Wed, 24/05/2023 - Trầm
Thiên Thu
Đấng Bênh Vực (Paraclete)
là Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba thiên Chúa. Nhiều sự tuôn đổ của Chúa Thánh Thần được
đề cập đến trong sách Công Vụ, trong đó chữa bệnh, nói tiên tri, đuổi quỷ (trừ
tà), và nói tiếng lạ (glossolalia) đặc biệt liên quan hoạt động của Chúa Thánh
Thần. Trong nghệ thuật, Chúa Thánh Thần thường được thể hiện là chim bồ câu.
Các tác giả Kitô giáo đã
thấy trong các tài liệu tham khảo khác nhau về Thánh Thần Thiên Chúa trong Kinh
Thánh của người Do Thái, một sự biết trước giáo lý về Chúa Thánh Thần. Theo tiếng
Do Thái, chữ “ruaḥ” (thường được dịch là “tinh thần”) thường được tìm thấy
trong các văn bản đề cập hoạt động tự do và không bị cản trở của Thiên Chúa,
trong việc tạo ra hoặc hồi sinh thụ tạo, đặc biệt là liên quan lời tiên tri hoặc
sự mong đợi Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, không có niềm tin rõ ràng vào một Đấng
thiêng liêng riêng biệt trong Kinh Thánh Do Thái giáo. Thật vậy, chính Tân Ước
cũng không rõ ràng về vấn đề này. Một gợi ý về niềm tin như vậy là lời hứa về một
Đấng Phù Trợ hoặc Đấng Bảo Trợ, được tìm thấy trong Phúc Âm Gioan. Ngày Lễ Ngũ
Tuần, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ và các môn đệ khác, (Cv 2) được
coi là sự hoàn thành lời hứa đó.
Định nghĩa rằng Chúa
Thánh Thần là một Ngôi Vị Thiên Chúa riêng biệt, đồng bản thể với Chúa Cha và
Chúa Con, không phụ thuộc vào các Ngôi, đã được đưa ra tại Công Đồng Constantinople
năm 381 sau công nguyên, sau những thách thức đối với thần tính. Các Giáo hội
Đông phương và Tây phương kể từ đó đã coi Chúa Thánh Thần là mối dây liên kết,
sự thông công hoặc tình bác ái hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con; họ tuyệt đối
hiệp nhất trong Thần Khí. Mối quan hệ của Chúa Thánh Thần với các Ngôi khác
trong Chúa Ba Ngôi đã được mô tả ở Tây phương là nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa
Con, trong khi ở Đông phương cho đó là từ Chúa Cha qua Chúa Con.
Hầu hết các tín nhân Công
giáo và Chính Thống đã trải nghiệm Chúa Thánh Thần nhiều hơn trong đời sống bí
tích của Giáo hội hơn là trong cách suy đoán như vậy. Từ thời các tông đồ, nghi
thức rửa tội là Ba Ngôi (Tôi rửa bạn nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần). Bí tích Thêm Sức (confirmation – trong Giáo Giáo hội Chính thống Đông
phương là chrismation), mặc dù không được những người Tin Lành chấp nhận như một
bí tích, nhưng đã được liên kết chặt chẽ với vai trò của Chúa Thánh Thần trong
Giáo hội. Giáo hội Chính thống giáo Đông phương đã nhấn mạnh vai trò của Thần
Khí giáng xuống giáo đoàn thờ phượng và trên bánh rượu Thánh Thể trong lời cầu
nguyện thánh hóa, gọi là epiclesis.
Từ những thế kỷ đầu tiên
của Kitô giáo, nhiều nhóm khác nhau không hài lòng với việc thiếu tự do, thiếu
bác ái tích cực hoặc thiếu sức sống trong Giáo hội, nên họ đã kêu gọi một sự nhạy
cảm hơn đối với sự tuôn đổ liên tục của Chúa Thánh Thần. Trong số các phong
trào như vậy có các phong trào Thánh Thiện và Ngũ Tuần của thế kỷ 19 và 20. Việc
“đầy dẫy” Chúa Thánh Thần được coi là hệ quả tất yếu của sự cứu rỗi người ta.
Cuộc ly giáo Đông-Tây,
còn được gọi là cuộc ly giáo năm 1054, sự kiện này dẫn đến sự chia rẽ cuối cùng
giữa các Giáo hội Đông phương (người lãnh đạo Constantinople là giáo chủ
Michael Cerularius) và Giáo hội Tây phương (người lãnh đạo là giáo hoàng Leo
IX). Việc giáo hoàng và giáo chủ rút phép thông công lẫn nhau vào năm 1054 đã
trở thành một bước ngoặt trong lịch sử Giáo hội. Các vạ tuyệt thông không được
gỡ bỏ cho đến năm 1965, khi Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Athenagoras I,
sau cuộc gặp lịch sử tại Giêrusalem năm 1964, đã chủ sự các nghi lễ và thu hồi
các vạ tuyệt thông.
Mối quan hệ của Giáo hội
Byzantine với người Rôma có thể được mô tả là mối quan hệ ngày càng xa cách từ
thế kỷ 5 đến thế kỷ 11. Trong Giáo hội thời sơ khai, có ba giám mục nổi bật, chủ
yếu là từ những người có địa vị chính trị ở các thành phố mà họ cai trị – các
giám mục của Rôma là Alexandria và Antioch. Việc chuyển trụ sở của đế chế từ
Rôma tới Constantinople và sự ngăn chặn sau đó của Alexandria và Antioch là cuộc
tranh luận của Hồi giáo và Kitô giáo đã thúc đẩy tầm quan trọng của
Constantinople. Đồng thời, sự điềm tĩnh về thần học của Tây phương, trái ngược
với những tranh chấp thần học bạo lực thường xuyên gây rắc rối cho các giáo chủ
Đông phương, đã củng cố vị trí của các giáo hoàng Rôma, những người càng ngày
càng đưa ra các lời tuyên bố vượt trội. Nhưng tính ưu việt này, đúng hơn là ý
tưởng của Rôma về những gì liên quan, chưa bao giờ được thừa nhận ở Đông phương.
Áp đặt nó lên các giáo chủ Đông phương là chuẩn bị cho sự chia rẽ, nhấn mạnh
vào nó trong những lúc cáu kỉnh là nguyên nhân gây ly giáo.
Đặc tính thần học Đông
phương khác với thần học Tây phương. Thần học Đông phương bắt nguồn từ triết học
Hy Lạp, trong khi phần lớn thần học Tây phương dựa trên pháp luật Rôma. Điều
này dẫn đến sự hiểu lầm, cuối cùng dẫn đến hai cách nhìn và định nghĩa rất khác
nhau về một giáo lý quan trọng – sự nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa
Cha hoặc từ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Không tham khảo ý kiến của Đông
phương, Giáo hội Công giáo Rôma đã thêm “và từ Chúa Con” (Filioque) vào Tín Điều
Nicê. Ngoài ra, các Giáo hội Đông phương phẫn nộ với việc Rôma thực thi luật độc
thân của giáo sĩ, dành quyền ban Bí tích Thêm Sức cho giám mục và sử dụng bánh
không men trong Bí tích Thánh Thể.
Sự ghen tị và lợi ích
chính trị đã làm gia tăng tranh chấp, và cuối cùng, sau nhiều điềm báo trước, sự
đổ vỡ cuối cùng xảy ra vào năm 1054, khi ĐGH Leo IX ra vạ tuyệt thông cho
Michael Cerularius cùng những người theo ông, và vị giáo chủ đã trả đũa bằng một
vạ tuyệt thông tương tự. Trước đây đã có những lần ra vạ tuyệt thông lẫn nhau,
nhưng chúng không dẫn đến sự ly giáo vĩnh viễn. Vào thời điểm đó, dường như có
khả năng hòa giải, nhưng rạn nứt ngày càng rộng hơn; đặc biệt là người Hy Lạp
đã bị phản đối gay gắt bởi các sự kiện như việc người Latinh chiếm
Constantinople năm 1204. Những lời cầu xin đoàn tụ của Tây phương (theo thuật
ngữ Tây phương), chẳng hạn những lời cầu xin tại Công Đồng Lyon II (1274) và
Công Đồng Ferrara-Florence (1439), đã bị người Byzantine từ chối.
Sự ly giáo chưa bao giờ
được hàn gắn, mặc dù mối quan hệ giữa các Giáo hội đã được cải thiện sau Công Đồng
Vatican II (1962-1965), công nhận giá trị của các bí tích trong các Giáo hội
Đông phương. Năm 1979, Ủy ban Quốc tế Chung về Đối thoại Thần học giữa Công
giáo và Chính Thống đã được Tòa Thánh và 14 Giáo hội độc lập thành lập để thúc
đẩy hơn nữa về đại kết. Đối thoại và mối quan hệ được cải thiện đã tiếp tục vào
đầu thế kỷ 21.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét