MUA
GIANG SINH, XIN DOC.
"THẦN BÒ - BOUL"
Tượng Chúa Hài Ðồng Ban Nhiều Ơn Lạ
Ðể chuẩn bị cho cuộc thăm viếng Thái Lan của bà
Rosalynn Carter, - phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, - vào đầu tháng 11 năm 1979, Bộ
Ngoại Giao và An Ninh Mỹ đã phải âm thầm hoạt động trước nhiều tháng trời.
Mục tiêu của cuộc viếng thăm này là bà Rosalynn
Carter muốn đích thân quan sát tìm hiểu về thảm cảnh tại các Trại Tị Nạn trên
đất Thái Lan, điều mà báo chí và các hãng thông tấn, truyền hình... đã nhiều
lần tường thuật như là một vết thương đại thảm khốc do cộng sản gây ra cho lịch
sử nhân loại vào thời bấy giờ.
Chắc chắn ông Carter, vị Tổng Thống mà nụ cười
luôn luôn đậu trên môi, một lúc nào đó đã phải chau mày, suy tư về thảm họa
kinh hoàng của hàng trăm ngàn người đang sống tại các trại tị nạn Ðông Nam
Á. Không một bản tường thuật nào sẽ sống động và thành thật hơn những
nhận xét của chính vợ ông, bà Rosalynn.
Vậy nên nhiệm vụ của 14 người trong “phái đoàn tiền sát” được cử qua Thái
Lan đầu tháng 10-1979 thực là quan trọng. Phái đoàn sẽ đến Thái Lan như
những người du lịch, sẽ tìm hiểu và ghi nhận trước tất cả mọi khía cạnh của vấn
đề; một bản phúc trình tỉ mỉ về tị nạn sẽ được thiết lập với những nhận xét và
đề nghị thật chuẩn xác, để cuộc tới thăm của bà Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ sẽ chỉ
là duyệt lại các điều mà bà đã biết từ trước.
Riêng tôi, một trong 14 nhân viên của phái đoàn
tiền sát, tôi hoàn toàn không hay biết mảy may gì về mục tiêu, mục đích của
cuộc ra đi này. Tôi lại cũng mù tịt về mọi lãnh vực ngoại giao và an ninh
của Mỹ. Thế mà tôi lại được đi trong phái đoàn, điều mà chính tôi cũng
phải ngạc nhiên. Trong 14 người, thì 11 là Mỹ chính hiệu “con nai trắng”, còn 3 ngoại kiều là một cô Cam-bốt, một giáo sư Thái
Lan và tôi là Việt Nam. Sở dĩ có tên tôi là bởi một sự bất ngờ rất
tếu. Tôi có anh bạn trong “Hội Nhà
Thờ Bảo Trợ”, tên John, anh này
là cựu sĩ quan, trước từng ở Việt Nam hai năm, làm cố vấn cho đơn vị tôi.
Ngẫu nhiên nay gặp lại nhau, anh rất khoái tôi. Thường thường tụi tôi có
các buổi họp mặt weekend là có John. Anh ta cũng ngồi xếp bằng tròn quanh
mâm nhậu, bóc lon la-de và nốc một hơi trăm phần trăm y chang như các tay tổ
trong băng độc thân vậy. John nói được một ít tiếng Việt, ăn được nước
mắm, khoái món phở tái, chả giò ... và đôi khi chúng tôi nhậu khan với nhau bằng
mực khô nướng, củ kiệu, John cũng xáp vô nhai khô mực ra rít lắm. Bởi cái
chỗ thân tình ấy nên tụi tôi coi John như một người bạn chí thiết. Một
lần đang cơn nhậu, John hỏi chúng tôi, ngoài tiếng Mỹ có ai biết nói tiếng Lào
không? Tôi phét lác nhận là nói được và xổ ra một tràng tiếng Lào líu lo
líu lường... làm cho cả bọn cười bò. Thật tình tôi có học được một ít
tiếng Lào trong thời gian hành quân Hạ Lào, lâu không nói thì nay cũng đã quên
nhiều, nói bậy bạ dỡn chơi thì được, chớ còn phiên dịch thông ngôn thì không
nổi.
Thế mà nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời lên
Văn phòng Ngoại giao. Người tiếp tôi chính là John. Anh ta nói muốn
dành cho tôi cơ hội để về thăm miền Ðông Nam Á trong nhiệm vụ tiền sát như đã
nói trên. Tôi thú thật với John tôi quá kém về Lào ngữ. Nhưng anh
ta trấn tĩnh tôi rằng, có một nữ nhân viên Cam-bốt nói tiếng Lào giỏi sẽ giúp
tôi, và có thể phái đoàn cần tôi trong nhiệm vụ giao dịch tiếng Việt nữa.
Chúng tôi đã đến Thái Lan như những du
khách, và đã nhờ Hồng Thập Tự địa phương đưa đến các trại Tạm cư Tị nạn.
Hai trại lớn mà chúng tôi đã ở lại nhiều ngày là trại U-thong (phía Tây Bắc
cách Bangkok trên 300 dặm) hiện có 36 ngàn người Lào tị nạn; và trại Sa-kaeo
nằm trên quốc lộ số 8 cách Bangkok 650 dặm về phía Ðông, chứa tới 200 ngàn dân
Căm-bốt tị nạn.
Có ai
tưởng tượng được (vào thời điểm năm 1979) chỉ ở một trại tạm cư thôi mà con số
những người tị nạn Căm-bốt đã lớn lao đến thế không? Hàng trăm ngàn người
đó đang sống vô cùng thiếu thốn, đói khổ và bệnh tật, ở chui rúc trong các tàng
cây, những lều lá xiêu vẹo mà họ gọi là cái nhà. Thiếu thực phẩm, thuốc
men, quần áo.
– Một vài hình ảnh khiến ta có thể tưởng như lớp
người đó đang sống ở thời thượng cổ, thời đại sống trong hang hốc, ăn lông, ở
lỗ. Sau này khi bà Rosalynn Carter đến viếng thăm đã phải thốt lên:
“Thật quả là thê thảm, những cảnh tượng
này tôi chưa hề bao giờ thấy như vậy, đã làm cho tôi xúc động kinh
hoàng.” (“It’s like nothing I ‘ve ever seen, it’s emotionally
overwhelming”).
Nếu muốn viết về chuyến đi Thái Lan
của tôi thì sẽ có một chuyện dài, nhưng tôi không thể đưa lên báo bản phúc
trình chỉ dành riêng cho vị Ðệ Nhất Phu Nhân đọc. Ở đây, tôi muốn kể lại
một câu chuyện nhỏ- một kỷ niệm mà mãi mãi tôi không quên.
Buổi chiều hôm đó, sau những giờ đã làm việc khá
mệt mỏi, chúng tôi chia nhau bánh mì và thịt hộp để ăn bữa tối, Saleng (cô gái
Căm-bốt trong phái đoàn) gọi tôi:
- Anh có muốn đi coi “Ông Thần Con Nít” không?
Tôi vừa nhai bánh vừa
cười, hỏi đùa:
- Có Ông Thần Con Nít
hả? Vậy Saleng làm ơn bồng ông Thần Bếby ấy tới đây, tụi mình chụp hình
phỏng vấn, chớ đi nữa thì... mệt quá rồi.
Saleng nghiêm sắc
mặt:
- Anh chớ nói dỡn, Thần
Con Nít thiêng lắm, Thần đã cứu nhiều người ta và đã đưa họ đến đây tị nạn.
Tôi hỏi một hơi:
- Sao cô biết? Thần con
nít là Ông Thần gì ? ở Ðâu? Cứu ai? Chuyện đầu đuôi ra sao?
Saleng liếc xéo
tôi:
- Bộ anh muốn ghi vô biên
bản phúc trình hả? Muốn biết thì đi! Đi tôi dẫn tới cho coi.
Tôi uống cạn ly cà
phê rồi ngoắc John cùng đi theo. Chúng tôi lên một ngọn đồi nhỏ, chung
quanh toàn là dân di tản Căm-bốt ở chen chúc dưới các lùm cây tàng lá.
Những cảnh sống cơ cực hiện ra trước mắt trong suốt mấy ngày nay đã làm chúng
tôi quen rồi. Các em nhỏ, phần lớn là ở trần truồng, gầy gò, xanh xao và
bệnh hoạn. Các ông già bà cả ngồi trầm lặng như những pho tượng.
Nhiều cặp mắt lo âu nhìn về phía chúng tôi, không biết họ đang nghĩ gì.
Nhưng có điều chắc chắn là nếu ai bảo họ trở lại với quê hương cộng sản của họ
thì họ lắc đầu cương quyết phản đối ngay.
Saleng
dừng lại ở đỉnh đồi – nơi có những đá lớn chồng chất – trên một tảng đá, tôi
thấy có bầy biện như một bàn thờ, cắm nhiều cây nhang, có một cặp nến đỏ viết
chữ Miên chằng chịt như đạo bùa.
Một bầy trẻ con chừng 20 đứa ốm o
đang cầu kinh và ca hát chung quanh. Vài người lớn thấy chúng tôi, rê lại
gần đứng nhìn. Ðến gần bàn thờ, tôi và John đã ngạc nhiên khi nhận ra vị “Thần Con Nít” mà Saleng đặt tên cho,
chính là tượng “Chúa Hài Ðồng nằm trong
máng cỏ”. Tượng bằng thạch cao lớn cỡ bằng quyển tự điển, một góc bị
bể nên bàn chân Chúa mất một nửa.
Rất tự
nhiên, John và tôi cùng qùy gối xuống cạnh những em bé trần truồng. Chúng
tôi làm dấu Thánh Giá. John hát lên một bài ca Sinh Nhật bằng tiếng Mỹ,
tôi cũng ca tiếp bài “Ðêm đông lạnh lẽo
Chúa sinh ra đời...” Cử chỉ
cung kính của chúng tôi trước vị Thần Con Nít đã phút chốc gây cảm tình với các
em bé và bà con cô bác tị nạn Căm-bốt. Số đông đã bu lại quanh chúng tôi
có tới năm sáu chục người. Họ nói chuyện ồn ào, và Saleng làm nhiệm vụ
thông dịch cho chúng tôi hiểu. Trong đám đông đó, Saleng dẫn tới giới
thiệu với chúng tôi một bà già tên Lam-Pranak và con gái bà, bé Bòboul.
Câu chuyện ly kỳ “Thần Bò-Boul” đã
sẩy tới cho hai mẹ con bà, đầu đuôi thế này:
Ông Lam-Pranak, vị đại úy thời
Lon-Nol, bị Miên cộng hạ sát năm 1975. Hai đứa con của ông đã bị ném vô
lửa trước mắt ông, trước lúc chúng bắn ông. Vợ ông và 4 đứa con khác trốn
về tỉnh Kompong Kdey, một năm sau bị phát giác và cũng bị bắt. Miên cộng
nhốt năm mẹ con bà Pranak cùng với khoảng 400 người khác thuộc “chế độ cũ” trong một Nhà Thờ Chánh Tòa
đổ nát ở tỉnh nhỏ Khum Samrong. Chính tại nơi đó, con gái út của bà, em
bé Bòboul, đã tìm thấy tượng Chúa Giêsu Hài Ðồng nằm trong máng cỏ. Thoạt
đầu, em chỉ thấy đẹp và muốn giữ chơi như một búp-bê. Nhưng rồi bà mẹ em
đã nghiệm thấy dường như có một uy quyền, một phép lạ nào đó ẩn tàng trong
Búp-bê Thần này. Cứ mỗi lần Bòboul bị đau ốm, mà em được ôm lấy Búp-bê
Thần thì em liền được khỏi bịnh. Rồi nhiều em nhỏ khác bị nhốt trong Nhà
Thờ đau ốm cũng đã được ơn cứu chữa ấy. Chí đến các người lớn bệnh hoạn
cũng đã được khỏi khi cầu xin Búp-bê Thần; và lòng sùng kính tôn thờ tự nhiên
dâng lên. Trước con mắt nhòm ngó dữ dằn của bọn lính Miên cộng, những
người tù khốn khổ trong Nhà Thờ đã không dám lập nên một bàn Thờ cho Vị “Chúa Con Nít” của họ. Ðền đài của
Chúa Giêsu Hài Ðồng nơi đây chính là cái túi vải rách rưới đeo trên lưng em bé
Bòboul, một đứa trẻ gầy gò bẩn thỉu. Ðến nỗi chính danh hiệu cao cả của
Chúa cũng chẳng ai biết nữa. Ðoàn người tù tội đã dùng ngay tên em bé để
gọi Chúa Hài Ðồng, bây giờ tên Ngài là “Thần Bòboul”.
Nhiều đêm, cửa Nhà Thờ mở ra, những họng súng
chĩa vào, vài tên Miên cộng thò đầu vô gọi tên một số người. Những người
bị gọi đi trong đêm sẽ không bao giờ trở lại. Họ đến quỳ gối bên em bé
Bòboul, hôn tượng Chúa Hài Ðồng:
- Lậy Thần của Bòboul, bây giờ con sắp đi vào cõi
chết, con muốn khi chết đi được Thần của Bòboul thương con, đem con về cõi Trời
với Thần!
Cầu nguyện xong, họ hôn em Bòboul và vĩnh
biệt ra đi, trong khi đó Bòboul vẫn ngủ say sưa không biết gì cả. Số tù
nhân vô tội vơi xuống lần lần.
Một đêm nọ, bà Pranak bị gọi tên. Bà
choáng người như bị sét đánh, gọi cả bốn con dậy, mẹ con ôm lấy nhau khóc mướt
rồi bà cầu nguyện:
- Lậy Thần của Bòboul,
xin cứu con, xin cho con được sống với bốn đứa nhỏ này, cha nó đã bị bắn, hai
anh nó đã bị đốt lửa; xin Thần hãy cứu con để chúng nó còn có mẹ, và để mẹ con
chúng con suốt đời thờ lạy Thần.
Bà hôn các
con rồi ra đi trong đêm tối theo lũ Miên cộng...
Chừng hơn tiếng đồng hồ sau, cánh cửa hậu
Nhà Thờ bỗng hé mở. Bà Pranak len lén bò vào. Bà thì thào với các
con:
- Mẹ và nhiều người bị đẩy xuống một cái hố, tụi
nó xả súng bắn càn rồi lấp đất lên, và bỏ đi. Mẹ không bị trúng đạn, moi
đất chui lên được về đây với các con. Ðúng là Thần của Bòboul đã cứu mẹ!
Năm mẹ con lại ôm nhau khóc... và tạ ơn
Thần.
- Việc bà
thoát chết, mò mẫm đêm khuya trở lại Nhà Thờ (đúng ra là nhà tù), cũng như việc
lính gác ngủ vùi và cửa Nhà Thờ hé mở, cho đến bây giờ, bà Pranak vẫn không
hiểu tại sao được như vậy. Bà chỉ một mực tin rằng đó chính là Thần Bò-Boul ra
ơn cứu mạng
Ngày chế độ
Pol-Pot bị lật đổ, bọn lính canh tù trước khi tháo chạy đã thảy đại vô Nhà Thờ
3 trái lựu đạn. Bé Bòboul thất kinh, cầm tượng giơ ra ngăn cản. Lạ
thay, cả 3 qủa đạn đều tịt ngòi lăn long lóc trên nền Nhà Thờ. Một người
trong toán tù đã liều mình nhặt vứt ra ngoài. Khi qủa lựu đạn cuối cùng
ném ra khỏi cửa sổ, cả 3 đã phát nổ dữ dội khoét thủng một lỗ ở chân tường, và
do đó đoàn tù đã thoát ra rồi tản mát, mạnh ai nấy chạy trốn vượt biên giới qua
Thái Lan tị nạn.
Bé Bòboul lạc gia đình, một mình chạy nhủi
ở trong rừng, hết lòng cầu xin, hai ngày sau thì gặp lại được mẹ và anh em như
cũ.
Khi năm mẹ
con đắt díu nhau vượt biên tại Ban Nong Pru chính là chỗ quân đội hai bên đang
canh phòng ghìm nhau rất cẩn mật. Bé Bòboul cầm tượng Chúa đi trước dẫn
đầu cho gia đình đi ngang qua hai trạm lính canh gác, lạ thay, thấy lính Miên
cộng và lính gác Thái đều ôm súng ngủ khì. Câu chuyện thuật lại như khôi
hài và hoang đường vậy.
John tỏ ra đặc biệt chú trọng đến mọi
chi tiết của câu chuyện. – Anh hỏi và Saleng thông ngôn:
- Cho đến nay, Chúa Hài
Ðồng còn tiếp tục làm phép lạ không?
Bà Pranak trả lời:
- Không! không phải phép
lạ, Thần của Bòboul không làm phép ra lửa, ra ánh sáng đâu. Thần chỉ cứu
người thôi. Ai cầu xin Thần sẽ được, nhưng phải ở hiền, ở tốt, đừng có dữ
dằn, ai yêu thương người ta, Thần của Bòboul mới cho ơn. Thần còn cho ơn
nhiều nhiều, phải tin Thần thì mới được chứ!.
Tôi ngạc nhiên đến sững sờ nhìn bà Pranak, có
phải bà vừa đọc một đoạn Thánh Kinh nào đó cho tôi nghe không? Tôi nhìn
kỹ mặt bà, gương mặt cằn cỗi xám xịt, hàm răng vàng khè, cặp mắt đục và mệt mỏi.
Bà quê kệch, xấu xí và rách rưới, nhưng tâm hồn bà dường như tràn ngập niềm tin
và sự vui mừng.
Bốn đứa nhỏ của bà cùng với lũ trẻ tị nạn
khác đang xúm quanh John nhai kẹo cao-su. John nhờ Saleng giảng dịch cho
chúng hiểu sơ lược về Chúa Cứu Thế, mà bức tượng của Bòboul chính là Thánh
tượng Ngài. Thật mà nói, tôi thấy lũ nhỏ chăm chú vào việc nhai kẹo nhiều
hơn là lắng nghe câu chuyện Thánh Sử.
Khi chúng tôi từ biệt bà con tị nạn để về
lều, John chưa kịp nói Good Night thì một thanh niên chạy tới rối rít lên:
- Ðem Thần của Bòboul tới mau, xin cứu vợ tôi, nó
sắp đẻ rồi, chẳng có cô mụ bác sĩ gì ráo, khéo nó chết mất! Lạy Thần, xin
cho vợ con của con được sống.
Tượng Chúa Hài Ðồng
được rước đi tức khắc. Chúng tôi cũng cấp tốc trở về lều. Khi John
trở lại với một bác sĩ thì mọi sự đã song. Một em bé tị nạn đã sinh ra
bằng yên, Người sản phụ đang thiu thiu ngủ, và người chồng đang quỳ dưới
đất chắp tay lạy Chúa Hài Ðồng như tế sao.
Bà Rosalynn Carter, sau này khi đến
thăm trại, đã bồng đứa bé đó trên tay và ứa lệ nói rằng: “I want to
go home as fast as I can and mobilize people and do all we can to help the
people here”. [Tôi muốn trở về Mỹ càng sớm càng tốt để vận động
dân chúng làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được để giúp dân chúng nơi
đây.]
Trần Quốc
Bảo
Richmond,VA/USA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét