Sat, 11/11/2023 - Trầm
Thiên Thu
VIỆC MAI TÁNG KITÔ GIÁO QUA CÁC THỜI ĐẠI
Với việc dành riêng cho
các linh hồn, Tháng Mười Một chứng kiến người Công giáo trên khắp thế giới đổ về
các nghĩa trang để cầu nguyện và dâng lễ thay cho những người thân yêu đã qua đời.
Ánh nến lung linh yên bình trên các ngôi mộ nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện
liên tục của những người đã chết trong Chúa Kitô.
Việc chăm sóc nghĩa trang
có truyền thống lâu đời trong đạo Công giáo. Người ta biết rõ rằng trong thời kỳ
bách hại, những người theo Kitô giáo đã duy trì nghĩa trang trong những hầm mộ
nổi tiếng, những phòng dưới lòng đất được khoét trong lòng đất. Những ngôi mộ
này được chăm sóc bởi một tầng lớp thợ thủ công đặc biệt được gọi là fossor hay
fossore trong tiếng Latin. Họ đã thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, đáng chú ý
nhất là đào những lối đi mà người theo Kitô giáo chôn người chết. Một bức bích
họa nổi tiếng về hóa thạch thế kỷ thứ 4 có tên là Diogenes được phát hiện vào
những năm 1700 trong cuộc khai quật của Antonio Boldetti. Một dòng chữ xác định
Diogenes là một fossor trong khi hình ảnh cho thấy một người đàn ông cầm một
cái cuốc, bản sao hình ảnh vẫn thấy ở nhà thờ St. Marcellino ở Rôma ngày nay.
[1]
Tuy nhiên, các fossor đã
làm nhiều việc hơn là chỉ đào mộ. Họ cũng đóng vai trò là người canh giữ hầm mộ,
bảo đảm rằng cơ sở hạ tầng vật chất của các ngôi mộ được duy trì và không bị
phá hoặc bị cướp. Những ngày sau đó, sau khi hợp pháp hóa Kitô giáo, các fossor
tiếp tục là người trông coi, quản lý tài sản và hướng dẫn viên du lịch, dẫn những
người hành hương đi qua mê cung của những lối đi để kính viếng lăng mộ các vị tử
đạo. [2] Các fossor cuối cùng đã chết khi các giáo hoàng của thế kỷ thứ 5 và 6
di chuyển hầu hết các thánh tích tử đạo từ hầm mộ lên các nhà thờ ở Rôma. [3]
Thời Trung Cổ chứng kiến
sự trỗi dậy của nghĩa trang giáo xứ như một địa điểm tiêu chuẩn để chôn cất những
người theo Kitô giáo. Ngày nay, hầu hết các nghĩa trang của giáo xứ đều tách biệt
khỏi nhà thờ – bên kia đường, hoặc một khu đất khác thuộc sở hữu của giáo xứ.
Tuy nhiên, thời xa xưa, nhà thờ giáo xứ luôn có những ngôi mộ bao quanh, thể hiện
sự hiệp nhất giữa người sống và người chết cùng quây quần quanh Hy Lễ Thánh Thể.
Vì tính quan trọng của
Thánh Lễ, người ta mong muốn được chôn cất càng gần bàn thờ càng tốt, nhưng rõ
ràng là không có chỗ cho mọi người trong nhà thờ. Điều này dẫn đến sự xuất hiện
của một hệ thống phân cấp xã hội giữa các nơi chôn cất, với các thành viên có ảnh
hưởng hơn trong cộng đồng dùng sự giàu có hoặc ảnh hưởng của họ để bảo đảm việc
chôn cất trong nhà thờ, càng gần bàn thờ càng tốt. Điều đó được coi là lạm dụng,
và nhiều nơi đã có luật cấm giáo dân được chôn cất trong nhà thờ trừ khi họ xứng
đáng được như vậy nhờ đời sống đạo đức lành mạnh. Một sắc lệnh như vậy từ ĐGM
Theodulfus (mất năm 821), GP Orleans, còn tồn tại. Ngài ra lệnh: “Từ nay trở
đi, không ai được chôn cất trong nhà thờ, trừ khi đó là một người nào đó là tư
tế hoặc ít nhất là một giáo dân có lòng đạo đức đến mức người ta biết người đó
đã công đức của cải khi sống ở một nơi như vậy để xác chết của họ yên nghỉ.”
[4]
Trong hầu hết thời Trung
Cổ, tập tục này đã được tuân thủ, ít nhất là về lý thuyết – không gian chôn cất
trong nhà thờ hoặc nhà nguyện được dành riêng cho giáo sĩ và tu sĩ (những người
được tôn kính như thánh nhân thường an táng bên dưới bàn thờ), trong khi các
giáo dân đạo đức cũng có thể được an táng trong nhà thờ, mặc dù thường không gần
bàn thờ như các giáo sĩ. Một ví dụ tuyệt vời về điều này là Charterhouse ở
Gaming, Áo, một tu viện Carthusian trước đây được thành lập vào năm 1330 bởi
Công tước Albrecht II đạo đức của Áo, được an táng cùng với vợ là Joanna ở bên
dưới lối đi chính của gian giữa.
Người dân thường phải định
cư để được chôn tại nghĩa trang xung quanh nhà thờ giáo xứ. Mọi người thường đặt
chân về phía đông, phản ánh sự thờ phượng của Kitô giáo hướng về phía đông,
cũng như niềm tin chung rằng vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô sẽ trở lại từ phía
đông và triệu tập người chết từ ngôi mộ của họ. Thật vậy, điều này thường được
dùng như một yếu tố quyết định thời điểm một khu vực cụ thể được Kitô giáo hóa.
Ví dụ, vào thế kỷ thứ 3 và 4, các ngôi mộ của người La Mã ở Gaul thường được đặt
đầu về phía tây. Nhưng vào cuối thế kỷ thứ 5 và 6, định hướng này đã đảo ngược,
cho thấy rằng vùng nông thôn đã được Kitô giáo hóa trong thời kỳ đó, thể hiện
qua việc sắp xếp các thi thể. [5]
Hầu hết các giáo phận đều
có quy định về cách sắp xếp và duy trì nghĩa trang. Một chỉ thị thế kỷ 13 của
ĐGM Hugh Wells, GP Lincoln, cho biết: “Về việc sắp xếp sân nhà thờ [nghĩa
trang], mặt đất phải được bao bọc cẩn thận bằng tường hoặc mương, và không được
phép xây dựng bất kỳ loại nhà nào, trừ trong thời gian chiến tranh. Phải có một
cây Thánh Giá tốt và được xây dựng tốt trong sân nhà thờ để rước vào Chúa Nhật
Lễ Lá, trừ khi phong tục quy định việc rước phải được thực hiện ở nơi khác.”
Một số nhà thờ còn có một
cấu trúc lớn bằng đá có gắn đèn gọi là “Lanterne des Morts” (Đèn Lồng Người Chết).
Đèn lồng này được thắp sáng vào ngày lễ Cầu Hồn và Thánh Lễ được cử hành tại
nghĩa trang dưới chân cột. Đôi khi chúng khá lớn, giống như những tòa tháp. Đèn
Lồng Người Chết phổ biến ở Pháp, Ba Lan và Đức. [6]
Ngay cả trong sân nhà thờ
cũng có dạng thứ bậc xã hội. Trong khi các giáo dân bình thường không thể mong
đợi được chôn cất trong khuôn viên nhà thờ, thì vị trí tốt nhất tiếp theo là được
chôn cất theo kiểu “sub stillicidio” (dưới giọt nước mái nhà). Các ngôi mộ này
được mong muốn vì vị trí của chúng cho phép nước mưa được thánh hóa khi tiếp
xúc với nước từ mái nhà thờ rơi xuống ngôi mộ, tạo thành một loại phúc lành còn
sót lại. [7] Dạng mai táng sub stillicidio có thể sẽ được chôn cất bởi những
người bình thường, những người chắc chắn đã trả tiền cho vị trí đặc quyền – mặc
dù ở Anglo-Saxon, vị trí sub stillicidio dường như được dành riêng cho trẻ sơ
sinh và phụ nữ chết khi sinh con. [8] Vị trí tốt nhất tiếp theo là ở nơi gọi là
“atrium” – khu đất vuông vức ngay ở xung quanh nhà thờ. Những người nghèo, những
người xa lạ và những người có ít nguồn lực được chôn sâu hơn trong sân nhà thờ,
cách xa nhà thờ hơn. [9]
Về phương diện lịch sử,
Công giáo đã nuôi dưỡng một di sản phong phú về truyền thống và các biểu tượng
xung quanh nghĩa trang và nghi lễ mai táng. Chúng ta hãy nhớ các truyền thống
này khi chúng ta tiếp tục phong tục cổ xưa là tôn kính mộ của những người thân
yêu đã khuất bóng trong Tháng Cầu Hồn này.
PHILLIP CAMPBELL
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
[1] Xem “Fossor” in
Encyclopaedic Dictionary of Christian Antiquities, Vol. 3 ed. William Smith
& Samuel Cheetham (New Delhi: Logos Press, 2005), 684
[2] See Estelle Shohet
Brettman, Vaults of Memory: The Roman Jewish Catacombs and their Context in the
Ancient Mediterranean World, rev. ed. Amy K. Hirschfeld, Florence Wolsky, &
Jessica Dello Russo (Boston: International Catacomb Society, 2017).
[3] A. Waal, “Roman
Catacombs,” in The Catholic Encyclopedia (New York: Robert Appleton Company,
1908). Xem tại http://www.newadvent.org/cathen/03417b.htm
[4] John Curran,
“Cemetery,” The Catholic Encyclopedia. Vol. 3 (New York: Robert Appleton
Company, 1908). Xem tại http://www.newadvent.org/cathen/03504a.htm
[5] Edward James, The
Franks (Oxford: Basil Blackwell Ltd, 1988), 141.
[6] Wikipedia, “Lanterns
of the Dead,” https://en.wikipedia.org/wiki/Lanterns_of_the_Dead
[7] James, 147-148.
[8] Elizabeth Craig Atkins,
“Eavesdropping on short lives: Eaves-drip burial and the differential treatment
of children one year of age and under in early Christian cemeteries,” in Hadley, D.M. and Hemer, K.A. (eds).
Medieval Childhood: Archaeological Approaches (Oxbow Books: Oxford &
Philadelphia, 2014), pp. 95-113
[9] James, 147.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét