Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

Gia đình 6 thế hệ, 185 thành viên chung sống

 Thứ năm, 27/6/2024, 13:03 (GMT+7)

Gia đình 6 thế hệ, 185 thành viên chung sống

ẤN ĐỘGia đình ông Sultan Mali ở làng Ramsar, cách TP Ajmer, bang Rajasthan 36 km vẫn giữ truyền thống sống quây quần cùng nhau, hiện có 60 phụ nữ, 65 đàn ông và 60 trẻ em.

Ông Sultan Mali, có sáu người con trai, Mohanlal, Bhanwarlal, Ramchandra, Chhaganlal, Chhotulal và Birdichand, trong đó có hai người đã qua đời.

Họ khác biệt trước sự thay đổi cấu trúc gia đình Ấn Độ trong thế kỷ qua. Xã hội dần theo khuynh hướng gia đình hạt nhân, chỉ bố mẹ và con cái. Tuy nhiên, nhà Sultan Mali muốn nhiều thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà.

Birdichand (con trai thứ) nói bố anh luôn dạy gia đình phải đoàn kết và họ đi theo con đường mà ông đã hướng dẫn. Nếu có tranh chấp, mọi người phải cùng nhau giải quyết.

"Tình yêu thương là thứ giúp cả nhà biết cách ứng xử và duy trì mối quan hệ", anh nói. "Chúng tôi sát cánh bên nhau trong niềm vui và nỗi buồn".

Các thành viên gia đình ông Sultan Mali ở làng Ramsar, Ấn Độ. Ảnh: NDTL

Các thành viên gia đình ông Sultan Mali ở làng Ramsar, Ấn Độ. Ảnh: NDTL

Mỗi tháng, gia đình "khổng lồ" mất 16.000 USD cho việc ăn uống và luôn dùng bữa chung. Nhiều thành viên đang làm việc cho chính phủ, công ty tư nhân, trong khi những người khác kiếm tiền từ trồng trọt, chăn nuôi, cửa hàng vật liệu xây dựng và lái máy kéo.

Năm 2016, một trong số con dâu đã trở thành trụ cột của làng bởi nỗ lực cải thiện tình trạng đường sá, cống rãnh và duy trì nguồn điện.

Giữa tháng 6, đoạn video về gia đình Bagdi Mali này lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội và thu hút hàng triệu lượt xem.

Nơi gia đình sống được hai diễn viên Bollywood Vicky Kaushal và Sara Ali Khan ghé thăm, khi họ đang quay một bộ phim gần đó. Các diễn viên nói bị choáng ngợp trước tình yêu thương của mọi người.

Ngọc Ngân (Theo New Delhi Television Limited)

Đời sống tu trì - Tông đồ Phao-lô - Vạ tuyệt thông cho 10 nữ tu dòng Clara

 

Đời sống tu trì - Tông đồ Phao-lô - Vạ tuyệt thông cho 10 nữ tu dòng Clara

Tác giả: 
 Trầm Thiên Thu

 

 

ĐỜI SỐNG TU TRÌ

 

Chúa Giêsu đã kêu gọi người thanh niên giàu có đi theo Ngài, và Chúa Giêsu đã hứa ban phúc lành và sự sống đời đời cho người thanh niên này. Thật không may, “bị sở hữu bởi tài sản riêng của mình,” người đàn ông giàu có đã buồn bã rời xa Chúa Giêsu. Anh thích của cải của mình hơn cả kho tàng tình bạn của Chúa Giêsu ở đời này cũng như ở đời sau, trên trời mãi mãi. (Mc 10:17-31)

 

Đoạn Tin Mừng này liên quan – ít nhất là gián tiếp, với lời kêu gọi vào Đời Sống Tu Trì – việc triệt để đi theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng ta. Sự thật của vấn đề là Chúa Giêsu đã kêu gọi và mời gọi người đó đi theo Ngài, nhưng Ngài sẽ không bao giờ ép buộc người đó. Ngài tôn trọng quyền tự do cá nhân.

 

Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn trình bày để bạn suy ngẫm, giáo dục và suy niệm một số điểm và khía cạnh nổi bật nhất của một số yếu tố cấu thành then chốt trong ĐỜI SỐNG TU TRÌ.

 

Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh một cách phổ quát. Những lời của Chúa Giêsu vừa rõ ràng vừa dứt khoát: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Chương V trong Hiến Chế Tín Lý “Lumen Gentium” của CĐ Vatican II có tựa đề: “Lời kêu gọi nên thánh phổ quát.” Tuy nhiên, phải nói rằng mỗi người đều có một ơn gọi riêng. Hầu hết được kêu gọi sống đời hôn nhân, một số khác sống độc thân, một số khác nữa được kêu gọi làm linh mục, và cuối cùng có những người được kêu gọi sống Đời Sống Tu Trì. Đó là chủ đề của tiểu luận ngắn gọn này.

 

1. MỤC ĐÍCH CHÍNH YẾU

 

Tài liệu của Giáo Hội về Đời Sống Tu Trì của Công đồng Vatican II có tựa đề “Perfectae Caritatis” – Đức Mến Trọn Lành. Tựa đề Latinh này minh họa và kết hợp mục đích chính  y của việc bước vào Đời Sống Tu Trì hoặc Bậc Sống Tu Trì – nghĩa là đạt đến đức ái hoàn hảo. Tóm lại, nhân đức quan trọng nhất trong đời sống của người theo Chúa Giêsu là đức ái – nghĩa là tình yêu siêu nhiên đối với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta. Người ta bước vào trạng thái tu trì với mục đích cuối cùng là đạt đến trạng thái tăng trưởng và phát triển năng động của tình yêu dành cho Thiên Chúa, tràn ngập tình yêu dành cho người lân cận. Thật vậy, nếu chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta phải yêu thương người lân cận. Đó là lời nhắc nhở thường xuyên trong các Thư của Thánh Gioan.

 

2. TỰ DO

 

Một lần nữa, liên quan sự từ chối của chàng trai giàu có, lời kêu gọi vào Đời Sống Tu Trì phải được chấp nhận một cách tự do, hoàn toàn và không dè dặt – không có sự bắt buộc nào. Tắt một lời, Thiên Chúa muốn được yêu thương không phải bằng vũ lực mà bằng hành động tự do của ý chí, cách sự lựa chọn yêu thương.

 

3. NGƯỜI SÁNG LẬP

 

Các Dòng Tu và Tu Hội có những người sáng lập đã truyền tải và để lại di sản tinh thần cụ thể mà Thiên Chúa đã ban tặng cho họ. Có rất nhiều gương sáng lập: Thánh Inhaxiô và Dòng Tên, Thánh Gioan Bosco và Dòng Salêdiêng, Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta và Dòng Thừa Sai Bác Ái, Thánh Phanxicô và Dòng Anh Em Hèn Mọn, Thánh Đa Minh và Dòng Đa Minh, Thánh Anphong và Dòng Chúa Cứu Thế, Thánh Biển Đức và Dòng Biển Đức. Còn nhiều nữa, nhưng đó là một vài ví dụ tuyệt vời.

 

4. ĐẶC SỦNG

 

Mỗi người trong số những người sáng lập đã để lại cho dòng một đặc sủng cụ thể, nghĩa là một diện mạo hoặc đặc điểm cụ thể để phân biệt dòng này với các dòng khác. Thật vậy, nhiệm vụ của các thành viên trong mỗi dòng là tìm hiểu cả Đấng Sáng Lập và đặc sủng riêng của họ.

 

5. LỜI KHẤN

 

Đây là những lời hứa long trọng mà cá nhân đã hứa với Thiên Chúa để đạt được sự tự do tinh thần và khả năng lớn hơn trong việc theo Chúa Giêsu một cách triệt để hơn và với một tình yêu mãnh liệt hơn. Hãy nhớ đến tài liệu “Perfectae Caritatis” – lời kêu gọi triệt để yêu mến Chúa Giêsu một cách hoàn toàn và trọn vẹn. Trong hầu hết các dòng, các lời khấn long trọng là Khiết Tịnh, Nghèo Khó và Vâng Phục.

 

6. KHIẾT TỊNH

 

Đây không chỉ đơn thuần là việc từ bỏ tình trạng Hôn Nhân Thánh Thiện, mà là ước muốn yêu mến Chúa Giêsu một cách hoàn toàn và trọn vẹn. Tóm lại, đời tu thực sự là một mối tình giữa Chúa Giêsu và Người Yêu Dấu của Ngài. Các nữ tu thực sự đeo một chiếc nhẫn, ý thức được sự thật rằng họ được kết hợp một cách huyền nhiệm với Chúa Giêsu, Chàng Rể của linh hồn họ. Chúa Giêsu hiện ra với Thánh Catarina Siena và trao cho thánh nữ một chiếc nhẫn mà người khác không thấy nhưng thánh nữ thấy.

 

7. KHÓ NGHÈO

 

Lời khấn này cho phép tu sĩ từ bỏ mối nguy hiểm lan tràn và cố hữu của việc trở nên quá gắn bó với của cải vật chất và chủ nghĩa duy vật nói chung. Vì lý do này mà người thanh niên giàu có đã không theo Chúa Giêsu vì anh ta có nhiều của cải. Anh ta bị sở hữu bởi chính tài sản của mình. Tóm lại, với lời khấn khó nghèo, Chúa Giêsu trở thành kho tàng của đời họ. Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu trở thành viên ngọc có giá trị vô hạn. Nếu một người sở hữu Chúa Giêsu và được Chúa Giêsu chiếm hữu, người đó giàu hơn một tỷ phú. Chúa Giêsu cảnh báo thế giới: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6:24)

 

8. VÂNG LỜI

 

Với lời khấn này, các tu sĩ phó thác ý muốn của mình cho Thiên Chúa bằng cách tự ý chọn vâng phục Bề Trên địa phương, Giám Tỉnh và Bề Trên Cả. Điều này được thực hiện theo gương Chúa Giêsu, mẫu mực về mọi mặt. Thật vậy, Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. (Pl 2:8) Bằng cách thực hiện lời khấn này, các tu sĩ có thể vượt qua một trong những kẻ thù và trở ngại lớn nhất cho sự phát triển trong đời sống tâm linh – một niềm kiêu hãnh quá lớn rất đặc trưng của thời đại ngày nay!

 

9. CỘNG ĐOÀN

 

Như chúng ta đọc trong Sách Công vụ Tông đồ, các Kitô hữu tiên khởi đã sống trong cộng đoàn, đồng tâm và chia sẻ mọi điều chung. Họ hiệp nhất trong tình yêu dành cho Chúa Giêsu và yêu thương nhau. Người ta rất ấn tượng với lối sống của họ và nhận xét họ yêu nhau như thế nào: “Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn.” (1 Pt 1:22) Chứng tá tình yêu này là sức thu hút mạnh mẽ, thúc đẩy người khác trở thành Kitô hữu. Đời Sống Tu Trì cũng vậy, đòi hỏi phải sống chung với anh chị em mình. Đấng Đáng Kính Bruno Lanteri (Sáng lập Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ) đã nói ngay trước khi từ giã cõi đời này sang kiếp sau, những lời ấm lòng nhưng đầy thách thức này: “Hãy yêu thương nhau và làm tất cả những gì có thể để không bao giờ phá vỡ mối dây yêu thương với nhau.”

 

10. THÓI QUEN TU TRÌ

 

Công Đồng Vatican II nhấn mạnh tầm quan trọng của Thói Quen Tu Trì như một dấu hiệu của sự thánh hiến của một người cho Thiên Chúa. Ngoài ra, Thói Quen Tu Trì còn là dấu hiệu Cánh Chung, có nghĩa là nó là dấu hiệu cụ thể và nhắc nhở rằng thế giới này đang trôi qua, và thực sự có một thế giới vượt xa cuộc sống ngắn ngủi và phù du này trên trái đất. Nói cách khác, nó ám chỉ số mệnh của chúng ta là Thiên Đàng.

 

11. CẦU NGUYỆN CHUNG

 

Một đặc điểm nổi bật khác của Đời Sống Tu Trì là cầu nguyện. Người tu sĩ có nhiệm vụ đầu tiên là chiêm niệm những điều thiêng liêng, nghĩa là cống hiến cho đời sống cầu nguyện nghiêm túc. Họ cầu nguyện riêng nhưng cũng tìm những thời điểm cụ thể để cầu nguyện với anh chị em mình, vì Chúa Giêsu đã nói: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18:20)

 

12. ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ VÀ ĐẶC SỦNG

 

Các tu sĩ tận tâm sống tích cực hơn được mời gọi thực hiện ơn đặc sủng của mình bằng cách thực hiện một hoạt động tông đồ cụ thể. Thật vậy, nếu một tu sĩ thực sự yêu mến Chúa Kitô thì họ nhất thiết sẽ yêu mến những gì Ngài yêu thích – cứu rỗi các linh hồn bất tử đạt được nhờ cầu nguyện, sám hối và tích cực hoạt động tông đồ.

 

13. CHIỀU KÍCH THÁNH MẪU

 

Các vị lập dòng lấy Chúa Giêsu làm mục đích và trọng tâm chính của cuộc đời họ. Chúa Giêsu thực sự là CON ĐƯỜNG, SỰ THẬT và SỰ SỐNG. Tuy nhiên, các dòng tu có Đức Mẹ là mẫu mực cho mọi tu sĩ, là Mẹ Thiêng Liêng và Hướng Dẫn Viên của họ. Một số ví dụ về các đặc sủng khác nhau của Thánh Mẫu trong Đời Sống Tu Trì là: Thánh Gioan Bosco và Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, Thánh Đa Minh và Đức Mẹ Mân Côi, Thánh Anphong và Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Thánh Augustinô và Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành, Thánh Bênađô và Đức Mẹ Sao Biển, Mẹ Thánh Têrêsa và Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

 

Chúng ta kết thúc tiểu luận ngắn về Đời Sống Tu Trì bằng những lời cuối cùng của Sắc lệnh Canh Tân Đời Sống Tu Trì, Perfectae Caritatis, ngày 25 tháng 10 năm 1965, với những lời an ủi và khích lệ lớn lao:

 

Do đó, tất cả các tu sĩ, với đức tin không suy giảm, với lòng bác ái đối với Thiên Chúa và tha nhân, với lòng yêu mến Thập Giá và với niềm hy vọng về vinh quang trong tương lai, phải truyền bá Tin Mừng về Chúa Kitô khắp thế giới, để chứng tá của họ được mọi người nhận biết, và Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời, được tôn vinh. (Mt 5:16) Như vậy, qua lời cầu nguyện của Đức Trinh Nữ Maria nhân lành, Mẹ Thiên Chúa, Đấng có đời sống mẫu mực cho mọi người (Thánh Ambrôsiô, De Virginitate 2, 3, n. 5) cầu thay nguyện giúp cho họ gia tăng mỗi ngày và mang lại nhiều hoa trái cứu độ dồi dào hơn.

 

LM. ED BROOM, OMV

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

*********

 

TÔNG ĐỒ PHAOLÔ

 

Thánh Phaolô qua đời khoảng năm 65. Các bức thư của ngài chiếm gần một nửa Tân Ước, từ đó Giáo Hội được giảng dạy từ Chúa Nhật này đến Chúa Nhật khác. Không thể đánh giá thấp tầm ảnh hưởng Thánh Phaolô. Ngài không chỉ là một trong những Kitô hữu quan trọng và quan trọng nhất trong lịch sử của chúng ta mà còn được coi là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhân loại.

 

Tất cả bắt nguồn từ kinh nghiệm của Thánh Phaolô với Chúa Kitô Phục Sinh trên đường đến Đamát, dẫn đến sự hoán cải của kẻ bách hại các Kitô hữu. Theo quan điểm của Phaolô, cuộc gặp gỡ với Đức Kitô rất thực tế, không khác gì những cuộc gặp gỡ của Đức Kitô với Nhóm Mười Hai. Kinh nghiệm độc đáo của Phaolô đã định hình và cung cấp thông tin cho Giáo Hội sơ khai một cách đáng kể đến nỗi chính Phaolô đã được coi là “tông đồ thứ mười ba.”

 

Cuộc gặp gỡ của Thánh Phaolô với Chúa Kitô bắt nguồn từ đức tin sâu xa về Thánh Thể. Qua kinh nghiệm của mình trên đường đến Đamát, ông biết rằng cuộc bách hại những người theo Đức Kitô cũng là sự bắt bớ chính Đức Kitô. Các Kitô hữu non trẻ mà Thánh Phaolô muốn tiêu diệt là một với Chúa Kitô, các chi thể của Nhiệm thể Ngài qua phép rửa, một mối liên kết được củng cố và tăng cường qua việc nhận lấy thân xác Ngài trong Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6:56)

 

Thánh Phaolô tin tận đáy lòng rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình Máu Chúa Kitô. Ngài công bố và dạy rằng Sự Hiện Diện Thánh Thể của Chúa Kitô là sự thật.

 

Cuộc gặp gỡ của Thánh Phaolô với Chúa Phục Sinh không chỉ dẫn đến sự hoán cải mà còn dẫn đến nỗ lực của ngài nhằm gia tăng tư cách thành viên trong Nhiệm Thể Đức Kitô và giảng dạy về những kết quả của cuộc sống mới mà sự kết hợp mang lại. Mục đích của Thánh Phaolô là xây dựng cộng đồng tín hữu sống như họ đã “mặc lấy Chúa Giêsu Kitô.” (Rm 13:14) Đây chính là điều đã hình thành và thúc đẩy những công cuộc truyền giáo đầy ấn tượng của ngài trong ước muốn loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại.

 

Thánh Phaolô tin tận đáy lòng rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu Chúa Kitô. Ngài công bố và dạy rằng sự hiện diện Thánh Thể của Chúa Kitô là có thật. Để minh họa điều này, ngài viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Ngài sao?” (1 Cr 10:16) Không chỉ Sự Hiện Diện Thánh Thể của Chúa Kitô thực sự đối với Thánh Phaolô, mà qua đó, Chúa Kitô ở trong chúng ta, thay đổi chúng ta, và hiệp nhất với chúng ta. Sự kết hiệp của chúng ta vào thân thể Đức Kitô là rất thực tế, Thánh Phaolô viết: “Tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2:19-20) Việc rao giảng và giảng dạy của Thánh Phaolô đòi hỏi phải hoán cải để được cứu rỗi và việc xây dựng cộng đồng được xác định bằng lối sống nhân đức, trong đó “cao trọng hơn cả là đức mến.” (1 Cr 13:13)

 

Trình thuật của Thánh Phaolô về Bữa Tiệc Ly là một trong những văn bản còn sót lại sớm nhất, điều quan trọng đối với lời rao giảng của ngài là việc Chúa Kitô muốn chúng ta cử hành lễ tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Ngài. Thánh Phaolô cũng cảnh báo về tầm quan trọng của việc tham dự Thánh Thể: “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này.” (1 Cr 11:27-28)

 

Cuộc tử đạo của Thánh Phaolô đã hoàn tất một đời sống trọn vẹn trong và cho Chúa Kitô. Thánh Phaolô khuyến khích các Kitô hữu hãy tôn vinh Chúa Kitô “trong Giáo Hội,” (Ep 3:21) nghĩa là tất cả chúng ta đều được mời gọi làm chứng cho Chúa Kitô bằng cuộc sống của mình. Trong khi một số người có thể được kêu gọi làm như vậy đến mức hiến mạng sống mình bằng cách chết vì Chúa Kitô và Giáo Hội, thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi hiến mạng sống mình cho Ngài và phục vụ Ngài. Như Thánh Phaolô, chúng ta sống theo tinh thần Thánh Thể bằng cách “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12:1)

 

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

***********

 

 

VẠ TUYỆT THÔNG CHO 10 NỮ TU DÒNG CLARA

 

Giáo quyền Công Giáo ở Tây Ban Nha phạt tuyệt thông và trục xuất 10 nữ tu Dòng Thánh Clara nghèo khó ở Belorado vì tội ly giáo. Quyết định này được công bố bởi TGM Mario Iceta, TGP Burgos, đồng thời là ủy viên giáo hoàng và đại diện pháp lý của các tu viện Belorado, Orduña và Derio ở Tây Ban Nha.

 

Điều 751 của Giáo Luật nói rằng ly giáo là “từ chối phục tùng giáo hoàng tối cao hoặc hiệp thông với các thành viên của Giáo Hội phục tùng ngài.” Hình phạt cho tội này là vạ tuyệt thông.

 

Trong một thông cáo báo chí ngày 22-6-2024, TGP Burgos “đã ban hành sắc lệnh tuyên bố vạ tuyệt thông và tuyên bố ‘Ipso Facto’ [ngay lập tức] trục xuất khỏi đời sống thánh hiến của 10 nữ tu đã ly giáo.”

 

Tuyên bố cũng chỉ ra rằng “các chị em này cũng chính là những người đã đưa ra quyết định tự do và cá nhân của mình là rời bỏ Giáo Hội Công Giáo. Với quyết định này, cần phải nhớ rằng việc tuyên bố vạ tuyệt thông là một hành động pháp lý được Giáo Hội coi như một biện pháp chữa bệnh, thúc đẩy sự suy ngẫm và hoán cải cá nhân.” Tuyên bố này giải thích: “Giáo Hội luôn thể hiện lòng trắc ẩn sâu sắc, và với tư cách là một người mẹ, sẵn sàng chào đón những đứa con của mình, giống như người con hoang đàng, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và bắt đầu hành trình trở về nhà Cha.”

 

Ngoài ra, TGP Burgos chỉ ra rằng “tiếp tục có một cộng đoàn tu gồm các nữ tu không bị vạ tuyệt thông, vì họ không ủng hộ việc ly giáo: Họ là năm chị lớn và ba chị khác, mặc dù ở lần này họ không ở tu viện, họ thuộc về cộng đoàn do được gia nhập.”

 

Cuối cùng, tuyên bố của TGP Burgos lưu ý rằng “các chị lớn tuổi tiếp tục là ưu tiên hàng đầu trong mối quan tâm của chúng tôi. Liên dòng các nữ tu Clara nghèo khó của Đức Mẹ Aránzazu đã lên kế hoạch chăm sóc ngay lập tức cho các nữ tu này ngay tại tu viện Belorado, chuyển một số nữ tu từ các tu viện khác của liên dòng đến sống trong tu viện.”

 

QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁC NỮ TU

 

Ngày 13-5-2024, cộng đoàn các nữ tu dòng Clara nghèo khó của các tu viện Belorado và Orduña, lần lượt thuộc TGP Burgos và GP Vitoria ở Tây Ban Nha, đã công bố một tuyên ngôn và một lá thư trong đó họ tuyên bố rằng họ sẽ rời bỏ Giáo Hội Công Giáo và đặt mình dưới sự giám hộ của vị giám mục giả bị vạ tuyệt thông Pablo de Rojas. Các nữ tu tuyên bố họ sẽ rời bỏ “Giáo Hội Công Đồng [tức là hậu CĐ Vatican II] mà Giáo Hội này thuộc về để trở thành một phần của Giáo Hội Công Giáo.”

 

Cuối tháng 5-2024, Vatican đã bổ nhiệm TGM Iceta làm ủy viên giáo hoàng với toàn quyền. Khi ngài bắt đầu thực hiện các biện pháp, các nữ tu đã nộp đơn khiếu nại lên Cảnh Sát Quốc Gia, cáo buộc TGM Iceta “lạm quyền.”

 

Đầu tháng 6-2024, TGP Burgos chính thức thông báo cho các nữ tu rằng họ phải ra trước tòa án Giáo Hội TGP Burgos để trả lời về tội ly giáo được định nghĩa trong Điều 751 của Giáo Luật, có thể bị phạt vạ tuyệt thông. Thời hạn đã hết vào Thứ Sáu ngày 21-6-2024 và các nữ tu đã không xuất hiện.

 

VẠ TUYỆT THÔNG LÀ GÌ?

 

Nói ngắn gọn, vạ tuyệt thông có thể được định nghĩa là hình phạt nghiêm trọng nhất mà một người đã được rửa tội có thể phải chịu, bao gồm việc bị loại ra ngoài sự hiệp thông của các tín hữu trong Giáo Hội Công Giáo và không được lãnh nhận các bí tích.

 

ĐHY Mauro Piacenza, đại diện tòa án danh dự của Giáo Hội, đã từng giải thích rằng mục đích của việc rút phép thông công là khiến “người có tội phải ăn năn và hoán cải.” Ngài lưu ý: “Với hình phạt vạ tuyệt thông, Giáo Hội không cố gắng hạn chế mức độ thương xót bằng một cách nào đó mà chỉ đơn giản là làm rõ mức độ nghiêm trọng của tội ác.”

 

TẠI SAO BỊ VẠ TUYỆT THÔNG?

 

Vạ tuyệt thông không chỉ là một hình phạt và còn vượt xa việc hạn chế rước lễ. Theo Điều 1339 § 2, cùng với việc rút phép thông công “trong trường hợp hành vi gây gương xấu hoặc gây rối nghiêm trọng trật tự công cộng, đấng bản quyền cũng có thể sửa dạy người đó, theo cách thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của người đó và điều kiện của người đó và điều đã được thực hiện.”

 

ĐIỀU GÌ XẢY RA TIẾP THEO?

 

Vì các nữ tu đã tuyên bố mình không còn là thành viên của Giáo Hội Công Giáo nên khi ở lại tu viện, họ thấy mình đang chiếm giữ tài sản của Giáo Hội mà họ không thuộc về, và không có quyền hợp pháp để ở đó.

 

TGM Iceta đã nói với họ rằng họ cần phải rời khỏi cơ sở do hậu quả của hành động của họ nhưng đang thực hiện một cách tiếp cận kiên nhẫn, hy vọng họ sẽ tự làm như vậy vào đầu tháng 7-2024 mà không cần bị buộc phải trục xuất.

 

TGM Iceta chỉ ra rằng mặc dù các nữ tu không công nhận quyền hạn của ngài cũng như Giáo Luật áp dụng cho họ trong trường hợp này, như được quy định tại Điều 1.4 của thỏa thuận giữa Tây Ban Nha và Tòa Thánh, luật dân sự của Tây Ban Nha công nhận Giáo Luật của Giáo Hội là quản lý những vấn đề này sao cho “luật dân sự tuân thủ những gì Giáo Luật quy định trong các thực thể Giáo Hội,” giống như nhà nước Tây Ban Nha công nhận tính hợp lệ của hôn nhân do một linh mục Công Giáo cử hành.

 

Về giám mục giả Rojas và linh mục giả Ceacero, TGM Iceta giải thích rằng “đã gần 4 tuần kể từ khi họ được thông báo rằng họ không nên ở trong tu viện nhưng họ vẫn cứ ở đó,” vì vậy các cơ quan pháp luật sẽ hành động chống lại họ, có lẽ nhanh hơn so với các nữ tu bị vạ tuyệt thông.

 

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2024

7 thói quen hàng ngày giúp não trẻ lâu

 

7 thói quen hàng ngày giúp não trẻ lâu

Tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ giấc, tránh căng thẳng, ăn uống lành mạnh góp phần tăng cường chức năng thần kinh, giúp não nhạy bén.

Não cũng giống như các bộ phận khác của cơ thể đều chịu tác động bởi các thói quen hàng ngày. Do đó, duy trì lối sống lành mạnh có lợi cho não.

Hoạt động thể chất thường xuyên

Tập thể dục không chỉ có lợi cho cơ thể mà còn tốt cho não. Hoạt động thể chất làm tăng lượng máu đến não, thúc đẩy phát triển của các tế bào thần kinh mới và tăng cường chức năng nhận thức. Hoạt động thể chất thường xuyên góp phần giảm nguy cơ suy giảm nhận thức khi về già. Mỗi người nên đặt mục tiêu dành ít nhất 30 phút tập thể dục cường độ vừa phải như đi bộ, yoga hoặc đạp xe 3-5 ngày trong tuần.

Ăn uống lành mạnh

Thực phẩm bạn ăn có tác động trực tiếp đến sức khỏe não bộ. Chế độ ăn Địa Trung Hải với nhiều cá, trái cây, rau, các loại hạt, ngũ cốc nguyên hạt và protein nạc, cắt giảm thịt đỏ có thể cải thiện chức năng não. Một số thay đổi nhỏ chẳng hạn chuyển từ sữa giàu chất béo sang sữa gầy, giúp cắt giảm lượng calo, tránh tăng cân ảnh hưởng đến chức năng hormone trong não.

Nghỉ ngơi đầy đủ

Giấc ngủ rất quan trọng đối với các chức năng nhận thức như trí nhớ, kỹ năng giải quyết vấn đề. Trong khi ngủ, não củng cố ký ức và loại bỏ độc tố. Giấc ngủ kém có thể dẫn đến suy giảm nhận thức, làm tăng nguy cơ mắc mất trí nhớ.

Người trưởng thành cần ngủ 7-9 tiếng mỗi đêm để não hoạt động tối ưu. Thiết lập thói quen ngủ đều đặn, tạo môi trường yên tĩnh để đảm bảo giấc ngủ chất lượng.

Giữ cho tâm trí thoải mái

Bộ não cũng cần rèn luyện thường xuyên để thúc đẩy chức năng ghi nhớ. Các hoạt động kích thích trí óc như giải câu đố, đọc sách, học một ngôn ngữ mới hoặc chơi một nhạc cụ có thể cải thiện chức năng nhận thức. Điều này cũng góp phần làm chậm lại quá trình khởi phát mất trí nhớ.

Cười nhiều hơn, tránh căng thẳng vì chúng có nguy cơ khiến não tiết ra một loại hormone gây căng thẳng là cortisol. Theo thời gian, mức độ căng thẳng cao ảnh hưởng đến việc học tập và khả năng ghi nhớ.

Tạo kết nối xã hội

Tương tác xã hội là một trong những cách quan trọng để thúc đẩy sức khỏe tâm thần. Các hoạt động như đi chơi cùng bạn bè, gia đình, cộng đồng có thể giảm căng thẳng, chống trầm cảm và cải thiện nhận thức. Duy trì các mối quan hệ xã hội tích cực để làm chậm suy giảm nhận thức. Dành thời gian mỗi ngày kết nối với người khác, dù chỉ là gọi điện thoại, trò chuyện qua video hay tương tác trực tiếp.

Thiền

Thiền có tác động lớn đến sức khỏe não bộ, giúp giảm căng thẳng, cải thiện sự tập trung và tăng cường điều tiết cảm xúc. Thiền định thường xuyên có thể tăng cường trí nhớ. Bộ môn này còn hỗ trợ cải thiện cao huyết áp hoặc cholesterol cao, cả hai đều có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Thực hành thiền hàng ngày, mỗi lần vài phút, tập trung tâm trí.

Ăn thực phẩm bổ não

Ăn thực phẩm tăng cường trí não như cá béo, quả việt quất, nghệ, bông cải xanh, hạt bí ngô, chocolate đen, trứng, trà xanh, bơ, rau xanh có thể duy trì chức năng nhận thức, sức khỏe tâm thần. Chúng cung cấp axit béo omega-3, chất chống oxy hóa, vitamin K, folate cùng các chất dinh dưỡng khác giúp bảo vệ não khỏi stress oxy hóa và viêm nhiễm.

Thánh ý Chúa trên mỗi con người - Sóng gió cuộc đời

 

Thánh ý Chúa trên mỗi con người - Sóng gió cuộc đời

Tác giả: 
 Lm Nguyễn Văn Độ

 

 

Thánh ý Chúa trên mỗi con người

SINH NHẬT GIOAN TẨY GIẢ

(Lc 1, 57 – 66.80)

 

Đọc lại cuộc đời của thánh thánh Gioan Tẩy Giả từ lúc sứ thần truyền tin cho ông Dacaria đến ngày cắt bì, đặt tên cho con trẻ là Gioan (x. Lc 1,60), chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, an bài và sắp đặt trên đời chúng ta.

 

Cuộc đời và ơn gọi của Gioan

“Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, Người đã đặt tên cho tôi”(Is 49,1).

 

Lời Chúa trích sách tiên tri Isaia trên đây thật đúng với ơn gọi, cuộc đời và sứ mạng của nhân vật trọng đại của Thánh Kinh là Gioan Tẩy Giả, gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngũ các vị đại tiên tri và số những người công chính thì Gioan Tẩy Giả đã được Thiên Chúa quan phòng đặt để đi trước Đấng Thiên Sai, hầu sửa đường trước cho Ngài bằng rao giảng và làm chứng nhân cho Đấng Cứu Thế.

 

 “Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Tha đã thánh hiến ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc” (Gr 1,5).

 

Lời xác nhận trên trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cũng áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nữ, Đấng khác sinh ra bởi một bà lão hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đã chỉ điểm cho thấy Đấng sẽ mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.

 

Cuộc đời của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người” (Lc 1, 76). Tất cả những ơn gọi ấy làm nên một lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa tác động trong lịch sử con người. “Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi” (Lc 1,13). Đó là lời Sứ Thần nói với ông Dacaria. Ông đã được Chúa yêu thương và nhậm lời. Chúa đã can thiệp vào lịch sử cuộc đời và ơn gọi của Gioan nói riêng và của mỗi người chúng ta nói chung.

 

Hiện hữu trong sự quan phòng

 

Giáo lý Hội Thánh dạy: “Sau khi sáng tạo, Thiên Chúa không bỏ mặc các thụ tạo của Ngài. Ngài không chỉ ban cho chúng hữu thể và hiện hữu, Ngài còn luôn gìn giữ chúng hiện hữu, cho chúng khả năng hành động và đưa chúng đến cùng đích”. Sự gìn giữ, sắp xếp và tác động thúc đẩy các tạo vật để chúng đi đến cùng đích ấy được gọi là việc Thiên Chúa quan phòng. (x. SGLHTCG, số 301). Như vậy, theo Giáo lý của Hội Thánh thì Thiên Chúa không chỉ sáng tạo nên vạn vật rồi bỏ mặc chúng, mà Ngài còn quan tâm chăm sóc và điều hành chúng bằng ý định đầy quyền năng của Chúa.

 

Thánh Gioan Kim Khẩu viết: “Chúa lưu ý đến từng điều cho con người. Phần ta, ta không thêm được gì cho thân ta, nhưng Chúa quan phòng làm hoàn toàn đầy đủ mọi việc cho ta. Nếu không có Chúa quan phòng, thì mọi sự lo lắng vất vả của chúng ta đều vô ích”.

 

Thánh Basiliô dùng kiểu nói ví von: “Chúa cho bò ngựa có cỏ, thì lại cho con người có của cải sinh sống. Chúa tạo nên mọi thứ là dự bị cho con người có đủ thức ăn… Không có gì là không có lý do hay tình cờ, nhưng là kết quả của tài khôn ngoan vô cùng”.Thánh Augustinô thì đưa ra một nhận xét chí lý: “Thượng Đế không phải như một kỹ sư xây nhà xong có thể bỏ đấy đi, vì nếu Ngài ngơi tay ra thì tất cả vũ trụ sụp đổ”. Thánh nhân viết tiếp: “Sao tôi lại xin để Chúa ở trong tôi, trong khi tôi không thể tồn tại nếu Chúa không ở trong tôi?” Theo ngài, đúng hơn phải nói: “Tôi không thể tồn tại nếu tôi không ở trong Chúa, mà do đó, nhờ đó và trong đó tất cả mọi vật tồn tại”.

 

Gioan Tẩy là kiểu mẫu điển hình cho sự quan phòng của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa can thiệp cụ thể trong lịch sử đời người. Mang danh hiệu là Tiền hô của Đấng Cứu Thế, Gioan có sứ mạng “đem nhiều con cái Ítrael trở về cùng Chúa” (Lc 1, 16).  Gioan đã sống xứng danh người loan báo về Đấng Cứu Thế. Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa tạo dựng và an bài trong ý định nhiệm mầu cao siêu của Thiên Chúa.

 

Thánh ý Chúa trên cuộc đời ta

 

“Từ trong thai mẫu tôi, Chúa là Đấng bảo vệ tôi” (Tvđc).

 

Hôm nay chúng ta có thể dùng câu của Thánh Vịnh này áp dụng vào chính chúng ta. Thiên Chúa biết và yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta mở mắt chào đời để chiêm ngắm kỳ công của Chúa. Khi sinh ra, mỗi chúng ta nhận được một tên gọi trần gian. Nhưng ngay trước đó, mỗi người đã có một tên thánh : tên mà Thiên Chúa Cha biết và yêu thương từ thuở đời đời cho đến muôn thuở. Điều này đúng mọi người, không trừ một ai. Không ai là người vô danh trước nhan Thiên Chúa! Tất cả đều khác nhau, nhưng có giá trị bình đẳng, và tất cả đều được gọi là con cái của Thiên Chúa.

 

“Tên nó là Gioan” (Lc 1, 63). Trước sự bỡ ngơ và kinh ngạc của người thân và láng giềng, ông Dacaria xác nhận đây là tên con trai ông, khi ông viết tên đó lên bảng. Chính Thiên Chúa, qua trung gian thiên thần đã đặt tên đó cho Gioan, có nghĩa là: “Thiên Chúa có lòng từ tâm”. Thiên Chúa tốt lành với mọi người: Ngài muốn họ được sống; Ngài muốn họ được cứu chuộc, và trở nên sự chúc phúc cho toàn thể các quốc gia địa cầu. Thiên Chúa thương yêu nhân từ với nhân loại : Ngài hướng dân con cái Ngài trên con đường hành hương về đất hứa nơi mà hòa bình và công chính sẽ ngự trị. Tất cả nhưng điều này đều chứa trong tên của Gioan!

 

Lạy thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

 

***********

 

Sóng gió cuộc đời

SUY NIỆM CHUA NHẬT XII NAM - B

(Mc 4, 35 – 40)

 

Trong những năm gần đây, chúng ta được nghe rất nhiều  tin làm chấn động cả thế giới : những cơn  động đất, sóng thần, bão tố, liên tiếp sảy ra ở nhiều nơi trên thế giới làm chết rất nhiều người, phá hủy bao công trình phúc lợi công cộng. Những trận cuồng phong bão táp chúng ta có thể thấy bằng con mắt giác quan, còn có những trận cuồng phong vô hình đã và đang từng ngày đổ ập vào người ta như trường hợp của ông Gióp người đầy tớ của Thiên Chúa, sóng gió hữu hình đến với các môn đệ Chúa Giêsu, và chắc chắn có sóng gió của đời ta.

 

Sóng gió đến với ông Gióp

 

Vì ghen ghét với người tín trung với Thiên Chúa, ma quỷ đã tìm mọi cách để đến gần Thiên Chúa và xin được thử thách ông. Chúa đã cho phép ma quỉ toàn quyền, trừ sức mạnh của thần chết. Thế là bằng mọi cách, ma quỉ đã làm gió làm bão lên đời ông Gióp, khiên ông bị vợ bỏ, con chết, súc vật bị phân tán và ngay cả bản thân ông cũng bị bệnh phong cùi lỡ loét, phải ngồi trên đống phân tro ngoài đồng, còn cái cảnh nào bi đát hơn, chán nản hơn, tuyệt vọng hơn. Ma quỷ đã tấn công ông từ tứ phía, lợi dụng cả bạn bè đến để khích bác, chê bai vì đã dại dột tin tưởng vào Thiên Chúa. Trong cơn thất vọng, ông cũng đã có lần buông lời than trách. Vì thế, Chúa đã hiện ra trong cơn gió lốc và cật vấn ông : "Khi biển cả vỡ bờ chảy xiết, ai đã dùng cánh cửa mà ngăn" và chỉ một lời Chúa truyền, sóng cồn đã theo đà đứng nguyên tại chỗ (G 38, 1.8 -11). Bằng lời lẽ phân minh, Chúa đã tỏ cho ông Gióp thấy Ngài là Ðấng thống trị địa cầu, phàm ai trông cậy tin tưởng vào Chúa sẽ được Ngài ấp ủ yêu thương.

 

Sóng cả ba đào tạt thuyền các môn đệ

 

Tin Mừng Thánh Marcô thuật lại, Chúa Giêsu truyền các môn đệ rằng : "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ" (Mc 4, 35 ) mà không nói lý do như trong Tin Mừng Matthêu sang bờ bên kia vì "đám đông" (Mt 8, 18). Marcô còn ghi rõ : "Cũng có nhiều thuyền khác theo Người" (Mc 4, 36), nhưng không nói rõ liệu các thuyền kia có đi vào trung tâm của bão lớn hay không ? Chỉ biết rằng " Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" (Mc 4, 37). Các môn đệ quả thực sợ hãi, sợ chết, có khi sợ Thầy đang ở trong thuyền của họ cũng chết nữa ! Cái chết thể xác không thể cưỡng lại nổi, nếu gió to sóng lớn đánh tan thuyền. Rồi các môn đệ than như một lời trách móc cay đắng "Mà Thầy không quan tâm đến sao ?" (Mc 4, 38)

 

Chúng ta tự hỏi : Chúa Giêsu đã làm gì trong lúc con thuyền vượt biển? Thưa : Người tận dụng thời giờ để nghỉ ngơi và ngủ. Nhưng không phải là Người vắng mặt. Tư tưởng của Người vượt trên chúng ta qua sự nhập thể làm người.

 

Sau một ngày giảng dạy, khi chiều đến Chúa Giêsu muốn tránh ra xa đám đông. Mệt mỏi, Người nghỉ ngơi đôi chút. Người ngủ trên chiếc thuyền của các môn đệ, dựa gối vào đàng lái mà ngủ. Chìm vào giấc ngủ, bão tố cuồng phong không thể nào làm người tỉnh giấc. Khiến các môn đệ phải hét vào tai đánh thức Người. Chúng ta đọc được những lời thật lo âu của các môn đệ: "Thưa Thầy, chúng con chết mất" (Mc 4, 38).  Người trỗi dậy.

 

Chúa Giêsu đã thức dậy, can thiệp đúng lúc và truyền cho gió bão : "Hãy im đi, hãy lặng đi" ( Mc 4, 39 ). Tức thì, gió bão im lặng. Các môn đệ cảm thấy nhẹ nhõm vì không còn hoang mang, sợ hai và lo lắng nữa. Biển lặng tượng trưng cho lòng con người được an bình, được yên lặng. Sau đó, Người đã quở các môn đệ rằng : "Sao các con sợ hãi thế, các con không có đức tin ư ?" (Mc 4, 40).

 

Chúng ta đặt mình vào trong tình huống này, cuồng phong nổi lên, sóng khiến nước ập vào thuyển, trong khi đó Chúa Giêsu vẫn ngủ. Một bên là gió rít sóng gào, bên kia là hơi thở nhẹ nhàng và đều đặn của Chúa Giêsu. Một bên là các môn đệ chạy lên chạy xuống kêu la hốt hoảng đến mất lòng tin. Bên kia là tư thế nghỉ ngơi bình an hoàn toàn thoải mái ngay ở đàng lái mạn thuyền của Chúa Giêsu. Như thế, ở giữa sức mạnh của phong ba bão táp, con thuyền được lèo lái, không phải bởi một sức mạnh lớn hơn, nhưng bằng một giấc ngủ ngon lành của Chúa Giêsu, vì Người là Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn là các môn đệ không được hoảng hốt, kêu la và đánh thức Thầy, với sự hiện diện của Thầy lẽ ra các ông phải yên tâm mới phải. Cứ để biển động, gió gào, sóng thét và nhất là cứ để Chúa Giêsu ngủ trong thuyền của các ông.

 

Con thuyền Giáo hội, thuyền của đời ta

 

Trong lịch sử, truyền thống Kitô giáo vẫn nhìn nhận con thuyền tròng trành vì bão tố, một hình ảnh của Giáo hội. Khi Marcô viết Tin Mừng, có lẽ Phêrô đã chịu tử đạo và giáo đoàn Rôma bị bách hại tàn bạo : "Chúng ta hãy sang bờ biên kia" (Mc 5, 35) có ý nghĩa. Mặc dù bão tố, Giáo hội phải sống và phát triển trong thế giới ngoại giáo này và không chỉ trong cộng đoàn Kitô giáo gốc Do thái mà thôi, nhưng còn từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, khắp muôn dân trở về với Giáo hội Chúa. Và sự im lặng của Thiên Chúa hiển nhiên có thể làm chúng ta quên đi tình yêu biểu lộ cho nhân loại nơi Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người.

 

Đời người ai mà chẳng có lúc sóng gió. Có lúc sóng gió tấn công vào chiếc thuyền nhỏ trong thân phận mỏng manh của đời ta. Ðau khổ bệnh tật, thất bại, cô đơn, nghèo đói, hiểu lầm, ghen ghét, tai nạn, rủi ro đó là những bão táp của đưa đẩy cuộc đời. Ðứng trước những cơn phong ba ấy, chúng ta thường hốt hoảng, lo sợ và thậm trí có khi mất niềm tin. Thế nhưng khi nghe Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy đó chính là sứ điệp đầy hy vọng mời gọi ta hãy tin tưởng vào Chúa vì Người là Đấng quyền năng. Không những Chúa có thể dẹp yên sóng gió của biển động, mà còn đem lại sự bình an cho tất cả những ai luôn biết tin tưởng và gắn bó với Chúa. Niềm tin ấy không làm cho đau khổ biến đi. Nhưng sẽ biến đau khổ thành sức mạnh, giúp ta vượt thắng tất cả những thử thách cam go, sóng to, gió cả của cuộc đời. Ðể cuối cùng đạt đến hạng phúc nguồn cứu độ nơi bến bờ quê hương vĩnh cửu. Amen.

 

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024

TÌNH YÊU KHÔNG LÀ SỰ ĐỒNG CẢM - GIAO THỜI

 

Tình yêu không là sự đồng cảm - Giao thời

Tue, 18/06/2024 - Trầm Thiên Thu

 

TÌNH YÊU KHÔNG LÀ SỰ ĐỒNG CẢM

 

Mệnh đề mà tôi tuyên bố rất táo bạo trong tiêu đề của mình đã nhận được một số sự ủng hộ của các nhà tâm lý học nghiệp dư và chuyên nghiệp – không nhất thiết là Kitô hữu. Nếu là người theo Kitô giáo, họ khó có thể thấy được những ngụ ý.

“Tình yêu” đó trong nền văn hóa phàm tục hiện nay của chúng ta đã bị hiểu lầm, hay đúng hơn chúng ta có thể nói là “bị định nghĩa sai,” tôi đã xác định ngay từ đầu. Chúng ta đã hiểu nó như là sự phát triển của sự ham muốn tình dục, hoặc so sánh với sự quý trọng của chúng ta đối với mèo con và chó con. Các em bé khi may mắn cũng có thể được yêu thương, và có lẽ hơi khác một chút so với một cô bạn gái “nóng bỏng” hay một chàng trai lôi cuốn. Nhưng tốt nhất là nên tránh.

 

Một đứa bé có thể đặc biệt vì sự đồng cảm của nó (không phải “của điều đó”) là cần thiết và khó khăn. Nó thiếu thốn theo những cách có thể khiến một người trưởng thành không thân mật. Tình cảm đồng cảm của chúng ta sẽ cạn kiệt khi đứa bé khóc – trừ khi bản chất đã ban tặng bạn với tư cách là cha mẹ. Sống với mẹ, tình trạng không là cha của đứa trẻ là mối nguy hiểm tiềm ẩn đối với điều đó.

Chúng ta bắt đầu thấy rằng sự đồng cảm là mặt trái của tính tự yêu mình. Giống như tính tự yêu mình, theo cách hiểu truyền thống, chúng ta có thể nghĩ rằng mình yêu một người mà chúng ta không quen biết. Đó là niềm đam mê nhất thời, có lẽ được thể hiện rõ nhất qua dấu xác nhận phẩm chất.

Người ta nhận thấy tình yêu trong văn học và nghệ thuật không khiêu dâm gắn liền với hôn nhân hơn là với tình dục. Đó là lý do hai vợ chồng có thể tiếp tục “yêu” khi đã già và nhăn nheo, và các bạn cũ vẫn trung thành.

Ngược lại, sự thiếu vắng tình yêu dễ dàng khiến tỷ lệ ly dị tăng vọt, vì “tình yêu” đã trở thành điều gì đó xảy ra với bạn, giống như trong các bài hát quảng cáo. Nó cũng đã được mở rộng, để con người hiện đại có thể kết hợp với một thứ gì đó không có tình yêu, chẳng hạn một cây cầu hoặc một kẻ hư hỏng.

Một cái gì đó tương tự đang xảy ra trong tình bạn hiện đại. Tình yêu mà con người có thể tạo ra là thực tế của tự nhiên, điều đã được Chúa Kitô hoặc Thánh Phaolô giải thích ngầm trong lời hướng dẫn cho loài người. Vì ông khuyên các ông chồng hãy yêu vợ mình, như thể họ không tự động làm điều này. Cần phải làm việc, cũng như cần phải làm việc để yêu thương người lân cận. Cứ hỏi người chồng hoặc người hàng xóm nào đó mà xem.

Nhưng nó cũng giống như bất kỳ phát minh nào khác. Sau khi được lắp ráp, nó sẽ tự vận hành như thể nó là một cỗ máy tốt và đáng tin cậy. Sự so sánh này không hoàn toàn khập khiễng khi chúng ta xem xét mức độ rộng lớn của những người mà chúng ta được lệnh phải yêu thương, trong khuôn khổ Kitô giáo.

Chúng ta phải biết và yêu thương họ, họ phải “hiện hữu.” Người ta thậm chí còn được lệnh phải yêu thương những kẻ khủng bố Hamas (hoặc “người Palestine” như họ tự nhận), vì Chúa chắc chắn phải yêu thương họ và biết rõ họ. Chúng ta không thể tưởng tượng được Ngài yêu thương từ sự không biết, bởi vì Ngài là Đấng yêu thương phổ quát và Ngài biết tất cả mọi sự.

Sự đồng cảm là tưởng tượng mình ở vị trí của người khác, chịu đựng nỗi đau tương tự và tận hưởng niềm vui giống nhau – dù mình không là họ. Đó là lý do tại sao sự đồng cảm có thể hoạt động như một chiến lược.

Một viên cảnh sát thể hiện sự đồng cảm sâu sắc khi anh ta có thể xác định được tội phạm dựa trên các tình tiết phạm tội. Anh ấy đọc “chữ ký” này. Tương tự, trong chiến tranh, vị tướng phải có đủ sự đồng cảm để hiểu được năng lực của kẻ thù. Bằng cách tưởng tượng mình ở vị trí tương tự, anh ta có thể đoán được kẻ thù sẽ làm gì và chặn đòn tấn công hoặc khép lại hàng phòng ngự lộ liễu của chính mình. Chiến tranh giành hiến thắng nhờ sự đồng cảm khéo léo.

Tuy nhiên, vì mục đích của chiến lược và chiến thuật, vị tướng không nhất thiết phải yêu thích những gì mình nhìn thấy. Quả thật, anh ta có nhiều khả năng ghê tởm kẻ thù hơn, giống như viên cảnh sát và tội phạm, mặc dù tất nhiên người khôn ngoan giữ cảm xúc cho riêng mình.

Nguyên tắc tương tự chi phối nghệ thuật quyến rũ, được cả hai giới thực hiện (hay như người ta nói ngày nay là “tất cả các giới tính”) cho đến mục đích kiểm soát người kia. Người ta có thể coi “tình yêu” như kẻ thù cần chinh phục, vì tình dục hoặc có lẽ vì mục đích nào khác. Gái mại dâm sẽ ít được sử dụng.

Việc thể hiện sự đồng cảm có thể khá hữu ích trong việc tạo ra sự quyến rũ, ngay cả khi nó được thể hiện một cách thô bạo hoặc khó chịu trong cuộc sống thấp kém như thường lệ. Người “được đồng cảm” không được

yêu thương mà bị vận động. Người nghĩ rằng mình được yêu nhưng là bị đánh bại.

Đó là lý do hôn nhân thường được xây dựng trên cơ sở quản lý dục vọng sai trái trong nền văn hóa phàm tục của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể mong đợi họ sống sót khi con người trở nên già nua và xấu xí? Hoặc sớm hơn, khi họ đã quen nhau đến mệt mỏi?

Vì hôn nhân, nói một cách nghiêm túc, là hành vi sáng tạo duy nhất của con người. Chúng ta đã nghĩ ra những phát minh để hủy bỏ sự sáng tạo này (thuốc ngừa thai, v.v…), nhưng chúng ta không thể thay thế nó bằng một hành động khác thực sự sáng tạo.

Những người yêu nhau, và người được tạo ra, đều “hiện hữu” như các triết gia nói với chúng ta. Tác phẩm nghệ thuật sâu sắc nhất chỉ có sự mô phỏng hiện hữu và mô phỏng tâm hồn. Chắc chắn đó là phát minh mà không có sự đồng cảm nào có thể có được. Vì cố gắng đồng cảm với một bức tranh (hoặc với bất kỳ đồ vật được phát minh nào khác), bạn sẽ không phát hiện sự chuyển động.

Trong khi đó, sự đồng cảm có chuyển động theo nhiều nghĩa. Dù không là tình yêu nhưng nó vẫn chuyển động như tình yêu, tìm kiếm tiếng vang, trừ khi đối tượng của nó đã chết. Người ta phải sống thì mới nhận được sự đồng cảm.

Nhưng ở đây, tình yêu đó có những ẩn dụ rộng như một thế giới, và những thứ giống như tình yêu có thể thấy ở khắp nơi. Chúng không phải là chính sự vật, bởi vì không ai thực sự là những người được yêu thương. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Ngôi Vị và do đó có thể được yêu thương, không giống như bất kỳ khái niệm trừu tượng nào đại diện cho Ngài.

Ở đây, cùng với Plato và các nghệ sĩ khác, chúng ta đối đầu với sự thật lớn lao về Sự Sáng Tạo: nghĩa là sự khác biệt giữa tính sáng tạo và sự bắt chước. Đó là sự phân biệt tuyệt đối, giống như giữa tình yêu và không tình yêu. Tôi tránh nói điều trái ngược là “hận thù,” vì hận thù cũng giống như tình yêu.

LM. GERALD E. MURRAY

 

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

 

****************

 

GIAO THỜI

Đi Tiên Phong Sống Nơi Hoang Địa

Gọi Sám Hối Ngay Giữa Thế Trần

Mỗi con người được sinh ra là một tặng phẩm đặc biệt, là một kỳ công của Thiên Chúa. Có người có cuộc sống êm xuôi, có người phải lận đận cho đến chết. Tất cả không ngoài ý Chúa. Hãy nghe Đấng đáng kính Thecla Merico nhắn nhủ: “Bạn đừng chán nản khi không thấy những điều tốt bạn làm. Hầu như người ta được trợ giúp nhờ sự vô danh, những hy sinh ẩn khuất của mình, thay vì lòng sốt sắng của một vị Tông Đồ lẫy lừng. Trên hết, chúng ta hãy cố gắng dẹp bỏ cái tôi của mình sang một bên, vì đó là điều làm tổn hại cho mọi sự.”

Sinh nhật là ngày kỷ niệm của một sinh vật ra đời làm người – với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, đặc biệt là được làm con cái của Thiên Chúa. Ngài phán cũng nói với mỗi người như đã nói với ông Giêrêmia xưa: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1:5) Ngày đó ông lo sợ không biết ăn nói nhưng Thiên Chúa trấn an ông, rồi chạm vào miệng ông và đặt lời Ngài vào miệng ông. (Gr 1:8-9)

Ngày đáng nhớ nhất đời người là sinh nhật, dù số phận mai sau có thế nào, nhưng có điều chắc chắn mà Tuyên Ngôn Giáo Dục của Công đồng Vatican II đã đề cập: “Mọi người đều có quyền hưởng một nền giáo dục đầy đủ và xứng hợp với THIÊN CHỨC LÀM NGƯỜI của mình, mỗi ngày một tham gia vào đời sống xã hội, nhất là về kinh tế và chính trị, một cách tích cực hơn, hầu có thể hưởng dụng di sản văn hóa thiêng liêng của nhân loại một cách dễ dàng hơn, hợp với chức vị là người con của Thiên Chúa.” Và theo Thánh Ý Thiên Chúa quan phòng tiền định, mỗi người có một danh phận và được đặt ở một vị trí theo ý Ngài: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

Dấu nối trong âm nhạc là ký hiệu dạng cong, liên kết các nốt cùng cao độ để kéo dài trường độ âm thanh. Dấu nối là cách kết nối các sự kiện với nhau trong đời thường, cũng có nghĩa là giải hòa trong đời sống tâm linh. Thánh Anthony Cả nói: “Thiên Chúa đã dựng nên con người để làm nhân chứng và làm người giải thích tri ân về các công trình của Ngài. Con người nên vì đó mà vươn lên, kẻo lại chết như những con vật ngu đần, không nhìn thấy hoặc không hiểu biết về Thiên Chúa và các kỳ công của Ngài. Khi đặt lưng xuống giường, anh em hãy nhớ cảm tạ những phúc lành và ơn quan phòng của Thiên Chúa. Nhờ đó, khi được đầy tràn suy tư tốt lành ấy, thần trí anh em sẽ vui mừng và rạo rực vì những cảm xúc tốt lành, anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa bằng cả tâm hồn và sức lực, thượng tiến lên Ngài những lời ngợi khen phát xuất tự đáy lòng.” Đa số sinh ra bình thường, nhưng có một số người khá đặc biệt ngay từ khi lọt lòng mẹ, bằng cách này hay cách nọ, theo ý Chúa quan phòng và tiền định từ muôn đời, mỗi người có một danh phận và được đặt ở một vị trí nhất định theo ý Chúa.

Sự lạ lùng càng đặc biệt hơn đối với Gioan, bởi vì ông là người giao thời – dấu cộng giữa Cựu Ước và Tân Ước, và là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Khi thấy sự lạ ở thân phụ Dacaria và hài nhi Gioan, người ta đã thắc mắc: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” (Lc 1:66)

Luôn phải chuẩn bị cho công việc, dù việc lớn hay nhỏ. Với đại sự, việc quan trọng là “mở đường” hoặc “dò đường” để xem tình thế mà lo liệu cho phù hợp, có thể đạt hiệu quả cao nhất. Dọn đường mang cả nghĩa đen và nghĩa bóng, cụ thể và trừu tượng, hữu hình và vô hình. Ngày xưa, khi vua chúa đi đến đâu đều có quân sĩ đi trước thông báo cho dân biết, luôn được tiền hô hậu ủng. Ngày nay cũng vậy, khi các nhân vật quan trọng sắp đến đâu đều có người đến nơi đó trước để chuẩn bị nhiều thứ, không chỉ liên quan ngoại giao mà còn về vấn đề an ninh – nhất là trong thời buổi khủng bố ngày nay.

Trước khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, Chúa Cha đã cho Gioan xuất hiện trước để chuẩn bị. Theo tiếng Do Thái, tên Gioan có nghĩa là “Thiên Chúa từ bi.” Gioan là người tiền phong nên được gọi là Tiền Hô, là người làm phép rửa cho Chúa Giêsu nên được gọi là Tẩy Giả, là người người làm phép rửa cho giao thời nên là người rất đặc biệt, nhất là về phong cách “bụi đời” – mặc áo lông lạc

đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (Mt 3:4) Nhưng “kẻ bụi đời” đó lại là “ngôn sứ của Đấng tối cao” (Lc 1:76) và “nên cao cả trước mặt Chúa.” (Lc 1:15) Mặc dù là người đặc biệt, Gioan vẫn khiêm nhường tự nhận “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu.” (Lc 3:16)

Cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả có nhiều điều lạ lùng ngay từ đầu: Bà Êlidabét mang tiếng là son sẻ (ngày nay gọi là “hiếm muộn” hoặc “vô sinh”), nhưng Thiên Chúa đã thương nhậm lời cầu xin và cho bà mang thai khi đã luống tuổi. Còn ông Dacaria vì không tin vợ mình có thai nên bị câm cho đến khi bé Gioan chào đời và chịu phép cắt bì. Mọi thứ đều kỳ lạ, khác thường.

Trình thuật Lc 1:57-66, 80 cho biết sự kiện Gioan Tẩy Giả ra đời. Cả láng giềng chia vui nhưng rất ngạc nhiên khi bà Êlidabét sinh hạ một con trai. Tám ngày sau, lúc con trẻ chịu phép cắt bì theo tục lệ, người ta muốn lấy tên cha mà đặt cho con trẻ, nhưng bà mẹ không chịu, bắt phải đặt tên con là Gioan. Người ta làm hiệu hỏi người cha, ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan.” Không ai hiểu gì vì quá ngỡ ngàng. Kỳ lạ quá!

Lạ thay, ngay lúc ấy miệng lưỡi “ông câm” Dacaria mở ra và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng lại một phen kinh ngạc, chuyện lạ về gia đình Dacaria được đồn ra khắp miền núi Giuđê rất nhanh. Tất cả là kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Luca cho biết rằng Cậu Bé Gioan “càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” và “sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel.” (Lc 1:80)

Thiên Chúa quan phòng mọi sự trước sau, và cả những gì phàm nhân chưa nghĩ tới. Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.” (Tv 139:1-3) Tất cả mọi sự, hữu hình và vô hình, điều lớn và điều nhỏ, Thiên Chúa biết rõ mười mươi: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.” (Tv 139:13-15) Ai như thế nào thì Thiên Chúa đều biết hết, Ngài có kế hoạch riêng cho mỗi người, nhưng chúng ta không thể hiểu được ý Ngài nhiệm mầu.

Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin cảm tạ Ngài cho chúng con được sinh ra là con người và tái sinh thành con cái Ngài, xin ban cho chúng con những ơn cần thiết để sống xứng đáng với Ngài. Xin Thánh Gioan Tẩy Giả giúp chúng con biết thu nhỏ lại để Thiên Chúa được lớn lên. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

TRẦM THIÊN THU