Đời sống tu trì - Tông đồ Phao-lô - Vạ tuyệt thông cho 10 nữ tu dòng Clara
ĐỜI SỐNG TU TRÌ
Chúa Giêsu đã kêu gọi người thanh niên giàu có đi theo Ngài, và Chúa Giêsu đã hứa ban phúc lành và sự sống đời đời cho người thanh niên này. Thật không may, “bị sở hữu bởi tài sản riêng của mình,” người đàn ông giàu có đã buồn bã rời xa Chúa Giêsu. Anh thích của cải của mình hơn cả kho tàng tình bạn của Chúa Giêsu ở đời này cũng như ở đời sau, trên trời mãi mãi. (Mc 10:17-31)
Đoạn Tin Mừng này liên quan – ít nhất là gián tiếp, với lời kêu gọi vào Đời Sống Tu Trì – việc triệt để đi theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng ta. Sự thật của vấn đề là Chúa Giêsu đã kêu gọi và mời gọi người đó đi theo Ngài, nhưng Ngài sẽ không bao giờ ép buộc người đó. Ngài tôn trọng quyền tự do cá nhân.
Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn trình bày để bạn suy ngẫm, giáo dục và suy niệm một số điểm và khía cạnh nổi bật nhất của một số yếu tố cấu thành then chốt trong ĐỜI SỐNG TU TRÌ.
Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh một cách phổ quát. Những lời của Chúa Giêsu vừa rõ ràng vừa dứt khoát: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Chương V trong Hiến Chế Tín Lý “Lumen Gentium” của CĐ Vatican II có tựa đề: “Lời kêu gọi nên thánh phổ quát.” Tuy nhiên, phải nói rằng mỗi người đều có một ơn gọi riêng. Hầu hết được kêu gọi sống đời hôn nhân, một số khác sống độc thân, một số khác nữa được kêu gọi làm linh mục, và cuối cùng có những người được kêu gọi sống Đời Sống Tu Trì. Đó là chủ đề của tiểu luận ngắn gọn này.
1. MỤC ĐÍCH CHÍNH YẾU
Tài liệu của Giáo Hội về Đời Sống Tu Trì của Công đồng Vatican II có tựa đề “Perfectae Caritatis” – Đức Mến Trọn Lành. Tựa đề Latinh này minh họa và kết hợp mục đích chính y của việc bước vào Đời Sống Tu Trì hoặc Bậc Sống Tu Trì – nghĩa là đạt đến đức ái hoàn hảo. Tóm lại, nhân đức quan trọng nhất trong đời sống của người theo Chúa Giêsu là đức ái – nghĩa là tình yêu siêu nhiên đối với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta. Người ta bước vào trạng thái tu trì với mục đích cuối cùng là đạt đến trạng thái tăng trưởng và phát triển năng động của tình yêu dành cho Thiên Chúa, tràn ngập tình yêu dành cho người lân cận. Thật vậy, nếu chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta phải yêu thương người lân cận. Đó là lời nhắc nhở thường xuyên trong các Thư của Thánh Gioan.
2. TỰ DO
Một lần nữa, liên quan sự từ chối của chàng trai giàu có, lời kêu gọi vào Đời Sống Tu Trì phải được chấp nhận một cách tự do, hoàn toàn và không dè dặt – không có sự bắt buộc nào. Tắt một lời, Thiên Chúa muốn được yêu thương không phải bằng vũ lực mà bằng hành động tự do của ý chí, cách sự lựa chọn yêu thương.
3. NGƯỜI SÁNG LẬP
Các Dòng Tu và Tu Hội có những người sáng lập đã truyền tải và để lại di sản tinh thần cụ thể mà Thiên Chúa đã ban tặng cho họ. Có rất nhiều gương sáng lập: Thánh Inhaxiô và Dòng Tên, Thánh Gioan Bosco và Dòng Salêdiêng, Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta và Dòng Thừa Sai Bác Ái, Thánh Phanxicô và Dòng Anh Em Hèn Mọn, Thánh Đa Minh và Dòng Đa Minh, Thánh Anphong và Dòng Chúa Cứu Thế, Thánh Biển Đức và Dòng Biển Đức. Còn nhiều nữa, nhưng đó là một vài ví dụ tuyệt vời.
4. ĐẶC SỦNG
Mỗi người trong số những người sáng lập đã để lại cho dòng một đặc sủng cụ thể, nghĩa là một diện mạo hoặc đặc điểm cụ thể để phân biệt dòng này với các dòng khác. Thật vậy, nhiệm vụ của các thành viên trong mỗi dòng là tìm hiểu cả Đấng Sáng Lập và đặc sủng riêng của họ.
5. LỜI KHẤN
Đây là những lời hứa long trọng mà cá nhân đã hứa với Thiên Chúa để đạt được sự tự do tinh thần và khả năng lớn hơn trong việc theo Chúa Giêsu một cách triệt để hơn và với một tình yêu mãnh liệt hơn. Hãy nhớ đến tài liệu “Perfectae Caritatis” – lời kêu gọi triệt để yêu mến Chúa Giêsu một cách hoàn toàn và trọn vẹn. Trong hầu hết các dòng, các lời khấn long trọng là Khiết Tịnh, Nghèo Khó và Vâng Phục.
6. KHIẾT TỊNH
Đây không chỉ đơn thuần là việc từ bỏ tình trạng Hôn Nhân Thánh Thiện, mà là ước muốn yêu mến Chúa Giêsu một cách hoàn toàn và trọn vẹn. Tóm lại, đời tu thực sự là một mối tình giữa Chúa Giêsu và Người Yêu Dấu của Ngài. Các nữ tu thực sự đeo một chiếc nhẫn, ý thức được sự thật rằng họ được kết hợp một cách huyền nhiệm với Chúa Giêsu, Chàng Rể của linh hồn họ. Chúa Giêsu hiện ra với Thánh Catarina Siena và trao cho thánh nữ một chiếc nhẫn mà người khác không thấy nhưng thánh nữ thấy.
7. KHÓ NGHÈO
Lời khấn này cho phép tu sĩ từ bỏ mối nguy hiểm lan tràn và cố hữu của việc trở nên quá gắn bó với của cải vật chất và chủ nghĩa duy vật nói chung. Vì lý do này mà người thanh niên giàu có đã không theo Chúa Giêsu vì anh ta có nhiều của cải. Anh ta bị sở hữu bởi chính tài sản của mình. Tóm lại, với lời khấn khó nghèo, Chúa Giêsu trở thành kho tàng của đời họ. Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu trở thành viên ngọc có giá trị vô hạn. Nếu một người sở hữu Chúa Giêsu và được Chúa Giêsu chiếm hữu, người đó giàu hơn một tỷ phú. Chúa Giêsu cảnh báo thế giới: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6:24)
8. VÂNG LỜI
Với lời khấn này, các tu sĩ phó thác ý muốn của mình cho Thiên Chúa bằng cách tự ý chọn vâng phục Bề Trên địa phương, Giám Tỉnh và Bề Trên Cả. Điều này được thực hiện theo gương Chúa Giêsu, mẫu mực về mọi mặt. Thật vậy, Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. (Pl 2:8) Bằng cách thực hiện lời khấn này, các tu sĩ có thể vượt qua một trong những kẻ thù và trở ngại lớn nhất cho sự phát triển trong đời sống tâm linh – một niềm kiêu hãnh quá lớn rất đặc trưng của thời đại ngày nay!
9. CỘNG ĐOÀN
Như chúng ta đọc trong Sách Công vụ Tông đồ, các Kitô hữu tiên khởi đã sống trong cộng đoàn, đồng tâm và chia sẻ mọi điều chung. Họ hiệp nhất trong tình yêu dành cho Chúa Giêsu và yêu thương nhau. Người ta rất ấn tượng với lối sống của họ và nhận xét họ yêu nhau như thế nào: “Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn.” (1 Pt 1:22) Chứng tá tình yêu này là sức thu hút mạnh mẽ, thúc đẩy người khác trở thành Kitô hữu. Đời Sống Tu Trì cũng vậy, đòi hỏi phải sống chung với anh chị em mình. Đấng Đáng Kính Bruno Lanteri (Sáng lập Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ) đã nói ngay trước khi từ giã cõi đời này sang kiếp sau, những lời ấm lòng nhưng đầy thách thức này: “Hãy yêu thương nhau và làm tất cả những gì có thể để không bao giờ phá vỡ mối dây yêu thương với nhau.”
10. THÓI QUEN TU TRÌ
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh tầm quan trọng của Thói Quen Tu Trì như một dấu hiệu của sự thánh hiến của một người cho Thiên Chúa. Ngoài ra, Thói Quen Tu Trì còn là dấu hiệu Cánh Chung, có nghĩa là nó là dấu hiệu cụ thể và nhắc nhở rằng thế giới này đang trôi qua, và thực sự có một thế giới vượt xa cuộc sống ngắn ngủi và phù du này trên trái đất. Nói cách khác, nó ám chỉ số mệnh của chúng ta là Thiên Đàng.
11. CẦU NGUYỆN CHUNG
Một đặc điểm nổi bật khác của Đời Sống Tu Trì là cầu nguyện. Người tu sĩ có nhiệm vụ đầu tiên là chiêm niệm những điều thiêng liêng, nghĩa là cống hiến cho đời sống cầu nguyện nghiêm túc. Họ cầu nguyện riêng nhưng cũng tìm những thời điểm cụ thể để cầu nguyện với anh chị em mình, vì Chúa Giêsu đã nói: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18:20)
12. ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ VÀ ĐẶC SỦNG
Các tu sĩ tận tâm sống tích cực hơn được mời gọi thực hiện ơn đặc sủng của mình bằng cách thực hiện một hoạt động tông đồ cụ thể. Thật vậy, nếu một tu sĩ thực sự yêu mến Chúa Kitô thì họ nhất thiết sẽ yêu mến những gì Ngài yêu thích – cứu rỗi các linh hồn bất tử đạt được nhờ cầu nguyện, sám hối và tích cực hoạt động tông đồ.
13. CHIỀU KÍCH THÁNH MẪU
Các vị lập dòng lấy Chúa Giêsu làm mục đích và trọng tâm chính của cuộc đời họ. Chúa Giêsu thực sự là CON ĐƯỜNG, SỰ THẬT và SỰ SỐNG. Tuy nhiên, các dòng tu có Đức Mẹ là mẫu mực cho mọi tu sĩ, là Mẹ Thiêng Liêng và Hướng Dẫn Viên của họ. Một số ví dụ về các đặc sủng khác nhau của Thánh Mẫu trong Đời Sống Tu Trì là: Thánh Gioan Bosco và Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, Thánh Đa Minh và Đức Mẹ Mân Côi, Thánh Anphong và Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Thánh Augustinô và Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành, Thánh Bênađô và Đức Mẹ Sao Biển, Mẹ Thánh Têrêsa và Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Chúng ta kết thúc tiểu luận ngắn về Đời Sống Tu Trì bằng những lời cuối cùng của Sắc lệnh Canh Tân Đời Sống Tu Trì, Perfectae Caritatis, ngày 25 tháng 10 năm 1965, với những lời an ủi và khích lệ lớn lao:
Do đó, tất cả các tu sĩ, với đức tin không suy giảm, với lòng bác ái đối với Thiên Chúa và tha nhân, với lòng yêu mến Thập Giá và với niềm hy vọng về vinh quang trong tương lai, phải truyền bá Tin Mừng về Chúa Kitô khắp thế giới, để chứng tá của họ được mọi người nhận biết, và Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời, được tôn vinh. (Mt 5:16) Như vậy, qua lời cầu nguyện của Đức Trinh Nữ Maria nhân lành, Mẹ Thiên Chúa, Đấng có đời sống mẫu mực cho mọi người (Thánh Ambrôsiô, De Virginitate 2, 3, n. 5) cầu thay nguyện giúp cho họ gia tăng mỗi ngày và mang lại nhiều hoa trái cứu độ dồi dào hơn.
LM. ED BROOM, OMV
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
*********
TÔNG ĐỒ PHAOLÔ
Thánh Phaolô qua đời khoảng năm 65. Các bức thư của ngài chiếm gần một nửa Tân Ước, từ đó Giáo Hội được giảng dạy từ Chúa Nhật này đến Chúa Nhật khác. Không thể đánh giá thấp tầm ảnh hưởng Thánh Phaolô. Ngài không chỉ là một trong những Kitô hữu quan trọng và quan trọng nhất trong lịch sử của chúng ta mà còn được coi là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhân loại.
Tất cả bắt nguồn từ kinh nghiệm của Thánh Phaolô với Chúa Kitô Phục Sinh trên đường đến Đamát, dẫn đến sự hoán cải của kẻ bách hại các Kitô hữu. Theo quan điểm của Phaolô, cuộc gặp gỡ với Đức Kitô rất thực tế, không khác gì những cuộc gặp gỡ của Đức Kitô với Nhóm Mười Hai. Kinh nghiệm độc đáo của Phaolô đã định hình và cung cấp thông tin cho Giáo Hội sơ khai một cách đáng kể đến nỗi chính Phaolô đã được coi là “tông đồ thứ mười ba.”
Cuộc gặp gỡ của Thánh Phaolô với Chúa Kitô bắt nguồn từ đức tin sâu xa về Thánh Thể. Qua kinh nghiệm của mình trên đường đến Đamát, ông biết rằng cuộc bách hại những người theo Đức Kitô cũng là sự bắt bớ chính Đức Kitô. Các Kitô hữu non trẻ mà Thánh Phaolô muốn tiêu diệt là một với Chúa Kitô, các chi thể của Nhiệm thể Ngài qua phép rửa, một mối liên kết được củng cố và tăng cường qua việc nhận lấy thân xác Ngài trong Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6:56)
Thánh Phaolô tin tận đáy lòng rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình Máu Chúa Kitô. Ngài công bố và dạy rằng Sự Hiện Diện Thánh Thể của Chúa Kitô là sự thật.
Cuộc gặp gỡ của Thánh Phaolô với Chúa Phục Sinh không chỉ dẫn đến sự hoán cải mà còn dẫn đến nỗ lực của ngài nhằm gia tăng tư cách thành viên trong Nhiệm Thể Đức Kitô và giảng dạy về những kết quả của cuộc sống mới mà sự kết hợp mang lại. Mục đích của Thánh Phaolô là xây dựng cộng đồng tín hữu sống như họ đã “mặc lấy Chúa Giêsu Kitô.” (Rm 13:14) Đây chính là điều đã hình thành và thúc đẩy những công cuộc truyền giáo đầy ấn tượng của ngài trong ước muốn loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại.
Thánh Phaolô tin tận đáy lòng rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu Chúa Kitô. Ngài công bố và dạy rằng sự hiện diện Thánh Thể của Chúa Kitô là có thật. Để minh họa điều này, ngài viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Ngài sao?” (1 Cr 10:16) Không chỉ Sự Hiện Diện Thánh Thể của Chúa Kitô thực sự đối với Thánh Phaolô, mà qua đó, Chúa Kitô ở trong chúng ta, thay đổi chúng ta, và hiệp nhất với chúng ta. Sự kết hiệp của chúng ta vào thân thể Đức Kitô là rất thực tế, Thánh Phaolô viết: “Tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2:19-20) Việc rao giảng và giảng dạy của Thánh Phaolô đòi hỏi phải hoán cải để được cứu rỗi và việc xây dựng cộng đồng được xác định bằng lối sống nhân đức, trong đó “cao trọng hơn cả là đức mến.” (1 Cr 13:13)
Trình thuật của Thánh Phaolô về Bữa Tiệc Ly là một trong những văn bản còn sót lại sớm nhất, điều quan trọng đối với lời rao giảng của ngài là việc Chúa Kitô muốn chúng ta cử hành lễ tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Ngài. Thánh Phaolô cũng cảnh báo về tầm quan trọng của việc tham dự Thánh Thể: “Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này.” (1 Cr 11:27-28)
Cuộc tử đạo của Thánh Phaolô đã hoàn tất một đời sống trọn vẹn trong và cho Chúa Kitô. Thánh Phaolô khuyến khích các Kitô hữu hãy tôn vinh Chúa Kitô “trong Giáo Hội,” (Ep 3:21) nghĩa là tất cả chúng ta đều được mời gọi làm chứng cho Chúa Kitô bằng cuộc sống của mình. Trong khi một số người có thể được kêu gọi làm như vậy đến mức hiến mạng sống mình bằng cách chết vì Chúa Kitô và Giáo Hội, thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi hiến mạng sống mình cho Ngài và phục vụ Ngài. Như Thánh Phaolô, chúng ta sống theo tinh thần Thánh Thể bằng cách “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12:1)
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
***********
VẠ TUYỆT THÔNG CHO 10 NỮ TU DÒNG CLARA
Giáo quyền Công Giáo ở Tây Ban Nha phạt tuyệt thông và trục xuất 10 nữ tu Dòng Thánh Clara nghèo khó ở Belorado vì tội ly giáo. Quyết định này được công bố bởi TGM Mario Iceta, TGP Burgos, đồng thời là ủy viên giáo hoàng và đại diện pháp lý của các tu viện Belorado, Orduña và Derio ở Tây Ban Nha.
Điều 751 của Giáo Luật nói rằng ly giáo là “từ chối phục tùng giáo hoàng tối cao hoặc hiệp thông với các thành viên của Giáo Hội phục tùng ngài.” Hình phạt cho tội này là vạ tuyệt thông.
Trong một thông cáo báo chí ngày 22-6-2024, TGP Burgos “đã ban hành sắc lệnh tuyên bố vạ tuyệt thông và tuyên bố ‘Ipso Facto’ [ngay lập tức] trục xuất khỏi đời sống thánh hiến của 10 nữ tu đã ly giáo.”
Tuyên bố cũng chỉ ra rằng “các chị em này cũng chính là những người đã đưa ra quyết định tự do và cá nhân của mình là rời bỏ Giáo Hội Công Giáo. Với quyết định này, cần phải nhớ rằng việc tuyên bố vạ tuyệt thông là một hành động pháp lý được Giáo Hội coi như một biện pháp chữa bệnh, thúc đẩy sự suy ngẫm và hoán cải cá nhân.” Tuyên bố này giải thích: “Giáo Hội luôn thể hiện lòng trắc ẩn sâu sắc, và với tư cách là một người mẹ, sẵn sàng chào đón những đứa con của mình, giống như người con hoang đàng, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và bắt đầu hành trình trở về nhà Cha.”
Ngoài ra, TGP Burgos chỉ ra rằng “tiếp tục có một cộng đoàn tu gồm các nữ tu không bị vạ tuyệt thông, vì họ không ủng hộ việc ly giáo: Họ là năm chị lớn và ba chị khác, mặc dù ở lần này họ không ở tu viện, họ thuộc về cộng đoàn do được gia nhập.”
Cuối cùng, tuyên bố của TGP Burgos lưu ý rằng “các chị lớn tuổi tiếp tục là ưu tiên hàng đầu trong mối quan tâm của chúng tôi. Liên dòng các nữ tu Clara nghèo khó của Đức Mẹ Aránzazu đã lên kế hoạch chăm sóc ngay lập tức cho các nữ tu này ngay tại tu viện Belorado, chuyển một số nữ tu từ các tu viện khác của liên dòng đến sống trong tu viện.”
QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁC NỮ TU
Ngày 13-5-2024, cộng đoàn các nữ tu dòng Clara nghèo khó của các tu viện Belorado và Orduña, lần lượt thuộc TGP Burgos và GP Vitoria ở Tây Ban Nha, đã công bố một tuyên ngôn và một lá thư trong đó họ tuyên bố rằng họ sẽ rời bỏ Giáo Hội Công Giáo và đặt mình dưới sự giám hộ của vị giám mục giả bị vạ tuyệt thông Pablo de Rojas. Các nữ tu tuyên bố họ sẽ rời bỏ “Giáo Hội Công Đồng [tức là hậu CĐ Vatican II] mà Giáo Hội này thuộc về để trở thành một phần của Giáo Hội Công Giáo.”
Cuối tháng 5-2024, Vatican đã bổ nhiệm TGM Iceta làm ủy viên giáo hoàng với toàn quyền. Khi ngài bắt đầu thực hiện các biện pháp, các nữ tu đã nộp đơn khiếu nại lên Cảnh Sát Quốc Gia, cáo buộc TGM Iceta “lạm quyền.”
Đầu tháng 6-2024, TGP Burgos chính thức thông báo cho các nữ tu rằng họ phải ra trước tòa án Giáo Hội TGP Burgos để trả lời về tội ly giáo được định nghĩa trong Điều 751 của Giáo Luật, có thể bị phạt vạ tuyệt thông. Thời hạn đã hết vào Thứ Sáu ngày 21-6-2024 và các nữ tu đã không xuất hiện.
VẠ TUYỆT THÔNG LÀ GÌ?
Nói ngắn gọn, vạ tuyệt thông có thể được định nghĩa là hình phạt nghiêm trọng nhất mà một người đã được rửa tội có thể phải chịu, bao gồm việc bị loại ra ngoài sự hiệp thông của các tín hữu trong Giáo Hội Công Giáo và không được lãnh nhận các bí tích.
ĐHY Mauro Piacenza, đại diện tòa án danh dự của Giáo Hội, đã từng giải thích rằng mục đích của việc rút phép thông công là khiến “người có tội phải ăn năn và hoán cải.” Ngài lưu ý: “Với hình phạt vạ tuyệt thông, Giáo Hội không cố gắng hạn chế mức độ thương xót bằng một cách nào đó mà chỉ đơn giản là làm rõ mức độ nghiêm trọng của tội ác.”
TẠI SAO BỊ VẠ TUYỆT THÔNG?
Vạ tuyệt thông không chỉ là một hình phạt và còn vượt xa việc hạn chế rước lễ. Theo Điều 1339 § 2, cùng với việc rút phép thông công “trong trường hợp hành vi gây gương xấu hoặc gây rối nghiêm trọng trật tự công cộng, đấng bản quyền cũng có thể sửa dạy người đó, theo cách thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của người đó và điều kiện của người đó và điều đã được thực hiện.”
ĐIỀU GÌ XẢY RA TIẾP THEO?
Vì các nữ tu đã tuyên bố mình không còn là thành viên của Giáo Hội Công Giáo nên khi ở lại tu viện, họ thấy mình đang chiếm giữ tài sản của Giáo Hội mà họ không thuộc về, và không có quyền hợp pháp để ở đó.
TGM Iceta đã nói với họ rằng họ cần phải rời khỏi cơ sở do hậu quả của hành động của họ nhưng đang thực hiện một cách tiếp cận kiên nhẫn, hy vọng họ sẽ tự làm như vậy vào đầu tháng 7-2024 mà không cần bị buộc phải trục xuất.
TGM Iceta chỉ ra rằng mặc dù các nữ tu không công nhận quyền hạn của ngài cũng như Giáo Luật áp dụng cho họ trong trường hợp này, như được quy định tại Điều 1.4 của thỏa thuận giữa Tây Ban Nha và Tòa Thánh, luật dân sự của Tây Ban Nha công nhận Giáo Luật của Giáo Hội là quản lý những vấn đề này sao cho “luật dân sự tuân thủ những gì Giáo Luật quy định trong các thực thể Giáo Hội,” giống như nhà nước Tây Ban Nha công nhận tính hợp lệ của hôn nhân do một linh mục Công Giáo cử hành.
Về giám mục giả Rojas và linh mục giả Ceacero, TGM Iceta giải thích rằng “đã gần 4 tuần kể từ khi họ được thông báo rằng họ không nên ở trong tu viện nhưng họ vẫn cứ ở đó,” vì vậy các cơ quan pháp luật sẽ hành động chống lại họ, có lẽ nhanh hơn so với các nữ tu bị vạ tuyệt thông.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét