Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

Các phép lạ về Bí Tích Thánh Thể


Các  phép  lạ  về  Bí  Tích  Thánh  Thể
(Thứ năm - 19/06/2014 - tinvui)



 Ðể cho con người tin Mình và Máu Thánh là thịt và máu thật, Chúa làm nhiều phép lạ để chúng ta tin và năng đến với Phép Thánh Thể. Có nhiều phép lạ chứng minh trong Phép Thánh Thể có thật Thịt và Máu Chúa Giêsu. (Theo Jean Carroll Cruz, trong sách Eucharistic Miracles and Eucharistic Phenomena in the Lives of the Saints. Ed. Tan, Rockford, II. 1987, tr. 305, liệt kê có 32 phép lạ. Nhưng theo Jean Ladame et Richard Duvin, trong sách Les Prodioges Eucharistiques. Ed. France-Empire, Paris, 1981, tr. 258, ghi là có 59 phép lạ).

Phép lạ có thể chia làm 6 loại :
(1) Chúa Giêsu hiện ra trong Bánh Thánh, như ở Douai, Ulmes (1668), ở Bordeaux (1822)
(2) Nhờ Mình Thánh Chúa, bệnh nhân được khỏi bệnh một cách lạ lùng: người câm ở La Rochelle (1461), Anne La Fosse (1725) và ở Lộ Ðức.
(3) Nhờ Thánh Thể đã xảy ra nhiều hiện tượng lạ, như: dòng cuồng lưu bị chận đứng (1630), Lửa đang cháy bị dập tắt (1631).
(4) Nhờ Thánh Thể, nhiều tâm hồn được hoán cải: vua Abu Zeyt ở Caravaca (1232), Thánh Antôn, người rối đạo và con lừa, quận công Brunswick (1651).
(5) Thánh Thể giải thoát những hành động phạm thánh (La Haye, Hòa Lan, 1412)
(6) Bánh và rượu trở thành Thịt và Máu Thánh (Bolsene (1263), Lanciano (750)
Dưới đây xin ghi lại một số phép lạ:

1. Mình Thánh hiện hình như một em bé xinh đẹp
Trong tiểu sử thánh Louis IX (1214-1270) vua nước Pháp có ghi: Một linh mục đang làm lễ trong nhà nguyện của hoàng gia. Bỗng cha xuất thần vào lúc truyền phép. Người ta thấy trên tay ngài có một em bé đẹp tuyệt trần. Người ta chạy đi báo cho vua hay. Vua trả lời: ''Ta tin thật Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Ta không cần đến xem. Ta tin Ngài ở trong đó hơn ta thấy Ngài. Do đó Ta không đi xem kẻo mất công phúc đức tin của Ta.'' (LC. số 214, 7-2000, tr. 8)

2. Máu Thánh chảy ướt bàn thờ
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Ðức Giáo Hoàng nghe tin này, bèn ra lệnh đem khăn về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau xây nhà thờ rộng rãi để kính khăn thánh này. Ngày 8-9-1264, Ðức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau tuần 8 ngày của lễ Hiện Xuống. Thánh Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp lễ này: Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te, và các kinh: Sacris Solemniis, Verbum Supernum... dịp lễ này có kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố. (Thiên Hương. NKÐP, số 179, 6-6-1912, tr. 338- 342)

3. Mình Thánh bay thoát khỏi tay ăn trộm
Ðời vua Philippe de Hardi (1362-1404) của nước Pháp, một tên ăn trộm vào nhà thờ Saint Denis, lấy chén thánh đựng Mình Thánh Chúa định đem ra ngoài đồng trút Mình Thánh xuống rồi đem chén thánh đi bán. Nhưng Mình Thánh không rớt xuống mà lại bay chung quanh trên đầu tên ăn trộm. Thấy vậy người ta bắt nó nộp cho quan và báo cho cha sở. Cha Mattheu de Vendôme báo ngay và kêu gọi Ðức Cha, các linh mục tu sỹ đến cầu kinh và hát thánh vịnh. Trước sự chứng kiến của đông người, tự nhiên Mình Thánh từ trên không từ từ hạ xuống tay cha sở họ Saint Gervais. Ngày nay, hằng năm, tại nhà thờ Saint Gervais vẫn hát lễ trọng vào Chúa nhật đầu tháng 9 để kỷ niệm phép lạ này. (Bđd)

4. Mình Thánh chảy máu khi bị xúc phạm
Thời vua Philippe le Bel cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà nghèo mà đạo đức tốt. Bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Ðến gần lễ Phục Sinh bà đến mượn lại chiếc áo đi dự lễ như người ta. Người chủ cho thuê đồng ý trả lại chiếc áo không lấy tiền vốn và lời với điều kiện buộc bà là chịu lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà bắt chước Giuđa bán Chúa Giêsu. Ép buộc nghe lời, bà nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho tên kia. Nó để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Vợ nó cảm động nhưng nó vẫn chai đá, lấy búa và đinh đóng đinh Chúa Giêsu. Máu Chúa tiếp tục chảy lai láng. Nó đem Mình Thánh vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa. Nó lại lấy Mình Thánh bỏ vào chảo nước sôi, nước trong chảo trở ra đỏ như máu và Mình Thánh bay lên cao biến thành hình Chúa Giêsu Chịu Nạn. Khi thấy dân chúng còn kéo nhau đến nhà thờ, thì đứa con của anh Do Thái chạy lại báo cho giáo dân hay là ''ba tôi đã giết Chúa của qúi vị rồi''. Nghe vậy, một bà giả bộ vào nhà nó xin lửa, thì bà thấy mọi sự y như vậy và thấy Ảnh Chuộc Tội còn trên không. Rồi Ảnh này biến thành bánh trắng như trước và đến ngự vào chiếc hộp nhỏ bà đang có đựng trong tay. Bà này đã đem nộp hộp có Mình Thánh cho cha sở Saint Jean en Grève để thờ kính trong nhà thờ cho tới khi chiến tranh tràn tới. Ðức Giám Mục Paris gọi anh Do Thái kia lại khuyên ăn năn trở lại, nhưng nó không chịu, ngài mới trao nộp cho quan. Quan bèn cho thiêu sống. Vợ con và một số bạn bè đã trở lại. Còn khu nhà đó đã phá đi và xây một nhà thờ. (Bđd).

5. Em bé vừa chịu Mình Thánh Chúa không bị cháy
Trước thời Thánh Giáo Hoàng Pio X, trẻ em chưa được rước lễ. Tại Constantinople, thủ đô La Mã cũ, vào thời giám mục Mennas, người ta có thói quen sau thánh lễ nếu còn dư Mình Thánh thì kêu và đem phát cho con nít, hay học trò nhỏ. Có một đứa trẻ Do Thái cũng đến rước Mình Thánh như trẻ khác. Khi em này về nhà, cha mẹ nó hỏi tại sao về trễ. Nó thật thà thưa vì ở lại rước lễ. Cha nó làm nghề nấu chế chai lọ thủy tinh, nghe vậy tức quá bèn bắt nó quăng luôn vào lò đang nấu thủy tinh. Người vợ đi đâu về nhà không hay câu chuyện, và thấy mất con, khóc lóc đi tìm con khắp nơi, suốt ba ngày mà không thấy. Em nhỏ trong lò thấy mẹ khóc thảm thiết, liền trả lời vọng ra là mình đang ở trong lò. Người ta đến cạy mở lò và đem em nhỏ ra. Nó còn sống, khỏe mạnh, tươi cười bước ra khỏi lò. Hỏi nó, nó cho hay có một bà sang trọng vào trong lò đem nước tưới lửa và đem đồ ăn nuôi nó sống. Cả thành đều hay tin này và cho đó là phép lạ. Hai mẹ con kia xin theo đạo. Nhưng người cha chấp nê không chịu hối cải, nên bị hoàng đế Justinien đóng đinh trên thập ác. (Bđd)

6. Tội bất kính với Mình Thánh
Năm 1277, cha xứ ở Maestrich, nước Pays-Bas đem Mình Thánh cho kẻ liệt, đi ngang qua cầu sông Meuse, gặp lũ trẻ đang nô giỡn nhảy múa trên cầu, mà không có đứa nào qùi lạy hay tỏ vẻ cung kính. Khi cha vừa đi qua khỏi cầu, tự nhiên cầu lún xuống sập ngay, làm đông trẻ em trên cầu chết hết. Ðược biết xưa kia, mỗi khi linh mục đem Mình Thánh cho kẻ liệt, thường có vài giáo dân đi theo, như đám rước nhỏ. Ðể ai thấy mà tôn kính.

7. Trong hỏa hoạn Mình Thánh không bị cháy
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney, tại Besancon, ngày lễ Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng bông hoa, đèn nến thật nhiều. Vô ý, đèn cháy lan xuống khăn bàn thờ và cả nhà tạm và bàn thờ, thành đám cháy bùng lên. Trong khi lửa bốc cháy ngùn ngụt, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng, trọn một ngày một đêm, không cần vật gì đỡ cả. Qua ngày thứ ba, người ta làm một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy, và trong khi thánh lễ khác được cử hành, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Giữa bao nhiêu người chứng kiến hát kinh chúc tụng. (Bđd)

8. Bánh rượu trở thành Thịt Máu Thánh
Ðây là phép lạ cổ kính nhất, đã được Tòa Thánh cho xét nghiệm 5 lần, và ngày nay Thánh Tích vẫn còn trưng bày, được rất đông khách hành hương khắp nơi kính viếng.
Trình thuật phép lạ:
Vào năm 750, thế kỷ thứ 8, tại Lanciano, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basilio, nay gọi là tu viện thánh Phanxiô, đức tin lung lay không vững chắc. Ngài giỏi về khoa học, mà dốt về khoa Thiên Chúa học. Càng ngày đan sỹ càng nghi ngờ trong bánh rượu được thánh hiến có thực Mình và Máu Chúa Giêsu không. Cha này liên tục cầu xin Chúa cho mình hết nghi ngờ này. Chúa nhân từ nâng đỡ người con đang bị mây mờ che phủ. Một hôm, trong khi dâng lễ, đan sỹ còn đắm chìm trong sự sai lầm của mình, sau khi đọc lời truyền phép, cha bối rối, bàng hoàng vì phép lạ tỏ tường, cha thấy ngay trước mặt: bánh trở thành Thịt và rượu trở thành Máu. Từ sợ hãi cha đi đến hài lòng về tinh thần tỏ rõ trên đôi mắt và tâm hồn. Với nét mặt vui tươi, mắt ngấn lệ, cha quay nói với giáo dân và những người có mặt: Hỡi những người đang tham dự chung quanh đây thật có phúc. Vì Chúa đã tỏ hiện trong bí tích Cực Thánh và trở nên hữu hình ngay dưới mắt anh em, để phá vỡ sự cứng lòng chai đá của tôi. Xin anh em tiến đến gần mà chiêm ngắm. Chúa đã trở nên gần gũi với chúng ta. Ðây là Thịt và Máu Chúa Giêsu yêu qúi của chúng ta.
Người ta không biết rõ tên linh mục đan sỹ này. Chỉ biết ngài là linh mục thuộc đan viện nhỏ của Thánh Basilio đến Lanciano tỵ nạn, trong làn sóng di cư của các đan sỹ Ðông Phương tới nước Ý, thời vua Leone III L'Isaurico. Thời này, từ năm 726 có phong trào mạnh mẽ đập phá tượng ảnh, chống lại việc tôn kính các ảnh tượng đạo. Phong trào này buộc các đan sỹ phải lưu vong ra ngoại quốc. Dân chúng ở Lanciano dành cho nhóm đan sỹ di cư này nhà thờ nhỏ Thánh Legonziano. Tại đây, trong thánh lễ bằng tiếng Latinh các đan sỹ dùng bánh lớn tròn, khác với bánh hình vuông có men của đan sỹ Hy lạp.'

Bảo tồn thánh tích:
Phép lạ này được ghi chép trên tài liệu viết trên giấy da rất cổ. Nhưng vào đầu thế kỷ 15 bị hai đan sỹ dòng Basilio lấy cắp của dòng Phanxicô. Hiện nay chỉ còn tài liệu năm 1631, ghi trên giấy da bằng tiếng Hy Lạp và Latinh về tất cả chi tiết phép lạ ở Lanciano.
Các đan sỹ Basilio giữ gìn thánh tích qúi giá cho tới năm 1176. Rồi được các đan sỹ Biển Ðức thay thế. Tới năm 1252, dòng Phanxicô nhận bảo quản cho tới ngày nay. Năm 1258, một đền thờ rộng lớn được xây bao trùm nhà thờ nhỏ thánh Legonziano. Và đem đặt thánh tích ở đây. Năm 1809, theo lệnh vua Napoléon I, bãi bỏ các dòng tu, dòng Phanxico phải rời đi và mãi tới năm 1953 mới trở lại sinh hoạt bình thường.
Trước hết Thánh tích được đặt trong một hòm bằng ngà voi và được đặt tại nguyện đường cạnh nhà thờ chính. Năm 1902 được lưu giữ đàng sau bàn thờ ở giữa cung nguyện. Bánh Thánh trở thành Thịt, như ngày nay người ta quan sát, được kính giữ trong hào quang bằng bạc, có kích thước như Mình Thánh lớn vẫn được các linh mục dùng trong Thánh Lễ. Thịt có màu hơi nâu và trở thành hồng nếu quan sát dưới ánh sáng trong. Rượu hóa thành Máu được kính giữ trong chén thánh bằng thủy tinh, họp thành 5 giọt to nhỏ khác nhau. Từ năm 1923, Thịt Thánh được trưng bày trong một hào quang, và những hột máu khô được đựng trong một chén lễ thủy tinh ở dưới chân hào quang. Trước nay, qua thời gian, các Thánh Tích được các tín hữu và khách hành hương rất mực tôn kính. Vào những dịp đặc biệt Thánh Tích được rước qua các đường phố trong thị trấn.

Khảo nghiệm kiểm chứng:
 Ðể đánh tan dư luận và hồ nghi lâu đời trong dân chúng, sau công đồng Trente (1545-1563) Tòa Thánh tỏ ra nhân nhượng hơn đối với những Thánh Tích cổ kính, nên đã 5 lần cho khảo nghiệm Thánh Tích ở Lanciano, và kết như sau:
-  Năm 1574, chứng từ còn ghi lại để trong nhà nguyện bên tay phải gian chính nhà thờ. Sau mấy trăm năm, Thánh Tích được đựng trong hòm sắt: Thịt vẫn còn nguyên vẹn. Máu phân thành 5 phần không đều nhau. Khi thì 5 phần hiệp thành một cục khi thì tách rời ra.
-  Năm 1637, Ðức Tổng Giám Mục Rodriguez cho cân lại máu đã đông từ lâu, trước mặt giới hữu trách và đông người. Ðược thấy trọng lượng 5 cục máu cộng lại cũng bằng từng cục. Trọng lượng 5 cục là 16, 505 grames. Nếu cân riêng từng cục, thì từng cục là: 8 gr, 2,45gr, 2,85 gr, 2,05 gr và 1,15 gr. Cần thêm vào 5 gr bụi máu.
-  Năm 1770 và 1886, có cuộc tranh luận về sự biến thể từ bánh ruợu hóa ra Thánh Thể chất (la transsubstantiation) qua trọng lượng như cân đo ở trên. Chúa muốn chứng tỏ dấu hiệu mới sự hiện diện của Ngài trong Mầu Nhiệm Thánh Thể. Tức là trong mỗi giọt rượu và mẩu bánh được thánh hiến có sự hiện diện thực sự của toàn thể Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu.
-  Năm 1970, sau công đồng Vatican 2 (1962-1965) dòng Phanxico đã được phép của Tòa Thánh quyết định để cho khoa học hiện đại nghiên cứu Thánh Tích và trao công việc cho nhóm giáo sư Odoardo Linoli, thuộc đại học Siena. Ngày 18-11-1970, giáo sư Linoli lấy một phần Thánh Tích phân tích. Phúc trình nghiên cứu được công bố vào tháng 3-1971, xác nhận: Những mảnh thịt màu nâu lấy từ hào quang Mình Thánh thực sự là thịt người, thịt cơ tim với đầy đủ yếu tố như một trái tim thực. Miếng thịt đó có hình dáng như một hốc ở giữa. Ðó là hốc của sự co rút của cơ tim. Chung quanh Thánh Tích có những lỗ nhỏ như có vết đinh thâu qua. Chứng tỏ rằng quả tim bị co lại như tim người chết. Ðược biết ngày xưa, sau khi xảy ra phép lạ, các tu sỹ đã căng và đóng bằng đinh miếng thịt ra trên miếng gỗ, nên thịt phải co lại theo mọi hướng. Cuộc nghiên cứu này còn xác quyết: Máu vàng nâu trong chén Thánh được đóng kín thuộc nhóm AB, và có khoáng chất thường có trong tim người.
 Sau khi nghiên cứu, giáo sư Linoli tuyên bố: Tôi không thể ngờ được trong những điều tôi phân tích đó có những chất hữu cơ cách đây 12 thế kỷ. Khoa học phải đầu hàng đứng trước sự kiện lạ lùng không thể giải thích nổi. Ông đã viết kèm theo hồ sơ phân tích, cho dòng Phanxico một câu ngắn: In principio erat Verbum et Verbum Caro factum est. (Từ đầu đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời đã trở nên Thịt) (LC. Số 214, 7-2000, tr. 8-11).
Khi còn tại thế, Chúa làm phép lạ để làm vinh danh Thiên Chúa. Như Chúa đã nói khi chữa Lazarô sống lại (Ga. 11,4), người mù từ bẩm sinh được khỏi (Ga 9, 2-3). Phép lạ Thánh Thể cũng vậy. Thánh Thể là mầu nhiệm. Chỉ có con mắt đức tin mới cảm nhận được. Hành hương để có dịp chứng kiến phép lạ Thánh Thể là để xin Chúa tăng thêm đức tin với lòng mến yêu. Như Thánh Phêrô chúc ''Tuy không thấy Ngài, anh em vẫn yêu mến. Tuy chưa giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả đức tin, là ơn cứu độ con người.'' (1Pr. 1,8)
Ít nhất một tuần một lần, chúng ta tham dự thánh lễ và chịu MìnhThánh Chúa thật sốt sắng. Ðể Chúa ở mãi với chúng ta, làm của nuôi cả hồn lẫn xác.

9. Không ăn vẫn sống
Thánh Nikolas de Flue có tên gọi thân mật là Bruder Klaus (1417-1487), bổn mạng nước Thụy Sỹ, trước khi qua đời 20 năm, coi như một phép lạ về Phép Thánh Thể. Trong 20 năm, Ngài đã từng sống hạnh phúc trong bậc gia đình với vợ và 10 con, giàu sang và chức quyền. Năm 1467, nghe tiếng Chúa gọi, với sự ưng thuận của vợ con, Ngài từ giã gia đình, bỏ hết mọi sự sống đời ẩn tu, nhiệm nhặt, chay tịnh, ở miền Alsace. Suốt 20 năm không ăn không uống gì cho đến khi qua đời.
Xưa và nay, nghe vậy người ta cho là khó tin?
Thời ấy, hay tin, dân chúng đã đến bao vây hang động Ranft, một tháng, nơi ngài tu trì, xem có ai ra vào tiếp tế gì không. Sau một tháng canh giữ, không thấy gì, người ta mới cho đó không phải là chuyện bịa đặt.
Về Giáo quyền, trước những tin ngược xuôi, đã cử Ðức Cha Thomas, giám mục phụ tá Konstanz, đến tận nơi gặp thánh nhân xem sao. Ðức Cha đem theo bánh rượu để thử nghiệm. Sau khi tìm hiểu về ơn gọi của Nicolas, Ðức Cha hỏi Nicolas: Theo Nicolas, nhân đức nào quan trọng. Nicolas thưa: đức vâng lời. Ðức Cha liền lấy bánh và rượu giấu trong cặp mang theo, bẻ làm 3, đưa cho Nicolas, và bảo: hãy vâng lời, ăn đi. Nicolas cầm một miếng bánh, bẻ làm 3 miếng nhỏ nữa. Lâu ngày không ăn, khó khăn lắm, Nicolas mới ăn hết phần nhỏ bánh và uống chút rượu. Nhưng vừa nuốt khỏi miệng, liền ói ra ngay. Kinh ngạc Ðức cha kính phục Nicolas không ăn không uống mà vẫn sống.
Chuyện lạ được loan ra khắp miền. Cha Oswald Ysner, linh hướng của Nicolas đã làm sáng tỏ sự việc và cho biết: từ đầu, cha đã hướng dẫn Nicolas về việc chay tịnh và xác quyết, mỗi khi sau khi chịu lễ, Nicolas cho biết trong người có sức chịu đựng mầu nhiệm lạ thường, sức mạnh tràn ngập, bùng lên trong người, như ngây ngất khiến mình dư sức chịu đựng không còn muốn ăn uống gì nữa. Sau khi thánh nhân qua đời, người ta thử nghiệm một khúc xương của ngài xem xương đó của một người có bao nhiêu tuổi. Kết quả cho biết khúc xương đó của người từ 40 đến 60 tuổi. Khoa học giảo nghiệm xác định sự biến dưỡng của Nicolas ngưng vào quãng 50 tuổi. Kết quả vừa kể, bổ túc và xác nhận Thánh Nicolas trong 20 năm cuối đời sống nhờ tác động của Phép Thánh Thể.
Năm 1481, Thụy sỹ có sự tranh chấp ranh giới quyền hành, Thánh nhân đã trở về dàn xếp, đem lại hòa bình cho cả nước. Sau đó ngài lại trở về tu xá Ranft, tiếp tục tu sống thêm 6 năm nữa mới qua đời (21-3-1487), có vợ con xung quanh. Cả Thụy sỹ, Tin Lành lẫn Công giáo đều qúi mến, tôn kính.
Ðức Giáo Hoàng Pio XII tôn phong ngài lên bậc hiển thánh ngày 15-5-1947. Và chọn ngày 25-9, làm lễ kính Thánh Nicolas. (Ðiển Ngữ Các Thánh, Lm. Hồng Phúc, tr. 222-223. Báo TTÐM. Số 301,4-2003, tr. 30)


(Thi Chương)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét