Đời cát bụi
(Thu, 05/02/2015 -Trầm Thiên Thu-Thanhlinh.net
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi
về làm cát bụi…” (Cát Bụi – Trịnh Công Sơn).
Mùa Chay bắt đầu từ
Thứ Tư Lễ Tro bằng nghi thức xức tro, nhắc nhở thân xác phàm nhân chỉ là cát
bụi. Tuy không bắt buộc theo truyền thống, nhưng đó là ngày thánh, không tới
nhà thờ để được xức tro thì những người có tâm hồn đạo đức sẽ cảm thấy áy náy,
cảm thấy có lỗi với Chúa. Ngay cả những người không thường xuyên tới nhà thờ
cũng cố gắng bắt đầu thể hiện mùa Chay bằng việc chịu tro. Tây phương xức tro
bằng cách vẽ hình Thánh giá trên trán, còn Việt Nam thường bỏ một ít tro trên
đầu.
Xức tro để nhớ lại
thân phận mình chỉ là bụi cát: Được hóa thân từ bụi cát rồi sẽ trở về bụi tro.
Nói thẳng ra là CHẾT. Điều đó nhắc nhở người ta phải không ngừng canh tân cách
sống sao cho càng ngày càng tốt hơn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại là Thứ Ba
trước Lễ Tro thường được gọi là Thứ Ba Béo (Fat Tuesday, Mardi Gras).
Tro trong Kinh thánh
Thói quen dùng tro
trong nghi lễ tôn giáo bị mai một từ giữa thời tiền sử, nhưng chúng ta vẫn thấy
trong truyền thống tôn giáo thời Cựu ước. Chẳng hạn, tiên tri Giêrêmia kêu gọi
sám hối thế này:“Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên
tro bụi” (Gr 6:26).
Mặt khác, tiên tri
Isaia lại phê bình cách dùng vải thô và tro để cầu xin Thiên Chúa, ông chỉ ra
rằng việc này phổ biến trong dân Ítraen: “Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng
trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau,
nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày
các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?” (Is 58:5).
Tiên tri Đanien xin
Chúa cứu dân Ítraen, và nêu gương cho họ thế này: “Tôi
ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là
Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”(Đn 9:3).
Có thể các ví dụ điển
hình về ăn chay trong Cựu ước liên quan vải thô và tro. Khi tiên tri Giôna vâng
lệnh Chúa đến rao giảng trong thành phố lớn Ninivê, cách giảng của ông đã hiệu
quả, lời kêu gọi ăn chay và sám hối tới tận tai nhà vua: “Tin báo đến
cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi
trên tro” (Gn 3:6).
Trong sách Giuđitha,
chúng ta thấy việc ăn chay xác định rằng tro được xức trên đầu: “Hết mọi người nam trong dân Ítraen cùng với vợ con cư ngụ ở
Giêrusalem đều phủ phục trước Đền Thờ, rắc tro lên đầu, mặc áo vải thô ra trước
nhan Đức Chúa” (Gđt 4:11; x.
Gđt 4:15 và 9:1).
Thời Tân ước, nhóm
người đấu tranh giành độc lập cho Do Thái cũng đã chuẩn bị cuộc chiến bằng cách
dùng tro: “Ngày hôm ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và
xé áo mình ra” (1 Mcb 3:47; x. Mcb 4:39).
Trong Tân ước, Chúa
Giêsu nhắc đến việc dùng vải thô và tro là dấu hiệu của sự sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi
Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các
ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, họ đã mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu tỏ
lòng sám hối” (Mt 11:21; Lc 10:13).
Tro trong lịch sử Giáo hội
Dù các ám chỉ này có
trong Kinh thánh, việc dùng tro trong Giáo hội chỉ còn lại ít tài liệu hồi thế
kỷ I trong lịch lịch sử Giáo hội. Thomas Talley, chuyên gia về lịch sử phụng
vụ, nói rằng phụng vụ ban đầu có thể xác định niên đại về Thứ Tư Lễ Tro cho thấy
việc rắc tro có từ năm 960. Trước đó, tro được dùng làm dấu hiệu của sự chấp
nhận đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XVI, nghi lễ dùng cách vẽ hình
Thánh giá bằng tro trên trán khi chấp nhận một người bệnh nặng đối với nghi
thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XI, Viện phụ Aelfric ghi chú rằng đó là thói quen
đối với các tín hữu tham dự nghi lễ ngày Thứ Tư khởi đầu mùa Chay, bao gồm việc
xức tro. Gần cuối thế kỷ XI, ĐGH Urbanô II kêu gọi dùng tro trong ngày này. Sau
đó, ngày này mới được gọi là Thứ Tư Lễ Tro.
Đầu tiên, giáo sĩ và
đàn ông được xức tro trên đầu, còn phụ nữ được vẽ dấu Thánh Giá bằng tro trên
trán. Nhưng rồi cách vẽ Thánh giá bằng tro trên trán được áp dụng cho cả nam và
nữ.
Thế kỷ XII, luật nói
rằng tro được tạo ra bằng cách đốt những cành lá đã làm phép từ Lễ Lá năm
trước. Ngày nay, nhiều giáo xứ kêu gọi giáo dân đưa lá được làm phép năm trước
đến nhà thờ để làm nghi lễ đốt lá sau thánh lễ.
Nghi
thức Sám hối
Có vẻ như việc dùng
trong đầu mùa Chay là cách mở rộng việc dùng tro khi bước vào nghi thức sám
hối. Quy luật này là cách mà Bí tích Hòa giải được cử hành qua hầu hết thế kỷ I
của Giáo hội. Những người phạm tội trọng xưng tội với giám mục hoặc vị đại diện
giám mục và được giao việc đền tội sẽ thực hành qua một thời gian. Sau khi đền tội
xong, họ được giám mục giao hòa bằng lời tha tội trước cộng đoàn.
Khi làm việc đền tội,
hối nhân thường có một chỗ riêng trong nhà thờ và mặc trang phục đặc biệt để
cho biết tình trạng của mình. Như các tân tòng chuẩn bị lãnh Bí tích Thánh tẩy,
họ thường ra khỏi cộng đoàn sau phần phụng vụ Lời Chúa.
Đây là toàn bộ quá
trình được làm mẫu trên hành trình trở lại của tân tòng, vì Giáo hội thấy việc
phạm tội trọng sau khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy là chưa thực sự trở lại. Đền
tội là cố gắng thứ nhì để nuôi dưỡng sự trở lại. Các giáo phụ thời kỳ đầu của
Giáo hội còn gọi việc đền tội là “Bí tích
Thánh tẩy đệ nhị”.
Mùa Chay được phát
triển trong Giáo hội là toàn thể cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay cho các tân
tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Lúc đó, cả cộng đoàn đã lãnh nhận Bí
tích Thánh tẩy cùng chuẩn bị tái tuyên hứa lời hứa rửa tội trong đại lễ Phục
sinh. Như vậy, mọi người cùng các tân tòng đào sâu sự trở lại của mình. Đó là
điều tự nhiên mà nghi thức sám hối tập trung vào mùa Chay, với sự hòa giải
thường được cử hành vào Thứ Năm Tuần Thánh để việc tái hòa giải có thể chia sẻ
trong các phụng vụ của Tam Nhật Thánh (Triduum). Mùa Chay là mùa tập trung vào
Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải.
Thay đổi cách hiểu mùa
Chay
Viếc tiếp nhận
tân tòng dần dần biến mất khiến cách hiểu của người ta về mùa Chay cũng thay
đổi. Thời Trung cổ, việc nhấn mạnh không còn rõ ràng về Bí tích Thánh tẩy. Thay
vì thế, việc nhấn mạnh chính chú trọng vào cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức
Kitô. Nghệ thuật Trung cổ phản ánh sự tập trung gia tăng này vào Đấng Cứu Thế
Đau Khổ, cho nên lòng sùng kính phổ biến cũng vậy. Mùa Chay được coi là thời
gian nhận biết tội lỗi mình đã khiến Đức Kitô phải đau khổ và chết thê thảm.
Đền tội được coi là cách tránh hình phạt vì tội hơn là cách tái thề hứa lời hứa
rửa tội.
Việc biến mất nghi
thức sám hối dần dần, việc dùng tro trở thành phần thêm vào văn bản gốc. Sự tập
trung vào việc đền tội riêng và Bí tích Hòa giải vẫn tiếp tục trong Mùa Chay,
nhưng sự liên kết với Bí tích Thánh tẩy không còn rõ ràng với đa số chúng ta
nữa. Điều này phản ánh trong công thức kết hợp với việc xức tro: “Hãy nhớ mình chỉ là cát
bụi và sẽ trở về bụi tro”.
Câu này tập trung vào sự chết của chúng ta, là cách nghiêm túc khích lệ đền
tội, nhưng có chút gợi ý ở đây về ý nghĩa rửa tội nào đó. Cách nhấn mạnh vào sự
chết hợp với kinh nghiệm sống thời Trung cổ, khi sự đe dọa của cái chết luôn
chực chờ. Nhiều người chết còn rất trẻ, và sự tàn phá xã hội của bệnh dịch đã
khiến tử vong rất dễ.
Thứ Tư lễ Tro sau Công
đồng Vatican II
Công đồng Vatican II
(1962-1965) đã kêu gọi đổi mới Mùa Chay, phục hồi đặc tính cũ liên quan Bí tích
Thánh tẩy. Sự phục hồi này rất tiến bộ nhờ giữ lại cách tiếp nhận tân tòng được
ủy thác của Nghi lễ Khai tâm Kitô giáo cho Người lớn (Rite of Christian
Initiation of Adults) năm 1972. Khi người Công giáo gia tăng tương tác với các
tân tòng trong giai đoạn cuối của việc họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy,
họ bắt đầu hiểu Mùa Chay là mùa chuẩn bị rửa tội và tái thề hứa lời hứa rửa tội.
Vì Thứ Tư Lễ Tro đánh
dấu khởi đầu Mùa Chay, tự nhiên cũng là khởi đầu khôi phục sự tập trung vào Bí
tích Thánh tẩy. Một gợi ý là công thức thứ nhì được đưa ra cho việc xức tro: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Dù điều này không
minh nhiên nói tới Bí tích Thánh tẩy, nhưng vẫn nhắc nhớ chúng ta về lời hứa
rửa tội là xa tránh tội lỗi và tuyên xưng đức tin. Rõ ràng kêu gọi chúng ta xa
tránh tội lỗi, trở về với Chúa, người mà chúng ta phải ấp ủ cả đời mình.
Khởi đầu Mùa Chay, Thứ
Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta bắt đầu hành trình trở về, đánh dấu Mùa Sám Hối. Khi
các tân tòng bước vào giai đoạn cuối của việc chuẩn bị cho các Bí tích mùa Phục
sinh, tất cả chúng ta cũng được mời gọi đồng hành với họ để chúng ta cũng chuẩn
bị tái thề hứa lời hứa rửa tội trong đêm vọng phục sinh.
Các bài đọc trong lễ
Tro
Các bài đọc
trong Thứ Tư Lễ Tro làm nổi bật lời mời gọi trở về. Bài đọc I trích từ sách
Giôen, kêu gọi chúng ta trở về với Chúa “bằng
việc ăn chay, than khóc và thống
thiết than van”. Tiên tri Giôen nhắc nhớ chúng ta rằng “Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, đó
là mời gọi chúng ta tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa khi chúng ta cố gắng
canh tân đời sống. Cần lưu ý rằng tiên tri Giôen không chỉ kêu gọi trở về cá
nhân. Ông kêu gọi toàn thể mọi người, nên ông nói: “Hãy thổi kèn ở Sion, công bố ăn chay, kêu gọi nhóm họp; quy tụ mọi
người, chú ý giáo đoàn; nhóm họp người lớn, con cái và trẻ em còn bú”. Khi
chúng ta bước vào mùa canh tân, chúng ta kết hiệp với cả dân Chúa, vì tất
cả chúng ta đều chia sẻ nhu cầu trở về liên tục và chúng ta
được kêu gọi nâng đỡ nhau trong suốt hành trình này. Bắt chước những người
tham dự Nghi thức Sám hối trong quá khứ, chúng ta cùng trở thành cộng đoàn sám
hối khi tìm cách tiếp cận Thiên Chúa qua việc đền tội và canh tân đời sống.
Với cách nói khác
nhưng không kém phần cấp bách, thánh Phaolô xin chúng ta “giao hòa với Thiên Chúa, vì đây là thời thuận tiện và là ngày cứu độ”. Thời điểm trở về với Chúa là
lúc này, Mùa Chay Thánh này, chính ngày này.
Phúc âm Lễ Tro cho
chúng ta lời khuyên tốt về cách chúng ta hành động trong Mùa Chay. Chúa Giêsu
nói về 3 quy tắc chính của Mùa Chay: Bác ái, cầu nguyện và trai tịnh. Các hoạt động tâm
linh này, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, được làm dù không ai biết, và cũng
đừng cho ai biết, chỉ có Chúa biết, kẻo vô ích (x. Mt 6:1-17). Điều quan trọng
không phải là chúng ta chỉ nên cầu nguyện một mình mà không cầu nguyện chung
với cộng đoàn, mà là chúng ta chỉ nên cầu nguyện không phải để người ta
thấy mình đạo đức hoặc thánh thiện. Việc ăn chay và bác ái cũng vậy, không
cần phải giấu giếm mà nên làm vì kính mến Chúa và yêu thương tha nhân,
chứ không để người ta biết mà khen mình.
Có điều mỉa mai là
chúng ta sử dụng đoạn Phúc âm này, khuyên chúng ta rửa mặt và không làm ra vẻ
ăn chay, với vẻ chỉ loanh quanh với việc xức tro là xong. Đây chỉ là cách Chúa
Giêsu bảo chúng ta đừng làm những hành động mang tính tôn giáo chỉ muốn khoe
khoang cho người khác biết. Chúng ta đừng xức tro để tỏ ra mình thánh
thiện, mà phải biết rằng chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn cần
phải sám hối, đền tội và canh tân.
Từ tro tới giếng rửa tội
Lời mời gọi liên tục
sám hối phản ánh trong các bài đọc cũng là sứ điệp của TRO. Chúng ta sống Mùa
Chay từ tro tới giếng rửa tội. Chúng ta xức tro vào Thứ Tư Lễ Tro và rửa sạch
bằng nước của giếng rửa tội. Sâu xa hơn, chúng ta phải chết cho tội và xác thịt
từ đầu Mùa Chay để có thể sống trọn vẹn hơn trong Đấng Phục Sinh trong ngày đại
lễ Phục sinh.
Khi xức tro, chúng ta
nhớ mình là gì. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là thụ tạo bởi bụi đất: “Hãy nhớ mình là bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta là những thụ tạo sẽ chết và “sẽ trở về bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những lữ
khách trên hành trình trở về: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta là chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô: Xức tro để công bố mình đồng nhất
với người khác.
Canh tân mình trước
mặt Chúa là điểm cốt lõi của việc thực hành Mùa Chay. Rất dễ quên, vì thế chúng
ta thường “lăn vào vết xe cũ” của
thói quen phạm tội, cách nghĩ và cách sống trái ngược với Ý Chúa. Chúng ta cũng
như dân thành Ninivê trong chuyện kể của tiên tri Giôna. Chính sự “đồi bại” của họ khiến Chúa phải sai
Giôna tới rao giảng cho họ. Tiên tri Giôna muốn tránh né sứ vụ đó và bị chìm
sâu trong nước. Được cá cứu, cuối cùng tiên tri Giôna mới làm theo Ý Chúa và
bắt đầu rao giảng trong khắp thành Ninivê. Lời giảng của ông lọt vào tai và
lòng của dân thành, họ làm theo và đã được cứu.
Từ đầu Mùa Chay, Lời
Chúa kêu gọi chúng ta trở về. Nếu chúng ta biết mở tai và mở lòng đón nhận Lời
Chúa, chúng ta cũng sẽ như dân thành Ninivê cố gắng từ bỏ tội lỗi và thành tâm
trở về với Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ được tha thứ và được cứu độ. Rất đơn
giản, thời điểm đó bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro!
Nghi thức xức tro là
nghi thức long trọng, là dấu hiệu khởi đầu Mùa Chay Thánh. Nghi thức rất đặc
biệt, không có động thái phụng vụ như những ngày khác trong suốt năm phụng vụ.
Tro được tạo ra từ
việc đốt các lá đã làm phép của Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Tro được làm phép
trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro, sau bài giảng. Mọi người lần lượt lên chịu tro,
thừa tác viên vừa xức tro vừa đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1:15), hoặc: “Hãy
nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19). Tro là biểu tượng của
2 thứ chính trong Cựu ước.
Sự
chết và sám hối
Tro tương đương với
cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên
Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở
nên một sinh vật” (St 2:7), và khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất
cát hoặc bụi tro.
Tổ phụ Abraham đã thưa
với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18:27), ám chỉ
cái chết của nhân loại. Còn tiên tri Giêrêmia mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (Gr
31:40).
Tro là điềm gở, và
chúng ta dùng tro vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ về cái chết chắc chắn sẽ
đến với chúng ta. Cái chết có thể đến sớm, cũng có thể đến chậm, nhưng chắc
chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết đến, chúng ta cần chuẩn bị, và thời gian chuẩn bị
là ngay từ bây giờ, còn cách chuẩn bị là sống theo phương cách của Chúa.
Tiên tri Đanien đã
khúm núm lúc mặc áo vải thô và xức tro, đó là dấu hiệu ăn năn vì đã phản
nghịch, bội bạc và trụy lạc: “Tôi
ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là
Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn
9:3).
Khi Giôna cảnh báo dân
thành Ninivê rằng Thiên Chúa sắp hủy diệt thành phố vì sự suy đồi và sự trụy
lạc của họ, dân thành đã vội mặc áo vải thô và xức tro để tỏ ra xa tránh lối
sống sa đọa: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo
choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy
họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ
giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:6 và 10).
Tro là lời khẩn thiết cầu xin Chúa ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn
tha thứ.
Hơn nữa, đó còn là
cách công nhận tội lỗi mình, lá cách bày tỏ sự buồn rầu vì tội lỗi đã trót
phạm, là lời hứa canh tân và quyết tâm chống lại chước cám dỗ trong tương lai.
Chúng ta đều là những
tội nhân. Khi chúng ta chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta xin lỗi Chúa
về tội lỗi mình, và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa sai, để thanh tẩy tâm
hồn, để kiểm soát ước muốn và tiến bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó chúng ta sẽ
chuẩn bị mừng lễ Phục sinh.
Sống tinh thần Lễ Tro
Thiên Chúa là Đấng chí
thánh, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đã ban sự sống và mọi thứ cho chúng ta.
Trong đời sống, áp lực của công việc và trách nhiệm thường khiến chúng ta quên
sám hối, đền tội và yêu thương. Chúng ta sa ngã và không sống đúng bổn phận của
mình, không thể hiện niềm tín thác vào Con Thiên Chúa.
Mùa Chay Thánh giúp
chúng ta chấn chỉnh những gì sai sót, giúp chúng ta đền tội và canh tân đời
sống bằng ân sủng của Chúa, giúp chúng ta nhớ mình chỉ là tội nhân, đặc biệt là
giúp chúng ta nhớ đến Lòng Chúa Thương Xót vô biên.
Khởi hành từ Thứ Tư Lễ
Tro, mong sao tro có thể nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Con Thiên
Chúa. Ước mong sự thờ phượng, lời cầu nguyện và việc đền tội của chúng ta có
thể kiên trì bền vững trong suốt 40 ngày Mùa Chay.
Nguyện xin Chúa giúp
chúng ta thực sự canh tân để có thể hân hoan mừng với sự phục sinh của Chúa
Giêsu Kitô trong đại lễ Phục sinh. Chúng ta hãy đồng hành cùng Chúa để có thể
thanh thản bước vào Mùa Chay Thánh…
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ
AmericanCatholic.org và TheCatholicSpirit.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét