KHÍCH LỆ: BÍ
QUYẾT GIÁO DỤC
CON TRẺ THÀNH
CÔNG
(Tâm Lý Giáo Dục - CGVN)
Tôi còn nhớ rõ ngày xưa khi còn bé được cho đi học ở các trường
nhà đạo, tôi đã gặp một số các sơ cũng như các cha đánh đập các học trò thái
quá, đến nỗi nhiều cậu bé đã không dám trở lại trường sau mùa nghỉ hè. Tôi
không biết vì họ độc thân khó tính hay vì họ có quan niệm rằng đánh để chúng nó
sợ mà chăm lo học hành. Nhưng kết quả xảy ra trước mắt là một số con em đã phải
bỏ trường và cha mẹ rất đau lòng khi nghe biết những điều như vậy xảy ra.
Khích lệ thì cần hơn những chuyện khác trong
công việc giáo dục con cái của chúng ta. Nó quan trọng đến nỗi nếu thiếu điều
đó sẽ làm cho con trẻ hành động sai lầm. Một đứa trẻ có hành động sai lầm là
một đứa trẻ không được khích lệ. Đứa trẻ cần có sự khích lệ liên tục như một
cây cần nước. Nó không thể lớn lên và phát triển mà không có sự khích lệ.
Tuy nhiên, những kỷ thuật giáo dục con trẻ mà chúng ta dùng ngày
hôm nay cho thấy hàng loạt những kinh nghiệm thiếu khích lệ.
Đối với một đứa trẻ, những người lớn thì xem ra quá lớn, quá oai
vệ, và có quá nhiều khả năng, còn nó thì xem ra quá nhỏ bé, nên sự khích lệ
giúp cho đứa trẻ không đầu hàng khi phải đối diện với những ấn tượng nầy, và
thật tuyệt vời nếu đứa trẻ có được sự can đảm đó. Nếu chúng ta được đặt vào
trường hợp sống giữa những người khổng lồ thì chúng ta cũng sẽ đầu hàng như
những đứa trẻ của chúng ta vậy.
Trẻ con đáp ứng những hoàn cảnh khó khăn với ước muốn học được những
khéo léo và muốn thắng vượt cảm giác mình bé nhỏ và bất lực. Chúng muốn là một
phần tử của gia đình. Tuy nhiên, trong cố gắng tìm cho mình một chỗ đứng, chúng
lại gặp phải thiếu sự khích lệ. Những cách giáo dục như thế, thường chỉ gây
thêm sự thất đảm cho con trẻ.
Kim Hồng, 4 tuổi, đang đứng bên cạnh mẹ
trong bếp, nhìn mẹ đang thu xếp những thực phẩm. Mẹ nó lấy cái hộp đựng trứng
trong tủ lạnh ra và đặt trên bàn. Bà lấy hộp trứng ra khỏi túi đồ. Kim Hồng vói
tay lấy hộp đựng trứng và muốn lấy trứng xếp vào hộp đựng trứng. Bà mẹ kêu lên:
“Kim Hồng! không được, con sẽ làm vỡ
trứng. Để đó cho mẹ. Hãy đợi đến khi con lớn đã”.
Bà mẹ đã vô tình làm cho em bé mất đi sự can
đảm. Bà đã gây cho nó một ấn tượng là nó quá nhỏ. Điều đó có ảnh hưởng không
tốt đối với quan niệm về chính nó. Bà có biết rằng ngay cả đứa bé 2 tuổi cũng
có thể xếp được những cái trứng một cách thận trọng không? Chúng ta đã từng
thấy một đứa trẻ nhặt từng chiếc trứng đặt vào trong chiếc hộp đựng trứng một
cách tốt đẹp chưa? Và nó đã tỏ ra rất vinh dự khi đã làm được điều đó. Cả bà mẹ
cũng vui mừng biết bao khi thấy con mình làm được như thế.
Cu bé Thành đang mặc bộ đồ mùa đông để đi ra chợ với mẹ
nó. “Lại đây, Thành, mẹ mặc cho con. Con
làm chậm quá”.
Bà mẹ đã cho cậu bé một cảm giác là không đủ khả năng để làm mọi
việc nhanh chóng. Bị làm thất đảm, cậu bé đầu hàng và đã để mẹ nó mặc quần áo
cho nó.
Trong ngàn vạn cách, bằng giọng nói hay bằng hành động, chúng ta
chứng tỏ cho đứa trẻ thấy rằng chúng ta coi nó chưa có khả năng, nói chung là
còn vụng về, ngơ ngáo. Để đối phó với những quan niệm đó, nó cố gắng làm một
cái gì nổi bật để gây ấn tượng và tìm một chỗ đứng.
Thay vì cho phép con trẻ thử tài của chúng trong trăm ngàn cách
khác nhau, chúng ta thường đối xử với chúng với đầy những thành kiến, luôn nghi
ngờ khả năng của chúng, hoặc thẩm định giá trị chúng bằng cách thiết lập những
tiêu chuẩn cho những trình độ tuổi khác nhau mà qua đó những đứa trẻ được tin
tưởng là có thể làm được.
Khi một đứa bé 2 tuổi rưỡi muốn giúp dọn bàn, chúng ta lập tức
chụp lấy ngay cái đĩa khỏi tay nó và nói: “Con
ơi, không được, con sẽ làm bể nó”.
Để cứu lấy một cái đĩa, chúng ta sẵn sàng làm tan vỡ niềm tự tin của đứa bé vào
khả năng mới chớm nở của nó. Chúng ta ngăn cản những cố gắng khám phá khả năng
và sức mạnh của đứa bé. Đứa bé mang giầy, chúng ta bảo là nó mang lộn chân. Lần
đầu tiên nó muốn tự cầm muổng để ăn, nó làm lem luốc mặt mày, quần áo, bàn ghế.
Chúng ta rầy la, lấy muổng khỏi tay nó, và cho nó ăn. Dần dần chúng ta làm mất
đi những cố gắng đi tìm cho mình một chỗ đứng qua những công việc làm của nó.
Thay vì khích lệ, chúng ta làm con cái chúng ta thất đảm mà
chúng ta không biết. Chúng ta thiếu niềm tin vào khả năng của đứa trẻ. Chúng ta
nghĩ rằng bây giờ nó còn quá bé để làm những công việc đó, mai ngày nó lớn, nó
tự động sẽ làm được những công việc như thế. Nhưng chúng ta đã lầm, mọi sự đều
cần phải học hỏi.
Khi một đứa bé làm điều gì sai lỗi hay không hoàn thành được một
công việc nào đó, chúng ta phải tránh nói hoặc hành động tỏ cho nó thấy rằng nó
là một sự thất bại. Chúng ta cần tách rời hành động ra khỏi con người hành
động. Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng rằng mỗi lần thất bại là chỉ vì thiếu
sự khéo léo nên không ảnh hưởng gì đến giá trị con người. Cần can đảm mỗi khi
chúng ta gặp phải thất bại và không nên mang mặc cảm nào cả. Hãy nhớ rằng con
người là bất toàn và lỗi lầm thì không thể nào tránh khỏi.
Một nửa của việc khích lệ một đứa bé là tránh làm cho nó thất
đảm bởi việc bảo vệ thái quá hoặc rầy la nó thái quá. Bất cứ việc gì ta làm tỏ
ra thiếu tin tưởng vào đứa bé thì đó là làm cho nó thất đảm. Một nửa khác là
biết cách khích lệ nó. Bất cứ khi nào chúng ta hành động để nâng đỡ một đứa bé
biết can đảm và tự tin thì đó là lúc chúng ta khuyến khích nó. Không có một câu
trả lời nào rõ ràng cho vấn đề đó. Nó liên quan đến quan niệm và sự học hỏi của
cha mẹ về vấn đề giáo dục. Chúng ta phải biết quan sát kết quả của chương trình
giáo dục và tự hỏi: phương cách mà chúng ta đang dùng có giúp ích gì cho việc
giáo dục con cái chúng ta không?
Hành động của đứa bé muốn nói cho chúng ta biết sự lượng định
giá trị của nó về chính nó. Một đứa bé nghi ngờ về khả năng của nó hoặc giá trị
của nó, chúng ta có thể thấy được qua cách thế: nó không còn muốn làm, không
còn muốn tham dự, hoặc góp phần vào những công việc như thế nữa. Trong cơn thất
đảm, nó quay sang khuấy động hoặc hành động một cách vô tích sự. Nó nghĩ rằng
nó bất tài và không thể đóng góp gì, nên phải làm một cái gì ít ra cũng gây
được sự chú ý bằng cách nầy hay cách khác. Thà rằng bị phết vào đít còn hơn là
không được ai biết đến. Bị xem là đứa trẻ hư còn hơn là không được chú ý. Một
đứa trẻ như vậy luôn có ấn tượng rằng không còn chút hy vọng nào để chiếm được
một chỗ đứng qua hành động cộng tác.
Khích lệ là một tiến trình liên tục có mục đích tạo cho đứa trẻ
có một cảm giác biết tự trọng và hoàn thành công việc. Từ thuở ấu thời nó cần
sự giúp đỡ để tìm được một chỗ đứng qua việc hoàn thành một số những công việc.
Bé Yến, 7 tháng, hay khóc la mỗi khi
nó được đặt vào trong nôi và nằm đó một mình. Mẹ nó lấy làm ngạc nhiên: một đứa
bé nhỏ như vậy đã có tính dở chứng như thế. Nó cong lưng, đập chân, và la hét
đến độ đỏ cả người. Là đứa nhỏ nhất trong 5, bé Yến đã được ôm bế nhiều từ lúc
mới sinh. Bé Yến nằm trên đùi mẹ khi mẹ ngồi ở bàn và mắt mẹ thường hay theo
dõi lúc nó được đặt trong nôi. Khi mẹ nó phải đi ra khỏi phòng, một trong những
đứa lớn hơn được gọi để trông coi nó. Vào giờ ngủ, nó thường không được đặt vào
giường cho đến khi nào nó hoàn toàn ngủ say. Nó khóc một chút trước khi thiếp ngủ.
Mẹ nó luôn canh chừng và luôn ở cạnh nó mỗi khi nó cựa quậy. Bé Yến vui với mẹ.
Mẹ nó nghĩ đến nó như một đứa bé hạnh phúc.
Mới chỉ 7 tháng tuổi, Bé Yến đã tỏ ra thất đảm. Nó cảm thấy mình
có một chỗ đứng nếu những người khác để ý làm nó vui và cảm thấy mình bị lãng
quên nếu không ai chú ý đến nó. Nó không chịu góp phần vào những sinh hoạt của
gia đình và chỉ muốn mình trở thành trung tâm của mọi chú ý.
Sẽ có người hỏi rằng: làm sao một trẻ sơ sinh có thể góp phần
vào những sinh hoạt đó? Thưa rằng: đòi hỏi đầu tiên nơi mỗi con người là “phải biết tự mình đủ cho mình”. Một đứa
trẻ cần học cách lo cho chính mình và tiến trình học nầy bắt đầu từ lúc mới
sinh. Bé Yến cần học cách tự làm mình vui. Mẹ nó yêu nó nhiều và muốn nó là một
đứa bé hạnh phúc. Nó trở thành một đứa bé quá được cưng chiều. Bé Yến thấy rằng
việc nó khóc mang lại kết quả. Mẹ nó làm mọi cách để nó khỏi khóc, để nó được
hài lòng. Trong cách thế khích lệ nó trở thành một đứa bé hạnh phúc, mẹ nó đẵ
vô tình không khích lệ nó biết tự mãn với chính mình. Mẹ nó có thể làm ngưng
cái dở chứng của nó bằng cách cứ để cho nó khóc nếu nó muốn, cung cấp đồ chơi
cho nó và đặt nó ở đó với những đồ chơi của nó. Làm như thế thì tốt hơn cho nó
và đó là một sự khích lệ. Mỗi ngày nên có một thời gian nhất định để nó một
mình tự lo cho nó. Khoảng thời gian tốt nhất cho sự tập luyện nầy là vào buổi
sáng khi các anh chị nó đi học và người mẹ phải lo công việc trong nhà.
Tuy nhiên, rất khó lòng không quan tâm đến một đứa bé đang khóc.
Người mẹ phải tự biết rằng yêu con có nghĩa là muốn cái lợi cho con. Một người
mẹ tốt không cần phải cung ứng tất cả mọi đòi hỏi của đứa bé. Một đứa bé cảm
thấy hạnh phúc khi nó là trung tâm của mọi chú ý thì không hẳn là một đứa bé
hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật không lệ thuộc vào sự chú ý của người khác nhưng
phát xuất từ trong chính mình như kết quả của sự mãn nguyện với chính mình. Đứa
bé cần biết điều đó hơn những người khác, và cũng cần biết rằng có nhiều người
đi trước nó đã có thể làm được như vậy.
Bé Mỹ Linh, 3 tuổi, muốn giúp mẹ sắp xếp
bàn ghế cho bữa cơm tối. Nó đi một vòng quanh bàn, và rồi nâng lấy bình sữa
muốn đổ vào các ly. Mẹ nó chụp lấy bình và nói một cách nhẹ nhàng rằng: “Cưng ơi, con chưa đủ lớn. Mẹ sẽ làm việc
đó. Con lấy giấy xếp lên bàn giúp
mẹ”. Bé Mỹ Linh xem ra không được hài lòng, quay đi, và rời khỏi phòng
ăn.
Trẻ con có can đảm bẩm sinh và hăng hái làm những gì nó thấy
người khác đang làm. Giả như cô bé có làm đổ sữa ra đi nữa thì việc mất sữa
cũng ít quan trọng hơn là mất tự tin. Bé Mỹ Linh có can đảm nhận lấy một thử
thách mới. Người mẹ có thể khuyến khích bằng cách tin tưởng bé. Nếu sữa bị đổ
ra ngoài, nó sẽ phải đối diện với sự thất bại đó nên cần một sự can đảm và
khích lệ hơn. Người mẹ nên biết sự dũng cảm cũng như sự cố gắng của đứa bé, nên
sẵn sàng giúp nó lau chùi và hãy khuyến khích nó: “Con cần cố gắng hơn nữa và rồi con có thể làm được”.
Hồng
Loan 8 tuổi, và Hồng Liên 10 tuổi, sau buổi học về nhà với tờ báo cáo của nhà
trường. Hồng Loan yên lặng đi thẳng vô phòng trong khi Hồng Liên chạy đến khoe
mẹ:” Mẹ xem, con lấy toàn là 9,0 với 9,5 điểm”. Bà mẹ nhìn tờ báo cáo và lộ vẻ vui
mừng. “Còn Hồng Loan đâu, mẹ muốn xem tờ
báo cáo của nó”. Hồng Liên nhún
vai: “Nó không lấy được điểm cao như con. Nó đần lắm”. H. Loan trên đường đi
ra ngoài chơi, bà mẹ thấy nó và gọi lại:
- H.
Loan tờ báo cáo của con đâu?
- Trong
phòng con.
- Con
lấy được bao nhiêu điểm?
Cô bé không trả lời. Nó đứng nhìn trần nhà.
- Mẹ
nghĩ con lại lấy điểm thấp nữa rồi, có phải không? Hãy đi lấy tờ báo cáo đưa
cho mẹ xem.
Nhìn thấy H. Loan có 2 cái 4,0; 2 cái 5,0; và 1 cái 6,0,
bà mẹ phát cáu:
- H.
Loan, mẹ xấu hổ về con. Không có lý do nào cả. Hãy xem chị H. Liên luôn luôn
lấy điểm cao. Tại sao con không như chị con? Con chỉ vì lười và không chú ý.
Đây là một cái nhục cho gia đình, con có biết không? Con không được ra ngoài
chơi và hãy đi vô phòng.
H. Loan có điểm thấp là kết quả của việc thiếu khích lệ. Nó là
đứa con thứ hai trong gia đình. Nó cảm thấy mình không có cơ hội để thõa mãn
những tiêu chuẩn mà mẹ nó đòi hỏi: phải giống như chị nó. Cung cách của người
mẹ lại càng làm cho nó thất đảm. Trước nhất, cho dầu chưa thấy tờ báo cáo, bà
mẹ cũng đã quả quyết: điểm thấp nữa rồi. Vì bà mẹ không tin tưởng vào nó nên nó
chỉ có đầu hàng và xem mình như một thất bại. Khi bà mẹ nói bà thấy nhục về nó,
cô bé sẽ cảm thấy mình không còn giá trị nữa. Thứ đến, bà mẹ ca tụng điểm cao
của H. Liên, bà muốn ám chỉ cho bé Loan một sự so sánh không mấy tốt đẹp về
chính nó. Bà mẹ bảo nó nên giống như H. Liên, nhưng đối với bé Loan đó là một
điều không thể có được, vì trong đầu óc nó: chị nó lớn hơn nó 2 tuổi, luôn luôn
đi trước nó 2 năm, và như thế nó không thể nào bắt kịp được chị nó cả. Bà mẹ
phê bình nó: cho nó là lười, là sự nhục nhã của gia đình, điều đó chẳng có ích
lợi gì mà chỉ càng làm cho nó thêm thất đảm trên con đường học vấn mà thôi. Cô
bé cũng ý thức được rằng: chị nó cho nó là đần độn chỉ vì chị nó muốn độc quyền
giữ chỗ đứng như là một đứa thông minh, và cố làm cho em nó càng thêm nhụt chí
bằng cách đẩy em nó lụn xuống sâu hơn. Nhưng trên tất cả, việc bà mẹ đã phạt bé
Loan không cho nó ra ngoài chơi càng làm cho cô bé cảm thấy chán nản và thất
vọng.
Trái với quan niệm thông thường, kích thích sự tranh đua giữa 2
đứa con gái là một việc không nên làm, vì điều đó càng làm cho đứa trẻ thua kém
thêm thất vọng và làm cho đứa kia thêm lo sợ, và như thế sẽ tạo cho đứa khá có
quá nhiều tham vọng và sẽ đặt cho nó những mục tiêu khó có thể đạt được. Ngoại
trừ nó luôn ở hàng đầu, nó có thể cũng xem mình là một thất bại như đứa kia.
Để khích lệ bé H. Loan, bà mẹ phải ngưng đưa H. Liên ra như một
khuôn mẫu. Tất cả mọi so sánh sẽ không có lợi. Bé Loan có hành động và phương
cách riêng của nó, không cần phải rập khuôn theo như chị nó. Bà mẹ sẽ không
giúp gì được cho cô bé nếu bà không tin tưởng vào nó và bày tỏ cho nó thấy điều
đó. Trong những tình huống như vậy, cô bé sẽ làm những gì mà người ta nghĩ về
bé. Khả năng của nó chỉ tăng lên khi niềm tin được khôi phục. Tránh phê bình
chỉ trích, và tốt nhất là bà mẹ nên nhận ra và nêu ra những gì cô bé đã hoàn
thành cho dẫu đó chỉ là những công việc nho nhỏ khởi đầu.
Bây giờ, chúng ta hãy thử lập lại cùng một sự việc, và cũng thử
trình bày một phương cách khác mà chúng ta có thể áp dụng để mang lại một sự
khích lệ cho một đứa trẻ đang gặp nhiều khó khăn, chán nản như trường hợp của
bé H. Loan.
H. Loan và H. Liên về đến nhà với tờ báo cáo của nhà trường.
Loan yên lặng đi vào phòng trong khi Liên chạy ngay đến mẹ nói: “Mẹ ơi, con lấy toàn điểm cao”. Người mẹ
nhìn và nói: “Mẹ sung sướng thấy con ham
học”. Điều quan trọng ở đây là mẹ nó chú trọng đến việc học chớ không phải
là điểm. Người mẹ ca tụng công việc đã được làm tốt đẹp. Và nhận ra là Loan
muốn tránh né vấn đề, nên người mẹ cần phải tế nhị, chờ đến khi chỉ còn một
mình nó với bà, bấy giờ bà mới hỏi: “Loan,
con có muốn mẹ ký vào tờ báo cáo của
con không?” Loan cưỡng bách mang tờ báo cáo cho mẹ. Bà mẹ xem xét, ký vào,
và nói: “ Mẹ sung sướng nhìn thấy con
thích môn đọc sách (môn nầy nó lấy được điểm cao). Môn nầy vui thích phải không? Thế rồi, bà mẹ nên tỏ dấu cưng con,
ôm nó, và nói sang chuyện khác: “ Con
có muốn giúp mẹ xếp đặt bàn cho bữa ăn
tối không?” Trong lúc hai mẹ con thu xếp bàn ăn, cô bé xem ra không vui.
Nhưng cuối cùng, cô bé cũng bày tỏ nỗi niềm tâm sự:“Chi Liên lấy toàn điểm cao,
còn con thì không”. Bấy giờ, bà mẹ có thể khuyến khích: “Không quan trọng là con phải lấy cùng điểm
như chị con. Nhưng con cũng có thể đạt
được điểm mà con thích thú, và bấy giờ con sẽ khám phá ra rằng: con có nhiều
khả năng hơn con nghĩ mình có bây giờ”.
Thật khó cho chúng ta nhìn thấy cái gì sẽ xảy ra cho bé Loan nếu
mẹ nó thình lình thay đổi giọng điệu như thế. Thoạt đầu, cô bé có lẽ không tin.
Nhưng bà mẹ cần phải ngưng ngay việc nghĩ rằng: chỉ có bé Liên mới có thể lấy
được điểm cao như vậy. Với H. Loan, cô bé vẫn tin rằng nó khó có cơ hội để lấy
được điểm cao, xin được học bỗng. Từ cái nhìn đó, mọi cố gắng mà nó làm đều trở
nên vô ích. Dẫu sao, nó cũng đã cố gắng để lấy được 6,0 cho môn đọc sách. Điều
nầy chứng tỏ nó cũng đã có một sự nổ lực. Khi bà mẹ nhận ra được điều đó, bà
nên cho nó một cơ hội tái thẩm định chỗ đứng của nó và nên giảm bớt sự cạnh
tranh quá đáng, không cần thiết. Trong cách thế đó, bà có thể cung cấp cho cô
bé một nguồn hứng khởi cho những cố gắng vượt xa hơn. Bé Loan bây giờ có cơ hội
để thấy rằng 6,0 điểm cũng có một giá trị nào đó. Nó sẽ ngẫm nghĩ: nếu đây vẫn
còn tốt hơn là thất vọng thì mình có thể làm hơn nữa được. Một tia hy vọng chớm
nở trong đầu óc nó, trở thành một sự khích lệ gây cảm hứng cho cô bé cố gắng
làm một cái gì hơn nữa.
Cu
Chính 10
tuổi là một bé trai nghịch ngợm lúc ở nhà cũng như khi ở trường. Nó khởi sự
nhiều chương trình nhưng không bao giờ làm xong được cái gì. Điểm học của nó ít
khi đạt được trung bình. Nó là đứa lớn nhất trong 3 đứa trai. Đứa em kế 8 tuổi
và đứa thứ ba 3 tuổi. Cu Chính thích chơi với đứa bé nhất và hay gây lộn với
đứa thứ nhì tức bé Chinh. Bé Chinh đạt được điểm cao ở trường và hoàn tất những
gì nó khởi sự. Sở thích của nó không nhiều như anh nó. Một ngày kia cu Chính
làm gần xong một con trâu bằng đất. Mẹ nó quan tâm đến việc nó không làm xong
điều mà nó khởi sự nên tìm cách khuyến khích nó: “Thật là dễ thương, con đang làm một tuyệt tác”. Và thật bất ngờ,
cu Chính ném con trâu xuống sàn nhà và hét lên: “Con không dễ thương mà thật
đáng chán”. Thế rồi, nó lầm lì đi ngay vào phòng nó.
Mẹ nó cố gắng khích lệ nó bằng cách ca tụng nó. Nhưng phản ứng
của nó cho thấy rằng lời ca tụng của bà mẹ không khích lệ mà ngược lại càng
làm cho nó thêm chán nản. Tại sao? Lời ca tụng có thể là khích lệ mà cũng có
thể là không.
Đây là một điển hình cho thấy: không có một mẫu trả lời nào hoặc
một qui luật nào là tiêu chuẩn cho việc khích lệ con trẻ. Nó hoàn toàn tùy
thuộc vào sự phản ứng của đứa trẻ. Bé Chính đã quá tham lam: muốn làm quá nhiều
điều nhưng không thể làm được. Khi người mẹ ca tụng nó, nó sinh giận dỗi vì nó
mang mặc cảm rằng: nó có bao giờ làm được một cái gì xem ra khá đâu. Nó cảm
thấy lời của mẹ nó không là một lời khuyến khích thật mà là một lời châm chọc
mỉa mai. Nó muốn tác phẩm mà nó hoàn thành phải là một cái gì tuyệt vời. Nhưng
những cố gắng của nó thì khác xa với những gì nó ước muốn vì sự thiếu khả năng
của nó, và vì muốn hoàn thành mọi sự cách tức khắc nên nó không thỏa mãn với
bất cứ cái gì. Người mẹ đã ca tụng tác phẩm nó làm, nhưng với nó, nó cảm thấy
tác phẩm đó vẫn còn là một cái gì khác xa với cái mà nó mong muốn. Thật ra,
không ai hiểu được cái thất bại mà nó đang gặp phải ngay cả bà mẹ của nó, vì
thế nó sinh ra giận dỗi.
Bé Chính cần sự khích lệ nhưng phải là một sự khích lệ khác
thường. Nó cảm thấy mình hoàn toàn thất bại trong mọi sự nó làm. Khởi sự hết
công việc nầy đến công việc khác, nó tỏ ra hoạt động và bận rộn với nhiều công
việc, nhưng chẳng bao giờ làm xong được một cái gì, và nó đã dùng phương cách
đó để tránh đối diện với sự bất tài của nó. Trong khi đó, em nó, cu Chinh luôn
thành công trong mọi việc, điều đó càng làm cho nó thêm xấu hổ. Sự quá tham
vọng là kết quả của mặc cảm thua kém em nó. Ngoại trừ nó phải đứng đầu, nó
không là gì cả. Chính cái tư tưởng lệch lạc đó đã hướng dẫn hành vi sai lầm của
nó. Với nó, có thể nói được rằng đó là một công việc hoàn toàn không thể. Vì
thế, nó cảm thấy mình chỉ là một thất bại, và do đó không có một lời ca tụng
nào có thể mang lại cho nó một sự khích lệ.
Nếu mẹ nó có nói rằng con người không cần phải là hoàn toàn, thì
điều đó cũng chỉ là vô ích và chỉ càng làm cho nó nghĩ rằng không có một ai
hiểu được nó. Nó cảm thấy rằng mọi cái nó làm phải là hoàn toàn vì nó đồng hóa
cái nó làm với cái nó là. Nhưng dẫu cho nó có thành công trong một số công
việc, nó vẫn coi đó là một sự thất bại vì cái quan niệm lệch lạc của nó. Nó cần
phải đổi hướng, đổi cách nhìn, phải thay đổi cái hoàn toàn của một công việc
bằng cái thõa mãn của một sự đóng góp. Tuy nhiên, nó cảm thấy rằng ngoại trừ sự
đóng góp của nó là hoàn toàn, nó chỉ là một thất bại.
Bé Chính cần được giúp đỡ nhiều để nó tái thẩm định giá trị về
chính mình và chỗ đứng của nó trong gia đình. Cha mẹ cần dấn thân trong việc
nầy. Cái chủ nghĩa “phải là hoàn toàn của
nó” phát xuất từ một chỗ nào đó: hoặc
từ cha, hoặc từ mẹ, hoặc cả hai – có lẽ đã có tiêu chuẩn quá cao cho sự hoàn
thành của một công việc. Có thể họ cũng đã nói với nó rằng nó không cần phải là
hoàn mỹ, nhưng trong lối sống, họ lại mâu thuẫn với lời họ nói. Gia đình như
vậy cần cởi mở thảo luận với con cái họ về: thế nào là tốt đối với một con
người trước khi một người trở nên tốt đủ. Thay vì ca tụng nó, tốt hơn là nói
với nó rằng mẹ vui khi nhìn thấy con thích thú làm việc đến cuối cùng.
Ngọc Linh 5 tuổi rất thích thu dọn
chiếc giường của nó cho gọn gàng. Nó kéo những tấm ra phủ giường qua hướng nầy
rồi hướng khác. Cuối cùng thì cô bé đặt nó vào vị trí mà cô bé thích. Mẹ nó vào
phòng, thấy giường xếp đặt không được đẹp mắt mới bảo: “Cưng ơi, mẹ sẽ làm cho con, những tấm chăn phủ giường thì quá nặng đối
với con”.
Người mẹ không những ám chỉ rằng Mỹ Linh chưa đủ khả năng để làm
chuyện đó vì nó còn quá bé, nhưng cũng còn muốn tỏ ra cái siêu việt của bà bằng
cách trải đẹp những tấm chăn phủ giường trong khi cô bé đứng nhìn mà lòng cảm
thấy xấu hổ. Niềm vui do việc hoàn thành một cách tốt đẹp công việc thu dọn
chiếc giường đã biến mất khi đối mặt với sự hoàn thành tuyệt hảo của bà mẹ. Mỹ
Linh không bao lâu sẽ cảm thấy: người mẹ làm điều đó so với nó đẹp hơn nhiều
nhưng nào có ích chi?
Nếu người mẹ tỏ ra vui khi thấy Mỹ Linh thích làm điều đó và với
một lời khuyến khích như: “Thật là tuyệt
nếu con kéo nó xích lên một chút”
hoặc’’ Hãy nhìn cưng của mẹ tự thu dọn
giường của con”, Mỹ Linh chắc sẽ vui
để thực hiện, và sẽ còn thích thú tiếp tục. Không thành vấn đề có bao nhiêu nếp
nhăn trên những tấm chăn phủ cô đã trải, người mẹ không nên tỏ cho Mỹ Linh thấy
rằng bà đã làm điều đó tốt hơn đứa bé nhiều. Bà có thể sửa lại sau đó sau khi
đứa bé không còn ở đó nữa. Một khi đã hoàn chỉnh xong, người mẹ có thể khích lệ
cô bé bằng những đề nghị như: “Tại sao
con không cuộn nó lại và rồi lại trải
ra khi con thức giấc?” Hay mỗi khi thay chăn, bà mẹ nên có những đề nghị
như: “Mẹ con mình thay chăn để giặt!”
và bắt đầu vừa làm vừa chỉ cho cô bé. Tuyệt đối tránh những phê bình, chỉ trích
mà chỉ có những lời khích lệ như: “Bây
giờ chúng ta vén góc nầy lên và dấu
nó vào trong” hoặc “Chúng ta
cùng kéo nó lên để hai đầu ra vừa khít
với cái đệm”. Trong cách thế như vậy, dẫu là đang học làm một việc gì chẳng
qua cũng giống như là đang chơi một trò chơi thích thú, và cả hai mẹ con đều có
chung niềm vui là cùng làm một công việc với nhau.
Cu Luân 4 tuổi cùng với mẹ đi thăm người bạn láng giềng của
mẹ. Bà nầy có đứa con gái tên Tuyền, 1 tuổi rưỡi, đang ngồi chơi với những đồ
chơi của nó trong phòng coi Tivi. “Con
vào chơi với em Tuyền đi, bà mẹ nói
với Luân, con phải là một đứa con trai tốt, không được đánh em nhé!” Cu
Luân cởi chiếc áo khoác ngoài ra và chạy vào chơi với bé Tuyền trong khi hai bà
mẹ ngồi uống cà phê nói chuyện. Không bao lâu sau đó thì bé Tuyền hét rú lên và
khóc. Cả hai bà mẹ đều chạy vội vào. Cu Luân đang đứng với dáng điệu thõa mãn,
ôm con búp bê của bé Tuyền áp vào ngực. Bé Tuyền khóc to và trên vầng trán hiện
lên một vết đỏ. Mẹ Tuyền chạy đến bế nó lên, ôm nó, và hôn nó. Mẹ cu Luân chụp
lấy cậu bé và quát: “Con hư. Con đã làm
gì với em bé? Có phải con giành lấy
con búp bê và đánh nó không? Tại sao con lại tệ như vậy? Má đánh con bây giờ”.
Và bà đã phết cho nó hai phát. Cậu bé khóc rú lên. “Tôi không biết làm gì với
nó, bà nói với người bạn đang ôm bé Tuyền đã hết khóc. Nó chỉ đối xử tệ với
những đứa trẻ nhỏ hơn nó”.
Cậu bé thình lình nhìn mẹ khi bà ta đang cố gắng làm cho cô bé
cười lên. Bé Tuyền quay mặt đi và rút vào cổ mẹ nó. “Chúng ta uống hết ly cà phê,
mẹ Tuyền nói, bé nó không sao. Tôi chỉ muốn ôm nó thôi”. Mẹ Luân quay sang
Luân lần nữa và nói: “Con là một đứa con
hư. Thật xấu hổ cho con chỉ biết đánh những
đứa trẻ nhỏ hơn con thôi. Con ngồi lại đây. Ngồi tử tế hoặc mẹ sẽ đánh con bây
giờ”.
Có nhiều vấn đề cần nói đến trong biến cố nầy
nhưng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến vấn đề liên quan tới việc khích lệ mà thôi.
Điều trước tiên là bà mẹ đã cho cậu bé một ấn tượng, một quan niệm không mấy
tốt đẹp về chính nó: “nó là một đứa con
hư”. Mỗi khi chúng ta muốn lưu ý một
đứa bé “hãy trở nên tốt” thì thường
chúng ta bảo nó đừng làm chuyện nầy, đừng làm chuyện kia…như đừng chọc phá,
đừng đánh em bé, toàn là những điều tiêu cực mà rất ít khi chúng ta nhăc nhở
những đứa bé làm những điều tích cực như con hãy chơi vui vẻ, tử tế với em nhé!
Thông thường thì nó không để ý, nhưng khi chúng ta bảo nó đừng làm là chúng ta
nhắc nhở nó làm một cái gì đó không hay. Chính vì thế, chúng ta nên để ý đến
những điều tích cực hơn. Hơn nữa, mỗi lần chúng ta quá lưu ý một đứa trẻ “hãy nên
tốt” là mỗi lần nó cảm thấy: chúng ta thiếu tin tưởng vào ước muốn nên tốt
của nó. Chúng ta thường không phân biệt giữa hành động của đứa bé và chính nó.
Bà mẹ xem Luân như một đứa trẻ xấu. Chính cái quan niệm của bà mẹ về đứa bé đã
làm cho nó có hành động như vậy vì nó không còn tin tưởng vào khả năng của nó
có thể thay đổi cái nhìn của mẹ nó. Như một kết quả của những lời nói hay hành
động thiếu khích lệ, trẻ con luôn nghĩ rằng người ta chỉ có chỗ đứng khi người
ta chứng tỏ cái uy quyền của mình ra. Chúng ta phải nhận ra điều nầy: sở dĩ con
trẻ có những hành vi sai trái, đó là kết quả của những lời nói hay hành động
của chúng ta đã làm cho chúng cảm thấy bất mãn và xuống tinh thần.
Phương cách tốt nhất trong những trường hợp như thế là tránh tất
cả những gì làm đứa bé thêm chán nản, vì những điều đó không có lợi gì cho nó
cả. Hãy tỏ thái độ tin tưởng vào trẻ con có thể chơi chung với nhau mà không
cần phải dặn dò, lo lắng gì cả. Bà mẹ có thể nói: “Mẹ ở đây và con có thể vào chơi với bé Tuyền nếu con muốn”. Một lời khích lệ như vậy cũng đủ rồi. Và
nếu nó chạy ra, người mẹ có thể nói với nó rằng: “Hoặc là con chơi với bé
Tuyền hoặc là con ở bên cạnh mẹ”. Nếu có sự giằng co xảy ra, người mẹ có thể
yên lặng vào phòng nắm lấy tay cậu bé và nói: “Con ơi, sao hôm nay con lộn xộn quá vậy. Vì con không thích chơi nên chúng ta đành phải đi về”. Dĩ nhiên,
điều đó đòi hỏi người mẹ phải hy sinh cuộc thăm viếng. Nhưng với phương cách
đó, người mẹ có thể dạy bảo cho đứa bé biết rằng nó có thể đến với mẹ nữa nếu
nó sẵn sàng thay đổi hành vi của nó. Hoặc là người mẹ có thể để đứa bé ở lại đó
với một người bà con hoặc người láng giềng một lần để nó có thể duyệt xét lại
hành vi của nó.
Thật ra, nếu bà mẹ biết tránh tất cả những hành động xem ra
không phù hợp với sự khích lệ, bà đã hoàn thành trên một nửa điều bà cần làm.
Bà có thể coi bé Luân như một đứa bé dễ thương ngay cả hành vi của nó không
được dễ thương, bà cũng nên cho nó những lời khích lệ mà không nên quá chú
trọng vào hành vi sai lầm của nó. Khi bà mẹ cho nó cái quyền tự do hành xử, bà
mẹ trao cho nó trách nhiệm đối với hành vi của nó và cũng muốn chỉ cho nó thấy
rằng nó phải gánh chịu những hậu quả của những hành động của nó. Khi bà mẹ nói
với nó rằng “Chúng ta sẽ trở lại đây vào
một ngày con cảm thấy sẵn sàng”, bà mẹ biểu lộ niềm tin vào đứa bé sẽ thay
đổi và sẽ trở nên tốt hơn để có thể trở lại đây chơi với cô bé.
Riêng đối với bé Tuyền thì hành động của cả hai bà mẹ xem ra
không mấy thích hợp chỉ vì các bà đã quá quan tâm đến sự việc không may xảy ra
cho nó. Cái đánh nhẹ vào vầng trán của cô bé không làm nó quá đau như phản ứng
tức thời của các bà: vội ôm nó lên và xít xoa vào vết thương của nó. Nó sẽ học
từ kinh nghiệm đó rằng nó không có thể chịu đựng nổi một chút đau đớn và nó
phải được an ủi ngay tức khắc. Sự lệ thuộc vào mẹ nó được cổ võ; như thế sự can
đảm và sự tự chủ của nó sẽ bị tiêu mòn. Nó sẽ dễ có cái quan niệm sai lầm về
chính mình như một đứa bé cần phải lệ thuộc vào người khác để được bảo vệ. Hãy
nhớ rằng cuộc sống của chúng ta thì đầy đau khổ và phiền toái. Và chúng là một
phần của cuộc sống. Nếu con trẻ không học để chịu đựng được những gian khổ đó,
chúng sẽ sống cách bệnh hoạn. Chúng ta không thể bảo vệ con trẻ chúng ta khỏi
những bất trắc trong cuộc sống. Vì thế, cần thiết là chúng ta chuẩn bị cho
chúng ngay từ bây giờ. Cảm thấy tội nghiệp là một trong những thái độ làm tổn
thương nhất mà chúng ta thường ít để ý. Nó tỏ cho chúng thấy rằng chúng ta
thiếu niềm tin vào chúng và vào khả năng có thể đối đầu với những nghịch cảnh
của chúng.
Vì thế, ngoài việc không nên bảo vệ con trẻ một cách quá đáng,
một thái độ quan trọng khác cũng cần được chú ý là: mẹ Tuyền trong những trường
hợp như thế nên giúp bé học cách chấp nhận những đau đớn đó. Điều đó không có
nghĩa là chúng ta không bao giờ xoa dịu các vết thương hay những nỗi đau buồn
của con trẻ. Nếu như thế thì thật là vô tâm. Nhưng cách thế mà chúng ta dùng,
có sự khác biệt, chẳng hạn như chúng ta có thể nói: “Rất tiếc là con đã bị đụng phải, nhưng nó sẽ khỏi ngay. Con cố gắng chịu đựng một chút. Mẹ
biết con can đảm, cưng của mẹ”. Thay vì vội vã bồng bế nó lên ngay, bà mẹ
có thể quan sát và bảo nó vết thương chỉ nhè nhẹ thôi. Bà có thể trấn an nó
rằng:“Không sao đâu con, chỉ một chút bầm
thôi. Không bao lâu nó sẽ hết ngay”. Những cách nói như vậy khích lệ trẻ
con biết chịu đựng hơn. Sau khi đã vỗ về xong, bà mẹ có thể yên lặng giúp bé
Tuyền thu xếp những đồ chơi. Và rồi, không cần chú ý nữa để cho cô bé có khoảng
trống tự nó đối đầu với vấn đề của nó. Bé Tuyền là đứa bị đánh và cũng là đứa
phải khuất phục không những chỉ vết thương mà còn cả bầu khí thân thiện đã bị
đánh mất và ngay cả cảm giác bất an nữa. Nếu bà mẹ cho nó cơ hội và tin tưởng
vào nó, nó sẽ sớm bình phục và sớm khám phá ra sự can đãm của nó cũng như khả
năng có thể chịu đựng được những điều bất trắc đó.
Thùy Hương đang học
thêu. Cô đang tập thêu một
cách chú tâm sung sướng. Với sự hài lòng và hảnh diện, cô giơ chiếc khăn đang
thêu lên để chiêm ngắm công trình tuyệt vời của mình. Đoạn cô đưa đến cho mẹ để
nhờ mẹ chỉ cho cách phải làm thế nào để hoàn tất công trình sắp hoàn thành của
cô.
“Thùy Hương, chỗ nầy
không được, bà mẹ nói. Con nhìn xem. Chỗ nầy con phải làm thế nầy thì nó đẹp
hơn. Cái nầy quá dài, nó xem ra lượm thượm. Tại sao con không lấy nó ra và làm
lại. Nó coi bộ sẽ đẹp hơn”. Nét mặt của Thùy Hương thay đổi, từ phấn khởi thích thú thành
chán chường buồn bã. Cô thở dài và nhếch môi khẽ nói: “Con chả muốn làm gì nữa bây giờ. Con muốn đi ra ngoài mẹ ơi!”
Những lời phê bình của bà mẹ đã làm tiêu tan nỗi sung sướng và
niềm kiêu hãnh của Thùy Hương. Câu nói: “Con
phải làm thế nầy thì nó đẹp hơn”
không phải là một lời khích lệ. Nó ám chỉ công trình đã được làm không tốt đủ,
không đáng để làm mẫu mực. Cái mà Thùy Hương nghĩ là đẹp lại trở thành lượm
thượm đối với mẹ cô. Sự đề nghị nên tháo ra và làm lại là một điều không thể
chấp nhận được đối với cô bé. Đó là một lời hoàn toàn thiếu khích lệ. Vì thế,
cô bé đã bỏ dở công việc đang làm và quay sang làm một công việc khác. Mẹ cô có
thể dễ dàng quan sát được kết quả của lời nói mình khi nhìn thấy nét mặt cũng
như phản ứng của con bà hoàn toàn thay đổi.
Tại sao cứ phải đi tìm những cái bất toàn, những khuyết điểm để
nêu ra khiến người nghe cảm thấy chán nản, xuống tinh thần. Chúng ta có thể
dùng một phương cách khác xem ra hữu ích hơn trong việc chỉ dạy con cái để
khuyến khích chúng tiếp tục công việc một cách thích thú, chẳng hạn như nói: “Cưng ơi, đẹp lắm! Những đường kim của con
rất dễ thương, bà có thể vừa nói vừa chỉ cho cô bé một số đường nét đẹp mà nó đã làm. Khi con hoàn thành tác phẩm nầy chúng ta sẽ treo nó trong nhà tắm”. Như
vậy, người mẹ cùng với con, cả hai cùng thưởng thức tác phẩm ấy và xem đó như
một công trình hữu ích và quí giá.
Khi người mẹ chỉ cho cô bé thấy những đường nét nho nhỏ mà nó đã
hoàn tất một cách tốt đẹp, bà đã khuyến khích cô bé tiếp tục để hoàn thành tác
phẩm với một sự khéo léo tuyệt vời hơn. Chúng ta chỉ có thể gầy dựng trên ưu
điểm chứ không phải trên khuyết điểm. Cần chú ý nhiều hơn đến những đường nét
đẹp của tác phẩm mà cô bé đã cố gắng làm. Nhiều khi bố mẹ cũng cần phải có can
đảm để nói lên những lời khích lệ con cái tiếp tục tiến bước với một kinh
nghiệm mới.
Cu Long 7 tuổi vừa được mẹ cho phép mua một chiếc máy bay mà
nó đã nhìn thấy ở tiệm đồ chơi, trong trung tâm mua bán đồ chơi trẻ con. “Mẹ không thể đưa con đến đó ngay bây giờ
được, chúng ta sẽ đi ngày mai con ơi”,
bà mẹ nói thế. “Con có thể đi bằng xe đạp”, cậu bé nài nĩ.
Nhưng mẹ nó trả lời: “Con không được phép
lên phố bằng xe đạp. Xe nhiều lắm con ơi”. “Con có thể lo cho con mẹ ơi. Nhiều đứa trẻ lên trên đó bằng xe đạp”.
Bà mẹ thoáng nghĩ trong một phút. Bà nghĩ đến hàng loạt xe đạp mà bà thường gặp
đậu ở bên ngoài tiệm đồ chơi. Bà cũng thấy hằng ngày con bà đạp xe đạp đi học
và nó đã làm điều đó rất tốt, nên bà bảo: “Được,
con hãy đi. Hãy mua lấy cái con thích”.
Cậu bé sung sướng vội phóng nhanh ra khỏi nhà. Bà mẹ yên lặng với cảm giác lo
lắng. Bà nghĩ: nó còn quá nhỏ nhưng nó không chịu học bất cứ đứa nào trẻ hơn
nó. Gần một tiếng đồng hồ sau, nó phóng xe về nhà với gói đồ chơi. “Mẹ ơi, xem! Con đã mua nó”. “Cưng ơi, mẹ rất hài lòng, bà mẹ nói với nét mặt tươi
cười, bây giờ thì con có thể tự đi mua đồ cho con. Như vậy không phải là tuyệt
vời sao?”
Bà mẹ bé Long đã cảm thấy lo lắng nhưng bà đã khuất phục được
nỗi lo sợ và đã tỏ cho thấy niềm tin của bà vào khả năng đi xe đạp của cậu bé.
Cậu bé đã đáp lại niềm tin của bà một cách tốt đẹp. Người mẹ đã theo dõi kiến
thức cũng như việc làm của nó. Cuối cùng bà cho phép nó được tự do hơn bằng cách
hứa cho nó nhiều cơ hội để đi mua lấy những món đồ riêng của nó.
Bé Thịnh 5 tuổi, cài nút áo ấm của nó
một cách lệch lạc, nhưng mẹ nó cứ để như vậy một thời gian. Một ngày kia, mẹ nó
nói: “Cưng ơi, mẹ có ý kiến. Tại sao con
không cài nút áo bắt đầu từ nút cuối cùng cài lên, như thế có dễ hơn không?
Với nét mặt tươi vui và bằng phương cách mới, bé Thịnh đã làm theo lời đề nghị
của mẹ và cảm thấy sung sướng khi cài đến hạt nút cuối cùng. Từ sự thành công
của phương cách nầy, bà mẹ đã cố gắng khích lệ nó trong những vấn đề khác.
Chẳng hạn, cậu bé thường treo đồ ngủ trên giá treo quần áo, nhưng vì nó treo
lộn ngược, nên quần áo thường hay rơi xuống sàn nhà. Mẹ nó đề nghị: “Tại sao con không cầm lấy đầu kia và giũ
nhẹ vài cái cho nó thẳng trước khi
con treo vào giá”. Cu Thịnh với lấy chiếc áo rơi và làm y như mẹ nói, đoạn
treo vào giá. Nó không rơi nữa. Cậu bé cười vui vẻ và nói: “Mẹ ơi, nhìn kìa! Nó có kết quả như mẹ dạy!”
Mẹ của bé Thịnh đã tìm ra một phương pháp khuyến khích cậu bé
bằng cách đề nghị với nó rằng: cách thế mà nó đã làm trước đây thì không được
đúng. Bà đã dựa vào tinh thần thám hiểm và sự ước muốn tìm phương cách mới của
nó. Bé Thịnh có thể nhìn thấy được kết quả từ những công việc nó làm. Bà mẹ
không cần phải chỉ ra cho nó. Bà mẹ chỉ mỉm cười và ánh mắt của bà đã nói cho
nó rằng bà muốn chia xẻ sự thích thú về khả năng của nó.
Những điểm trình bày trên đây cho thấy sự quan trọng của việc
khích lệ, nhưng dĩ nhiên chúng ta không thể mong đợi tất cả mọi khích lệ đều
mang lại kết quả. Chẳng hạn như ca tụng là một cách khuyến khích mà chúng ta
thường dùng, nhưng cũng phải được dùng một cách cẩn thận. Nếu không, nó có thể
gây ra những nguy hiểm như chúng ta đã gặp thấy trong một số trường hợp trên
đây. Vì nếu con trẻ coi ca tụng là một phần thưởng thì thiếu nó là một sự sỉ
nhục. Như vậy, nếu nó không được ca tụng trong bất cứ điều gì nó làm, nó sẽ cảm
thấy mình bị thất bại. Một đứa bé như thế, sẽ làm việc với hy vọng chiếm đươc
phần thưởng hơn là làm việc để thõa mãn cho sự khát vọng muốn đóng góp vào lợi
ích chung. Như vậy, sự ca tụng cũng có thể đưa tới một sự thoái chí, vì nó củng
cố cho quan niệm sai lầm của đứa bé là nếu nó không được ca tụng, nó không có
giá trị gì.
Bố mẹ nào cũng yêu thương con cái. Nhưng cách thức mà chúng ta
dùng để biểu lộ tình yêu thì không được thích hợp. Tình yêu bố mẹ dành cho con
cái được biểu lộ cách tốt nhất chính là việc khuyến khích con trẻ biết sống tự
lập. Chúng ta cần bắt đầu hướng dẫn chúng từ lúc mới sinh và giữ mãi suốt thời
kỳ ấu thơ. Việc khích lệ được chứng tỏ bằng cách tin tưởng vào đứa bé ở mỗi
giai đoạn lớn lên của nó. Cần có sự hướng dẫn của chúng ta trong mọi biến cố và
mọi trường hợp trong suốt thời thơ ấu của chúng. Trẻ con cần có sự can đảm, và
chúng ta có bổn phận phải giúp chúng lớn lên và phát triển một cách trọn vẹn và
sung mãn.
Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm lý.
(Trích trong cuốn BÍ QUYẾT GIÁO DỤC CON TRẺ THÀNH CÔNG
của linh mục Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm lý.
Sách đã được phát hành và có bán tại các nhà sách công giáo)
Tác
giả:
Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét