16 CHỮ “ĐẦN” VÀ TINH THẦN 4 “DỐT”
Tổ
tiên người Việt thật thâm thúy và tài tình khi để lại cho con cháu câu nói “cháy nhà ra mặt chuột”. Đem câu răn đe
này áp dụng cho “khúc xương Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 đã mắc
trong họng Việt Nam khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhìn nhận chủ quyền
của Trung Cộng tại Hòang Sa và Trường Sa” thì thấy ngay tại sao Trung Cộng
lại có thể đặt giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào trong vùng biển của Việt Nam mà
không sợ bị trục xuất.
Trước tiên nên biết Tuyên bố chủ quyền 12 hải lý (mỗi hải lý dài 1,852
mét) của Trung Cộng công bố ngày 04/09/1958 đã nói gì về hai quần đào Hòang Sa
và Trường Sa của Việt Nam.
Theo tài liệu của Bộ Ngọai giao Mỹ, điểm quan trọng
nhất của Tuyên bố này quy định ở khỏan số 4 viết: “The principles provided in paragraphs 2) and 3) likewise apply to
Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Tungsha Islands,
and Hsisha Islands, the Chungsha Islands, the Nansha Islands, and all other
islands belonging to China.”
(Tạm dịch: Những nguyên tắc quy định ở đọan 2 và
3 (Chú thích: nói về chủ quyền của Trung Quốc trên đất liền, lãnh hải và các hải
đảo ngòai khơi và vùng phụ cận) được áp dụng cho Đài Loan và các đảo chung
quanh, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa và Tây Sa (Việt Nam gọi là Hòang Sa),
Trung Sa (Bãi Macclesfield mà Trung Cộng có tranh chấp với Phi Luật Tân) và Nam
Sa (Việt Nam gọi là Trường Sa) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.)
Điều này rõ ràng nhà nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa thời Mao Trạch Đông đã sử dụng Bản đồ hình “lưỡi bò” hay còn được gọi là “đường
9 đọan” để xác nhận chủ quyền của họ trên lãnh thổ của nước khác trong khu
vực có tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông.
Bản đồ này nguyên thủy có 11 đọan đứt chiếm gần
hết 3.5 triệu cây số vuông của Biển Đông, vẽ từ năm 1947 nhưng xuất bản tháng 2
năm 1948 bởi Bộ Nội vụ của Chính phủ Quốc dân đảng (Cộng hòa Trung Hoa) của tướng
Tưởng Giới Thạch, khi ấy cai trị Trung Quốc.
Sau khi đánh bại quân Tưởng Giới Thạch để cai trị
Trung Hoa, vào khỏang năm 1953 Chính phủ Cộng sản (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa)
Mao Trạch Đông đã tự động bỏ đi “2 đọan đứt”
tại khu vực Vịnh Bắc Bộ nên bản đồ hình chữ U giống như lưỡi bò chỉ còn lại “9 đọan” cho đến ngày nay.
KHÚC
XƯƠNG PHẠM VĂN ĐỒNG
Như vậy, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng của nhà nước
Cộng sản miền Bắc –Việt nam Dân chủ Cộng Hòa (VNDCCH) - vào ngày 14/9/1958, gửi
Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai để “ghi
nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa”, trong đó
có việc Trung Hoa đã tự ý xác nhận chủ quyền của họ tại Hòang Sa và Trường Sa,
khi ấy đang do Chính phủ miền Nam –Việt Nam Cộng Hòa (VNCH cai qủan thì chẳng
nhẽ ông Đồng chỉ muốn “nói cho đẹp lòng
người phương Bắc” để đội ơn Trung Cộng đã giúp cho đảng Cộng sản Việt Nam
(CSVN) đánh thắng giặc Pháp ở Điện Biên Phủ hay sao?
Nguyên văn Công hàm của ông Phạm Văn Đồng viết:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng
lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên
bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết
định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng
quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời
chào rất trân trọng".
Công
hàm quan trọng và cực kỳ “phản quốc”
này của ông Đồng được viết vào lúc hai quần đảo Hòang Sa và Trương Sa thuộc quyền
cai qủan hợp pháp của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở trong Nam. Nó “nằm ngủ
bình yên” trong hộc tủ của Trung Cộng, ngay cả khi Trung Cộng đánh chiếm
Hòang Sa từ tay quân lực VNCH ngày 19/01/1974.
Trước biến cố Hòang Sa, phía nhà nước VNDCCH không
dám nói một lời nào mà ngược lại trong thâm tâm lãnh đạo chóp bu thời đó, kể cả
Bí thư thứ nhất Đảng Lao Động Việt Nam Lê Duẩn cho đến ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đều “yên tâm hoan hỉ” thấy Hòang Sa
đã được “các đồng chí Trung Quốc giải phóng và qủan lý dùm” trong khi miền Bắc
đang ráo riết tập trung nỗ lực đánh chiếm miền Nam!
Nhưng sau khi Trung Cộng xua quân tràn qua biên
giới đánh vào 6 tỉnh tháng 2/1979 để gọi là “dậy
cho Việt Nam một bài học” rồi sau đó đánh chiếm 8 Đá Ngầm ở Trương Sa năm
1978, quan trọng nhất là bãi Gạc Ma, giết hại 64 lính của Việt Nam và không chịu
nói chuyện “chủ quyền Hòang Sa” với Việt Nam thì lúc đó lãnh đạo
Hà Nội mới mở mắt ra thì qúa muộn mất rồi.
Thêm vào đó, cũng không ai có thể hiểu nổi tại
sao Việt Nam gần Trường Sa hơn Trung Cộng mà Quân đội Việt Nam lại để yên cho
quân lính Trung Cộng bình an chiếm đóng, lập khu nuôi hải sản trên biển và kiến
thiết nhiều đồn bót, lập đài khí tượng, dàn radar quân sự trên một số bãi đá, kể
cả Gạc Ma là vị trí chiến lược nằm chen giữa các bãi đá khác do Việt Nam kiểm
soát.
Vậy phải chăng điều được gọi là “đại cục quan hệ” và “tình đồng chí” giữa “hai nước Cộng sản anh em” đang được Việt
Nam thi hành ở Trường Sa?
Cũng nên biết khi hai nước Việt -Trung nối lại
bang giao năm 1991 sau Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 mà theo nhiều bài
viết từ Việt Nam thì lãnh đạo Việt Nam gồm Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng, chỉ vì nôn
nóng muốn tái lập bang giao với Bắc Kinh mà “đã
bị Chủ tịch Trung Cộng Giang Trạch Dân và
Thủ tướng Lý Bằng” lừa và ép nhiều vấn đề quan trọng.
Trong số các “thỏa
hiệp bí mật” được tiết lộ ra ngoài có việc Trung Cộng “cấm” Việt Nam không được nhắc nhở đến chuyện Hòang Sa và cuộc chiến
biên giới năm 1979, theo lời Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ
CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1987.
Cũng tại Thành Đô, chủ yếu là hai ông Nguyễn Văn
Linh và Đỗ Mười còn đồng ý với Bắc Kinh ép phe kháng chiến chống “Khmer đỏ thân Trung Cộng” phải đồng ý một gải pháp chính trị bất lợi cho họ khiến
nhiều lãnh đạo Cao Miên sau này thù ghét Việt Nam.
Sau khi đã “lôi
Việt Nam vào rọ bang giao có điều kiện” rồi thì Trung Cộng dùng “mồi kinh tế” và “áp lực chính trị” để nắm dạ dầy và cưỡng bách Việt Nam phải “gác tranh chấp để cùng khai thác” với
Trung Cộng ở Biển Đông như chủ trương từ năm 1979 của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình.
Chính
sách này đã được liên tục lập lại bởi các thế hệ lãnh đạo Trung Cộng với chủ
trương “quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển”
của đương kim Tổng Bí thư, Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG MẮC BẪY?
Nhưng trong khi phiá Việt Nam cứ ra rả ngày đêm “tụng kinh” ca tụng phương châm 16 chữ vàng của Bắc Kinh trao cho là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” thì vào ngày 03/05/2014 Tập Cận Bình lại ra tay “giáng cho Việt Nam cú đấm nổ đom đóm mắt” khi họ Tập ra lệnh đặt giàn khoan tìm kiếm dầu khí Hải Dương 981 vào vị trí bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đến 80 hai lý (trên 148 cây số).
Nhưng trong khi phiá Việt Nam cứ ra rả ngày đêm “tụng kinh” ca tụng phương châm 16 chữ vàng của Bắc Kinh trao cho là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” thì vào ngày 03/05/2014 Tập Cận Bình lại ra tay “giáng cho Việt Nam cú đấm nổ đom đóm mắt” khi họ Tập ra lệnh đặt giàn khoan tìm kiếm dầu khí Hải Dương 981 vào vị trí bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đến 80 hai lý (trên 148 cây số).
Phiá Việt Nam chỉ trích Trung Cộng không giữ những
cam kết giữa các cấp cao của hai nước, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ
quyền của Việt Nam và đe dọa an ninh và hòa bình trên Biển Đông và đòi phải rút
giàn khoan HD-981.
Phiá Bắc Kinh phản công mạnh mẽ bằng các biện
pháp dùng cả trăm tầu “bán quân sự”,
kể cả tầu cá bọc sắt có công sức máy gấp 10 lần hơn tầu cá Việt Nam, để phun nước
cực mạnh, dâm húc, đánh chìm, vây hãm và ngăn chận các tấu đánh cá, tầu cảnh
sát biển và tầu kiểm ngư của Việt Nam tham gia chống giàn khoan HD-981.
Sau 1 tháng, Trung Cộng nhất định không rút gìan
khoan mà còn đem tầu chiến, tầu võ trang hỏa tiễn, súng lớn và máy bay trực
thăng, vận tải và phản lực chiến đấu đến đe dọa các tầu Việt Nam. Trung Cộng
còn bảo họ hoạt động hợp pháp trên vùng “biển
của Trung Quốc” và đòi phiá Việt Nam phải ngưng khiêu khích, phá họai công
tác tìm dầu!
Nhưng cho đến nay (tháng 06/2014) CSVN và Trung
Cộng đã thỏa thuận ở cấp cao nhất về Biển Đông như thế nào?
Nổi bật
và quan trọng hơn cả là thỏa hiệp 6 điểm quy định các “Nguyên tắc giải quyết vấn đề
trên biển Việt-Trung” được ký giữa phái đòan hai nước tại Bắc Kinh ngày
11/10/2011, trước sự chứng giám của hai Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng
và Tổng Bí thư-Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Hồ Cẩm Đào.
Tuyến bố hai bên viết
nguyên văn như sau:
“Ngày 11/10, ngay sau các cuộc hội đàm, hội kiến,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào cùng hai Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam và Trung Quốc đã
chứng kiến Lễ ký các văn kiện hợp tác quan trọng giữa hai Đảng, hai Nhà nước.
Trong các văn kiện trên, có văn kiện Thỏa thuận
những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Theo đó, Đoàn đại biểu Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa nhất trí cho rằng, giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển Việt
Nam-Trung Quốc là phù hợp với lợi ích căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân
hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực.
Hai bên nhất trí căn cứ vào những nhận thức
chung mà Lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được trong vấn đề trên biển,
trên cơ sở “Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản
giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” năm 1993, xử lý và giải quyết vấn
đề trên biển tuân theo những nguyên tắc dưới đây:
1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất
phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và
tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải
quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định
trong khu vực.
2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem
xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp
lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất
đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên
tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về
Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều
có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.
3. Trong tiến trình
đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận
và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố
ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung
Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh
chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp
khác.
4. Trong tiến trình
tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển,
trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn
bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng
đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và
bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều
2 của Thỏa thuận này.
5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần
tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát
triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm
như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn
trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường
tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng
đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi
cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập
cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời
trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.”
HẬU QỦA
NHÃN TIỀN
Rõ ràng là Trung Cộng trong thời đại Tập Cận
Bình đã không coi Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng và chính phủ Việt Nam
ra gì. Bắc Kinh đã xóa đi tất cả những cam kết với Việt Nam, trong đó có cả những
cam kết trong năm 2013 giữa hai chủ tịch Nước Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình ở
Bắc Kinh (tháng 06/2013) và giữa hai Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Lý Khắc Cường
ở Hà Nội (tháng 10/2013) về hợp tác ở Biển Đông. Ngỏai ra Trung Cộng cũng không
muốn có cuộc đối thọai giữa Lãnh đạo cao cấp nhất của đôi bên từ khi có cuộc khủng
hòang giàn khoan HD-981.
Vì vậy, trái với các lần nói chuyện sau cánh cửa
giữa đôi bên về tranh chấp ở Biển Đông từ thập niên 1990 đến nay, lần này Trung
Cộng công khai nói đi nói lại nhiều lần về sự nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng
ở Hòang Sa và Trường Sa trong Công hàm 1958 Phạm Văn Đồng.
Dường như Bắc Kinh muốn nói với Thế giới rằng
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 đã “phủ nhận”
tất cả những chứng cớ Hòang Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Trong các cuộc thương thuyết song phương, Trung
Cộng luôn luôn không muốn bàn đến vấn đề ai có chủ quyền ở Hòang Sa. Họ thường
bảo phiá Việt Nam “vấn đề Hòang Sa không
có gì cần bàn cãi nữa.”
Vậy Nhà nước Việt Nam và một số “chuyên viên về Công pháp Quốc tế và Biển Đông” đã phản bác lại lập luận của
Trung Cộng như thế nào ?
Tóm tắt
từ phiá Chính phủ hay ủng hộ quan điểm của CSVN thì cho rằng Công hàm Phạm Văn
Đồng chưa hề bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam ở Hòang Sa và Trường Sa,
không hề nói gì đến vấn đề lãnh thổ. Hơn nữa, Công hàm Phạm Văn Đồng không có “tư cách pháp lý” để thừa nhận chủ quyền
của Trung Cộng tại Hoàng Sa và Trường Sa khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ờ miền Bắc lúc bấy giờ không là “chủ hữu
pháp nhân” của 2 quần đảo lúc đó thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Việt
Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.
Một số Luật gia và chuyên gia khác cũng giải
thích ông Đồng chỉ công nhận quyết định tôn trọng chủ quyền lãnh hải 12 hải lý
của Trung Cộng mà thôi, và Nhà nước Việt Nam bây giờ (Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam) không có trách nhiệm “kế thừa”
lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng.
Phản ảnh quan điểm này, xin trích một số đọan
quan trọng của mạng Thông tin của Chính phủ CSVN viết như sau trong Bản tin
ngày 23/05/2014:
“Trung Quốc
mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng"
về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Song đây là một "vở
diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận Việt Nam đã từng phân
tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện
rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Dưới đây, Báo điện tử Chính phủ xin dẫn lại bài
báo "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam" đăng trên báo Đại Đoàn kết vào tháng 7/2011 trong đó tác giả bài báo phân tích rõ nội dung Công hàm 1958 cũng
như chỉ ra những diễn giải xuyên tạc của Trung Quốc đối với văn bản này:
Ngoài bối
cảnh "phức tạp và cấp bách"
đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển
Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ
đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa
là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và
chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi
trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo
Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả
cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH - Trung Quốc
lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt,
cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến
vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước
hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa
tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông
nên đã "lồng ghép" thêm hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất
phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất
cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa
bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của
VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến
quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng
hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo
thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai
hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc
thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và
nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không
có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên
bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một
văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng
Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận
chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn
toàn không có cơ sở pháp lý….”
Đó là “lập luận” và “diễn giải” Công hàm Phạm Văn Đồng của phiá đảng và nhà nước Việt
Nam. Nhưng ai sẽ trưng ra được “bằng chứng”
đó là “chủ trương, ý nghĩ thầm kín và chủ
tâm” thật sự của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã “cất giấu” trong Công hàm 1958?
Và liệu Trung Cộng có “cứu xét” hay sẽ “bịt tai
không nghe” lối giải thích chủ quan này của Việt Nam?
Cho đến bây giờ, khi xẩy ra vụ giàn khoan HD-981
thì mới thấy Công hàm Phạm Văn Đồng đã để lại những “khó khăn khôn lường” và “cực
kỳ nguy hiểm” cho việc bảo vệ tòan vẹn chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Ngòai hành động “lời nói không đi đôi với việc làm của Trung Cộng đang xẩy ra ở Biển Đông” mà lãnh đạo đảng
và nhà nước CSVN đã biết từ khi có cuộc chiến biên giới 1979 và Trường Sa năm
1988, có ai giải thích được tại sao các lãnh đạo Việt Nam từ thời Tổng Bí thư đảng
Nguyễn Văn Linh (1990) cho đến thời Nguyễn Phú Trọng (2011) còn “lưỡng lự” trong quyết định kiện Trung Cộng
ra trước Tòa án Quốc tế về hành động chiếm đóng bất hợp pháp Hòang Sa và một số
bãi đá ở Trường Sa của Việt Nam ?
Hay vì đã mắc quai bị “cấm nói” đến Hòang Sa như tiết lộ của Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh mà đảng CSVN cũng “im luôn cho xong
chuyện” ở Trường Sa ?
Hoặc là lãnh đạo Việt Nam đã bị “say khướt” sau cuộc rượu với Dương Trạch
Dân ở Thành Đô năm 1990 mà quên rằng:
Sơn thủy
tương liên,
Lý tưởng
tương thông,
Văn hóa
tương đồng,
Vận mệnh tương
quan.
cũng có nghĩa như “16 chữ đần” và “tinh thần 4
dốt” nên Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 mới gây họa cho dân tộc ngày nay ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét