu nói “cộng đồng cử hành” có những hàm hồ của nó và buộc ta phải
thận trọng (xem Chỉ Thị Redemptoris sacramentum, số 42). Do đó,
việc "participatio actuosa” này không được hiểu là cần
phải làm một điều gì đó. Về điểm này, giáo huấn của Công Đồng thường hay bị bóp
méo. Thực ra, đây là vấn đề để Chúa Kitô dùng ta và liên kết ta với lễ hy sinh
của Người.
Việc “participatio” trong phụng vụ phải được
hiểu như một ơn thánh do Chúa Kitô ban, Đấng “luôn liên kết Giáo Hội với chính Người” (Sacrosanctum Concilium,
7). Người là Đấng có sáng kiến và có quyền tối thượng. Giáo Hội “kêu cầu Chúa mình, và qua Người, dâng sự
thờ phượng lên Chúa Cha Trường Cửu” (số 7).
Bởi thế, linh mục phải trở nên dụng cụ để Chúa Kitô tỏa sáng.
Như Đức Thánh Cha Phanxicô vừa nhắc nhở gần đây, vị cử hành không làm chủ màn
trình diễn, ngài không được tìm thiện cảm của cộng đoàn bằng cách tự sắp đặt
mình ở đàng trước cộng đoàn như thể là phát ngôn viên chính của nó. Trái lại,
vào sâu tinh thần của Công Đồng có nghĩa phải tự xóa bỏ mình, từ khước trở
thành tâm điểm của chú ý.
Trái với điều thường hay được duy trì, và hoàn toàn phù hợp với
Hiến Chế của Công Đồng, điều hoàn toàn thích đáng là trong nghi thức thống hối,
hát kinh Sáng Danh, các lời nguyện và kinh nguyện Thánh Thể, mọi người, cả linh
mục lẫn tín hữu, cùng quay về hướng đông, để tỏ bầy ý muốn tham dự vào công
việc thờ phượng và cứu chuộc đã được Chúa Kitô hoàn thành. Lối cử hành này rất
có thể được thi hành tại các nhà thờ chính tòa, nơi sinh hoạt phụng vụ cần phải
nêu gương (xem số 41).
Dĩ nhiên, có những phần khác của Thánh Lễ trong đó linh mục,
hành động “in persona Christi Capitis” [“nhân danh Chúa Kitô Làm Đầu”], bước vào cuộc đàm đạo phu thê với
cộng đoàn. Nhưng mục đích duy nhất của cuộc đàm đạo diện đối diện này là để dẫn
tới cuộc đàm đạo diện đối diện với Thiên Chúa, là cuộc đàm đạo mà nhờ ơn Chúa
Thánh Thần, sẽ trở nên cuộc đàm đạo lòng với lòng. Do đó, Công Đồng đã đề xuất
nhiều phương thế khác để cổ vũ việc tham dự: “tung hô, đáp ca, hát thánh vịnh, tụng ca (antiphon), và thánh ca, cũng
như các hành vi, cử chỉ và thái độ thân xác khác” (số 30).
Một lối giải thích quá vội vàng và quá ư con người đã khiến một
số người kết luận rằng điều cần thiết là làm sao để tín hữu luôn bận bịu. Não
trạng Tây Phương hiện thời, do kỹ thuật lên khuôn và không ngừng đuợc kích
thích bởi các phương tiện truyền thông, từng cố gắng biến phụng vụ thành một
công việc huấn giáo hữu hiệu và đáng làm. Trong tinh thần này, nhiều người đã
cố gắng làm cho các buổi cử hành phụng vụ được vui vẻ theo kiểu chè chén. Các
thừa tác viên phụng vụ, được thúc đẩy bởi các động lực mục vụ, đôi khi cố gắng
huấn giáo bằng cách đưa các yếu tố phàm tục kiểu trình diễn buôn bán vào các
buổi cử hành phụng vụ. Há đôi khi chúng ta đã không chứng kiến việc trăm hoa
đua nở của những chứng từ, những màn biểu diễn và hoan hô đó sao? Họ nghĩ những
điều này sẽ phát huy việc tham dự của tín hữu, trong khi thực ra, chúng đã giản
lược phụng vụ thành cuộc cờ của con người.
Thomas Merton từng viết rằng “im
lặng không phải là một nhân đức, tiếng động không phải là một tội lỗi, đúng
thế, nhưng náo động, hỗn độn và lúc
nào cũng ồn ào trong xã hội hiện đại” và trong một số cử hành Thánh Thể tại
Phi Châu, “đều nói lên môi trường cho các
tội lỗi lớn nhất của nó: tính vô thần thánh của nó, tính tuyệt vọng của nó. Một
thế giới tuyên truyền, không ngừng tranh luận, chửi rủa phỉ báng, phê bình chỉ
trích, hay chỉ đơn giản tán gẫu là một thế giới chẳng có gì để sống cho… Thánh
Lễ trở nên cảnh huyên náo và hỗn độn; lời cầu nguyện trở thành tiếng động bên
ngoài hay bên trong” (Thomas Merton The Sign of Jonas [San
Diego: Harcourt, Inc., 1953, 1981]).
Chúng ta thực sự đang liều mình không còn dành chỗ nào cho Thiên
Chúa trong các buổi cử hành của ta. Chúng ta đang sa vào cơn cám dỗ của người
Do Thái trong hoang địa. Họ tìm cách tạo cho họ một hình thức thờ phượng theo
qui mô của họ và theo tầm cỡ của họ, và ta đừng quên kết cục họ đã qùy lạy
trước một ngẫu thần, con bò vàng.
Đã đến lúc bắt đầu lắng nghe Công Đồng rồi. Phụng vụ “trên hết mọi sự là việc thờ phượng sự uy nghi của Thiên Chúa” (số 33). Nó có giá
trị huấn giáo bao lâu còn hoàn toàn hướng về việc vinh danh Thiên Chúa và thờ
phượng Người. Phụng vụ thực sự đặt chúng ta trước nhan siêu việt của Thiên
Chúa. Tham dự đích thực là đổi mới trong ta điều “thán phục” mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hết sức coi trọng
(xem Ecclesia de Eucharistia, số 6). Sự thán phục thánh thiêng này,
niềm kính sợ hân hoan này, đòi ta phải im lặng trước sự uy nghi của Thiên Chúa.
Ta hay quên rằng sự im lặng thánh thiện là một trong các phương thế được Công
Đồng ghi nhận để cổ xúy việc tham dự.
Nếu phụng vụ là công việc của Chúa Kitô, thì có cần vị cử hành
phải chêm các nhận định riêng của mình vào đó hay không? Ta nên nhớ rằng khi
sách lễ cho phép, thì việc chêm vào này không được trở thành một bài diễn văn
phàm tục, về con người, ít nhiều tinh tế trong việc nhận định về thời cuộc, hay
chào mừng có tính trần tục những người hiện diện, mà đúng hơn phải là lời
khuyên bảo ngắn gọn dẫn người ta vào mầu nhiệm thánh (xem Dẫn Nhập Tổng
Quát Vào Sách Lễ Rôma, số 50).
Còn về bài giảng lễ, tự nó, nó luôn là một hành động phụng vụ
với các qui luật riêng. Việc “participatio actuosa” vào công
việc của Chúa Kitô giả thiết ta phải lìa bỏ thế giới phàm tục để bước vào “hành động thánh thiêng vượt xa mọi hành động khác” (Sacrosanctum Concilium,
7). Thực vậy, “chúng ta quả đã hơi ngạo
mạn khi đòi được ở lại lãnh vực phàm
tục lúc bước vào lãnh vực thần thiêng” (Robert Sarah, God or
Nothing [San Francisco: Ignatius Press, 2015], chương IV).
Về phương diện trên, điều đáng tiếc là đền thánh trong các nhà
thờ của ta không còn là nơi hoàn toàn dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa nữa,
đến nỗi người ta vào đó với quần áo phàm tục, và nơi thánh không còn được khoa
kiến trúc làm nổi bật nữa. Như Công Đồng vốn dạy, vì Chúa Kitô hiện diện trong
lời của Người khi nó được công bố, thành thử cũng là điều tai hại không kém khi
các người đọc sách thánh không ăn vận thích đáng để chứng tỏ rằng họ đang không
đọc lời phàm trần mà là lời Thiên Chúa.
Phụng vụ là một thực tại, từ trong căn bản, vốn có tính huyền
nhiệm và chiêm niệm, và do đó, vướt quá tầm với của hành động con người; cho dù
việc tham dự của ta là một ơn thánh do Chúa Ban. Cho nên, về phần ta, nó giả
thiết ta phải mở lòng mình ra đón nhận mầu nhiệm đang được cử hành. Bởi thế,
Hiến Chế khuyến cáo ta hiểu trọn vẹn các nghi thức (xem số 34) và đồng thời,
dạy rằng “tín hữu… nên có khả năng cùng
nhau đọc hay hát bằng tiếng La Tinh những chỗ trong Phần Chung(ordinary) của
Thánh Lễ vốn thuộc về họ” (số 54).
Thực vậy, hiểu được nghi thức không phải là công việc không cần
giúp đỡ của một mình lý trí con người; việc này đòi phải nắm được mọi sự, hiểu
được mọi sự, thông thạo mọi sự. Hiểu các nghi thức thánh là cái hiểu của “sensus
fidei” (cảm thức đức tin), là cái hiểu nhờ thực hành đức tin sống động
qua các biểu tượng và nhờ biết bằng cách sống hòa hợp theo hơn là bằng các ý
niệm. Cái hiểu này giả thiết ta phải tiếp cận mầu nhiệm bằng thái độ khiêm
cung.
Nhưng liệu người ta có can đảm theo Công Đồng xa đến thế hay
không? Dù sao, lối giải thích trên, vốn được đức tin soi sáng, là điều nền tảng
đối với việc phúc âm hóa. Thực vậy, “phụng
vụ … cho những ai ở bên ngoài thấy Giáo Hội như một dấu hiệu được dương cao
giữa các dân tộc; dưới dấu hiệu này mọi con cái tản mác khắp nơi trên thế giới
được tụ về với nhau” (số 2). Nó phải ngưng việc trở thành một nơi bất tuân
các chỉ thị của Giáo Hội.
Nói một cách chuyên biệt hơn, nó không thể là dịp để các Kitô
hữu chia rẽ nhau. Các giải thích có tính biện chứng về Sacrosanctum
Concilium, tức lối giải thích đứt đoạn theo chiều này hay theo chiều nọ,
không phải là hoa trái của tinh thần đức tin. Công Đồng không có ý định đứt
đoạn với các hình thức phụng vụ thừa hưởng được từ Thánh Truyền, nhưng đúng
hơn, có ý định đánh giá chúng cách sâu sắc hơn. Hiến Chế tuyên bố rằng “bất cứ hình thức mới nào được chấp thuận
phải, bằng cách này hay cách khác, phải phát triển một cách hữu cơ từ những
hình thức đã có” (số 23).
Về phương diện trên, điều cần thiết là nên cử hành một số hình
thức theo “usus antiquior” [kiểu cũ] và phải làm như thế không
phải vì tinh thần chống đối mà là theo tinh thần của Sacrosanctum Concilium.
Cũng thế, sẽ là một sai lầm khi coi Hình Thức Ngoại Thường của Nghi Lễ
Rôma như phát xuất từ một nền thần học nào khác, vốn không phải là nền
thần học của cuộc canh cải phụng vụ. Và điều cũng đáng ước mong là trong ấn bản
tương lai của Sách Lễ nên thêm nghi thức thống hối và dâng của lễ theo lối cũ
nhằm mục đích nhấn mạnh điều này: hai hình thức phụng vụ soi sáng cho nhau, một
cách liên tục chứ không chống chọi nhau.
Nếu ta sống tinh thần
trên, thì phụng vụ sẽ hết còn là nơi tranh chấp và chỉ trích nhau, ngõ hầu cuối
cùng giúp ta tham dự một cách tích cực vào nền phụng vụ “được cử hành trong thành thánh Giêrusalem mà chúng ta vốn hướng về như
những lữ khách, nơi Chúa Kitô ngự bên tay phải Thiên Chúa, là thừa tác viên nơi
cực thánh và là nhà tạm đích thực” (số 8).
Vũ Văn An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét