Tưởng tượng - Tưởng tượng - Tưởng tượng
(Fri, 06/06/2014 - Trầm Thiên Thu
– thanhlinh.net)
Tưởng tượng là gì? Chắc hẳn ai cũng có thể trả lời ngay rằng đó
là điều KHÔNG CÓ THẬT. Tin điều “không
thật” là “không tưởng” (ảo
tưởng). Tức là còn nguy hiểm hơn “tưởng
tượng”. Tại sao? Tưởng tượng là điều “có
thật” dù đó là “không thật”,
nghĩa là điều “không-thật-có-thật”. Còn ảo tưởng là điều “có-thật-không-thật”.
Nói để bạn “dễ hiểu”,
đó là: Nhưng tưởng tượng cũng đa dạng, vì không phải tưởng thượng nào cũng
giớng nhau. Tưởng tượng là lý thuyết, là giả tạo, là không thật.
Nhưng có những dạng tưởng tượng “thật” và tưởng tượng “giả”. Có nhiều cái GIẢ và THẬT, ngay cả
tiên tri cũng có tiên tri giả – tức là “ngôn
sứ giả”. Kinh Thánh nhắc tới “tiên
tri giả” nhiều lần, còn Kinh Thánh Việt ngữ gọi là “ngôn sứ giả” (Mt 7:15; Mt 24:11; Mt 24:24; Mc 13:22; Lc 6:26; 2 Pr
2:1; 1 Ga 4:1; 1 Ga 4:4-5; Kh 16:13Kh 19:20; Kh 20:10). Cũng vậy, theo Việt
ngữ, “đểu” là giả dối, lọc lừa, mưu mô, láo phét,… Nhưng có hai dạng đểu: Đểu “thật” và đểu “giả”. Gọi là “đểu giả”, nhưng đó lại chính là dạng “đểu thật”.
Và hôm nay, tôi cũng chỉ tưởng tượng, nghĩa là “không thật”. Tuy nhiên, điều tôi tưởng
tượng là có thật. Thật trong “bộ não”
của tôi (thật mà ảo, và ảo mà thật), và cũng có thể “thật” trong cuộc đời bạn. Lý thuyết đó là gì? Rất nhiều lý thuyết,
đây là MỘT (một chứ không hai hoặc ba,…): “Nếu được theo Chúa Giêsu MỘT NGÀY đi rao giảng thì chúng ta... thế nào?”. Vâng, chỉ một ngày thôi!
Kinh Thánh không mô tả một ngày “trung bình” của Chúa Giêsu như thế nào (làm gì, ăn uống hoặc ngủ
nghỉ ra sao), nhưng chắc chắn rất giống chúng ta, vì Ngài là
ThiênChúa-mặc-xác-phàm. Vậy chúng ta cứ tưởng tượng ra một ngày chúng ta cùng
với Chúa Giêsu rảo bước đi khắp nơi và cùng nói chuyện với Đấng Cứu Thế... để
xem sao!
Kinh Thánh nói khá rõ rằng Chúa Giêsu không có nhà cửa
và ít vật sở hữu. Chúa Giêsu đã từng ở ngoài trời vào ban đêm và cầu
nguyện. Các môn đệ cố gắng cầu nguyện mà vẫn ngủ gà ngủ gật. Nhưng Ngài vẫn yêu
thương họ và không bỏ mặc họ. Đại từ “họ”
(chúng nó, they, vous,...) đó là chính chúng ta.
Có một đám đông đang chờ Chúa Giêsu, họ đến từ khắp miền Giu-đê,
từ Giê-ru-sa-lem, và từ miền duyên hải quanh Tia và Xi-đon. Họ đến để nghe Ngài
nói và chữa bệnh. Nhiều người cố gắng chạm vào áo Ngài vì có sức mạnh xuất ra
từ Ngài. Và Ngài đã chữa lành họ.
Nhìn đám đông, Ngài nói với họ về các mối phúc (Mt 5:1-12; Lc
6:20-22), Ngài bảo họ là muối, là men và là ánh sáng cho trần gian (Mt 5:13-16;
Mc 9:50; Lc 14:34-35), đừng giận ghét (Mt 521-26; Lc 12:57-59), chớ ngoại tình
(Mt 5:27-30), đừng ly dị (5:31-32; Mt 19:9; Mc 10:11-12; Lc 16:18), đừng thề
thốt (Mt 5:33-37), không chỉ chớ trả thù (5:38-42; Lc 62:9-30) mà còn phải yêu
kẻ thù (Mt 5:43-48; Lc 6:27-28,32-36). Rất đơn giản, rất phức tạp – thậm chí là
nhiêu khê. Đọc thì dễ, hiểu thì khó, thực hành càng khó hơn.
Yêu thương là gì thì ai cũng biết, nhưng thế nào là yêu thương
thì không phải ai cũng biết. Nghe nhiều, biết nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu.
Đó là một thực-tế-mất-lòng lắm!
Mỗi ngày của Chúa Giêsu có nhiều “chuyện lạ” xảy ra. Chúng ta hãy lấy Phúc Âm theo Thánh sử Luca để
biết “một ngày trung bình” của Chúa
Giêsu...
Có người đầy tớ của viên đại đội trưởng La Mã bị bệnh sắp chết.
Ông nghe nói về Chúa Giêsu nên sai người đến xin Ngài cứu chữa. Chúa Giêsu bảo
chính Ngài đến chữa nhưng viên đại đội trưởng không dám phiền như vậy, vì ông
cảm thấy mình bất xứng. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông: tôi
không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay:
Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ
bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”
(Mt 8:10-12). Rồi Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng: “Ông cứ
về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!” (Mt 8:13). Và ngay giờ đó, người
đầy tớ được khỏi bệnh.
Đám đông tiếp tục theo Ngài, lắng nghe Ngài, và bàn tán rằng
Ngài hứa ban Đấng Mêsia đến cứu dân. Khi Ngài bắt đầu đến cửa ngõ thành phố
Na-in, người ta đang đem chôn con trai của một bà góa. Chúa Giêsu thấy và chạnh
lòng thương, nên nói với người mẹ: “Bà đừng khóc nữa!” (Lc 7:13).
Rồi Ngài nói với tử thi: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi
dậy!” (Lc 7:14). Người chết liều trỗi dậy và bắt đầu nói chuyện.
Ai nấy kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa. Họ nói: “Một vị
ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân
Người” (Lc 7:16). Tin đồn về Đức Giêsu được loan truyền mau chóng tới khắp
cả miền Giuđê và vùng lân cận.
Một người Pha-ri-sêu mời Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà mình.
Khi mọi người đang ăn tiệc, một phụ nữ “có
tiếng” là tội lỗi nghe nói có Chúa Giêsu đến thì cô nàng xách theo bình dầu
thơm đến nhà ông này. Cô nàng quỳ bên chân Chúa Giêsu và khóc nức nở, nước mắt
nàng tưới ướt chân Chúa Giêsu, nàng lấy tóc mình mà lau. Không chỉ vậy, nàng
còn hôn chân Ngài và xức dầu thơm chân Ngài.
Khi người Pha-ri-sêu thấy vậy thì nghĩ bụng: “Nếu quả thật
ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là
thứ người nào: một người tội lỗi!” (Lc 7:39). Chúa Giêsu nghiêm mặt nhìn
ông và nói: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã,
ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi,
rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào
đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn
chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội
của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai
được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7:44-47). Chúa Giêsu nhẹ nhàng nói với
người-phụ-nữ-tội-lỗi: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7:48). Cả
đám thực khách nhao nhao bàn tán: “Ông này là ai mà lại tha được tội?”
(Lc 7:49). Họ có chút gì đó “không
hài lòng”. Và chính chúng ta cũng vẫn thường có động thái như vậy! Nhưng
Chúa Giêsu vẫn thản nhiên nói với phụ nữ kia: “Lòng tin của chị đã cứu
chị. Chị hãy đi bình an!” (Lc 7:50).
Rồi Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Chúng ta sang bên kia hồ
đi!” (Lc 8:22). Thầy trò vui vẻ ra khơi. Đang khi thuyền lướt sóng, Đức
Giêsu thiếp ngủ. Bỗng dưng một trận cuồng phong ập xuống, nước tràn vào thuyền
có nguy cơ chìm. Các môn đệ lại gần đánh thức Thầy dậy và nói: “Thầy
ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” (Lc 8:24). Ngài thức dậy, ngăm đe sóng gió,
sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay. Rồi Ngài trách các ông: “Đức tin
anh em ở đâu?” (Lc 8:25a). Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: “Vậy
người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?” (Lc
8:25b). Lời trách có vẻ “nhẹ” mà “đau điếng” quá chừng! Đó cũng là lời
Ngài trách mỗi chúng ta đấy.
Thầy trò ghé thuyền vào vùng đất của người Ghê-ra-xa, đối diện
với miền Ga-li-lê. Ngài vừa ra khỏi thuyền thì gặp người bị quỷ ám. Người này “trần như nhộng”, không ở trong nhà mà ở
trong khu nghĩa địa. Hắn sấp mình van xin: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên
Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi!” (Lc
8:28). Chúa Giêsu hỏi thì nó bảo nó tên là “Đạo Binh”. Ngài cho chúng nhập vào bầy heo gần đó và lao mình
xuống hồ. Chết sạch! Thấy vậy, thiên hạ kinh hồn bạt vía nên xin Chúa Giêsu đi
nơi khác.
Sau đó, Chúa Giêsu lại chữa khỏi chứng băng huyết cho một phụ nữ
đã phải chịu đựng 12 năm sau khi chị này sờ vào áo của Ngài. Và Ngài nói với
bệnh nhân: “Này chị, lòng tin của chị đã cứu chữa chị. Chị hãy đi bình
an!” (Lc 8:48). Rồi tiếp tục cải tử hoàn sinh con gái của ông Gai-ia. Người
ta bảo con gái ông chết rồi, đừng làm phiền người khác. Nhưng Chúa Giêsu bảo
ông: “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Lc 8:50). Ngài luôn nói tới đức
tin, điều đó chứng tỏ đức tin vô cùng quan trọng trong đời sống, nhất là trong
đời sống tâm linh!
Khi Chúa Giêsu đem các môn đệ đi riêng với mình, lui về thành
Bết-xai-đa. Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ,
nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Chiều tối,
các môn đệ xin Thầy giải tán dân để họ đi tìm thức ăn. Nhưng Chúa Giêsu bảo:“Chính
anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9:13). Coi bộ “căng”
dữ nghen! Dân như kiến, như cỏ, mà chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Bó tay!
Chúa Giêsu dặn các môn đệ bảo dân ngồi theo nhóm, mỗi nhóm
khoảng năm mươi người. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn
ra cho đám đông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn
thừa, người ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9:16-17). Đó là phép lạ hóa bánh
ra nhiều lần thứ nhất.
Cũng hôm ấy, khi Đức Giêsu cầu nguyện một mình, các môn đệ cũng
ở đó với Ngài. Ngài hỏi các ông xem dân chúng nói Ngài là ai. Các ông cho Ngài
biết rằng, người thì bảo Ngài là ông Gioan Tẩy Giả, người thì bảo Ngài là ông
Ê-li-a, có người lại cho Ngài là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.
Ngài hỏi thẳng các ông xem họ bảo Ngài là ai. Ông Phêrô thưa: “Thầy là
Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9:20). Nhưng Ngài nghiêm giọng truyền các ông
không được nói điều ấy với ai, vì giờ của Ngài chưa đến.
Sau đó, Chúa Giêsu mới tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt
16: 21; Mc 8:31; Lc 9:22).
Một ngày của Chúa Giêsu có vẻ khá… bình thường, nhưng lại khác
thường, vì Ngài luôn làm điều thiện. Còn chúng ta học được gì với một ngày bình
thường? Làm những việc bình thường một cách phi thường, đó mới là vấn đề!
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét