LỄ CÁC ĐẲNG
9/5/2011
linh-hon.jpg
Lễ ngày 2 tháng 11 có nhiều
cách gọi. Cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” chính thức của giáo phận ghi là: “Lễ cầu
cho các tín hữu đã qua đời”, người ta thường gọi là “Lễ các đẳng linh hồn”, hay
vắn tắt hơn thì gọi là “Lễ các đẳng”.
Một lần nọ, trước ngày lễ
cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở thông báo: “Ngày mai là lễ các đẳng,
chúng ta nhớ cầu nguyện cho các đẳng”. Thế rồi, công an xã mời cha đến xã làm
việc một tuần lễ, với lý do là “Chúng ta chỉ có một đảng, sao linh mục kêu gọi
cầu nguyện cho các đảng?” ! [1]
Lễ ngày 2 tháng 11 có nhiều
cách gọi. Cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” chính thức của giáo phận ghi là: “Lễ cầu
cho các tín hữu đã qua đời”, người ta thường gọi là “Lễ các đẳng linh hồn”, hay
vắn tắt hơn thì gọi là “Lễ các đẳng”.
Nguồn gốc.
Việc cầu nguyện cho những
người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn
quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt
đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không
hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người
chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt
đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến
ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội
lỗi” (2Mcb 12,43-46).
Giáo hội từ những thế kỷ
đầu cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô, thế kỷ
IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ
không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc
này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có
sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2/11,
ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma.
Công Đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống
có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Công Đồng
Vaticanô II cũng dạy: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu
cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một
việc lành thánh..." (GH 50), về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng
dạy: "Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa... các thánh lại
không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha..." (GH 49). Sự trao đi nhận
lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đã thực
sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Ngày cầu nguyện cho các
tín hữu đã qua đời liên quan đến niềm tin về luyện ngục và các thánh thông
công.
Thuật từ tiếng Latin.
Lễ này tiếng Latin là
“Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, tiếng Anh gọi là “Commemoration of
all the Faithful Departed”, có khi cũng gọi là All Souls’ Day (Lễ các linh hồn)
hay Defuncts’ Day (Lễ các người đã qua đời). Uỷ Ban Phụng Tự dịch là “Lễ cầu
cho các tín hữu đã qua đời” là đúng, nhưng bình dân vẫn gọi là “Lễ các đẳng”. Vậy
chúng ta tìm hiểu từ vựng này.
Nghĩa của các, đẳng.
Các: Có chín chữ Hán, ở
đây là chữ各, nghĩa là (đại từ).
(1) Mỗi một: Các bất tương đồng (không ai giống ai). (tt). (2) Khác: Các biệt.
(3) Tất cả, hết thảy: Các vị (quý vị).
Đẳng: có hai chữ Hán, ở
đây là chữ等, nghĩa là (dt.)
(1) Thứ bậc: Thượng đẳng (bực trên nhất); Trung đẳng (bực giữa); Hạ đẳng (bực
dưới nhất, hạng bét). (2) Phức số: Ngã đẳng (Nhóm chúng tôi). (3) Bậc thang: Thổ
giai tam đẳng (Cầu thang đất có ba bậc). (đt.) (4) Ðợi chờ: Đẳng đãi (Chờ đợi).
(5) Bằng nhau, đều: Đại tiểu bất đẳng (Lớn nhỏ không đều). (6) Cân lường. (tt.)
(7) Hạng: Nhĩ thị hà đẳng nhân (Anh là hạng người nào). (pht.) (8) Vân vân: Đẳng
đẳng.
Nghĩa của từ “các đẳng”.
Các đẳng là tất cả thứ bậc.
Thuật từ “Các đẳng linh hồn” để chỉ tất cả các linh hồn người quá cố trong luyện
ngục [2] (thuộc thành phần Hội thánh đau khổ), phân biệt với “Các thánh nam nữ”
là các phúc nhân trên thiên đàng (Hội Thánh vinh quang).[3] Có người cho rằng
quan niệm về “linh hồn mồ côi” và “các đẳng linh hồn” v.v. chịu ảnh hưởng tư tưởng
“cô hồn các đẳng” của ngoại giáo. Như Phật Giáo chia địa ngục ít nhất có 18 tầng
và quỷ cũng có nhiều cấp bậc. Trong “Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh” [4] có
rất nhiều thứ quỷ: quỷ đau đầu, quỷ mặc áo rách, quỷ ngủ bờ ngủ bụi, quỷ
đói, quỷ nam căn[5] bị thối rửa… Hay trong xã hội loài người cũng chia làm
nhiều giai cấp, tức là thứ bậc khác nhau trong xã hội: sĩ, nông, công, thương,
binh... Trong tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” [6] đề cập đến 10 hạng
“cô hồn”: Thiền tăng, nho sĩ, đạo sĩ, thiên văn địa lý, lương y, quan liêu, tướng
quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” [7]
cũng nói đến 10 loại: Vua chúa, tể thần, đại tướng, kẻ ham giàu, kẻ ham danh,
thương nhân, binh lính, quý nữ, kỹ nữ, bần nhân gặp nạn chết oan... Con số 10
chỉ là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong “lục đạo”[8] mà
thôi. Phải chăng, chính những hoàn cảnh này đã ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của
chúng ta?
Thực ra, trong xã hội trần
gian bao giờ cũng có nhiều thứ bậc, đẳng cấp, giai tầng... Khi lìa trần, người
ta không thể mang theo mình bất cứ của cải vật chất nào. Mọi thứ bậc, đẳng cấp,
địa vị của con người ở trên đời không có ý nghĩa gì trước Tòa Phán Xét. Thiên
Chúa xét xử con người theo “công trạng” [9] nó đã làm ra. Chúa không hỏi chúng
ta là ai, thuộc giai cấp nào trên thế gian, nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về “nén
bạc” (ân sủng và tình yêu) mà Chúa giao phó đã được sinh lợi thế nào. Như Thánh
Gioan Kim Khẩu đã nói: “Nên nhớ Người sẽ không khiển trách họ về hạnh kiểm, tội
lỗi hay lời báng bổ; mà chỉ vì không ích lợi gì cho ai. Như kẻ đã chôn nén của
bạc mình, đời sống y không có gì khiển trách, nhưng y không làm ích gì cho ai
khác.”[10]
Vì vậy, khi nói “các đẳng
linh hồn”, chúng ta nghĩ tới tất cả các linh hồn của mọi hạng người trên đời
này đã quá cố và đang còn phải thanh luyện trong luyện ngục. Họ có thể là ông
bà, tổ tiên, thân nhân, bạn hữu của chúng ta hay là những người xa lạ. Khi còn ở
đời này, có thể họ là người giàu sang quyền quý hay nghèo khó mọn hèn. Họ có thể
là những Kitô hữu hữu danh hoặc “Kitô hữu vô danh”. [11] Tất cả họ đều là chi
thể của Chúa Kitô, giờ đây đang thuộc về Giáo Hội đau khổ và cần đến lời cầu
nguyện của chúng ta.
“Các
đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh hồn vẫn có sự phân
chia đẳng cấp, điạ vị như khi còn ở thế gian hay trong Luyện Ngục có bao nhiêu
đẳng cấp, thứ hạng linh hồn. Trong Luyện Ngục, tình trạng thanh luyện của họ có
thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế nào thì chúng ta không biết.
Khi nói “linh hồn mồ
côi”, chúng ta nghĩ tới linh hồn của hạng người phải đơn độc trong cuộc lữ hành
đức tin khi còn ở trên đời. “Đơn độc”, “cô quả”, “mồ côi”.... hiểu theo nghĩa đời
thường là không có người thân thích, bạn bè, không có ai đồng hành để được quan
tâm, nâng đỡ đời sống đức tin. Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả phụ hay kẻ
cơ bần sống đời đơn chiếc. Họ cũng có thể là những tín hữu giàu sang, con đàn
cháu đống, bạn hữu tứ phương mà thực ra những người quen biết xung quanh họ
không ai có niềm tin Công Giáo như họ để xin lễ hay cầu nguyện cho họ. Và nay,
những linh hồn đó đang ở trong Luyện Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo
Hội chiến đấu.[12]
“Linh
hồn mồ côi” không phải là linh hồn không được Chúa đoái trông chăm sóc, ít được
Chúa yêu thương hay bị Ngài lãng quên. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Mọi linh hồn
đều được Thiên Chúa tạo dựng. Mọi người đều được Chúa yêu thương bằng một tình
yêu riêng biệt, không ai giống ai, Ngàivẫn không ngừng gọi chúng ta bằng chính
tên riêng của từng người: “Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng
Đức Chúa đặt cho” (Is 62,2) và tình yêu đó luôn luôn đầy tràn: “Ơn của Ta đủ
cho ngươi” (2Cr 12,9).
Bản văn Công Giáo đầu
tiên sử dụng từ “các đẳng” mà chúng tôi được biết là “Văn Tế Các Đẳng Linh Hồn”
của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874): “Nhớ các đẳng xưa: Tay Chúa dựng
hình, tính thiêng gởi xác. Di luân tài mạng chịu thiên tư, lý dục thị phi đầy địa
bộ...”. Cụm từ “các đẳng”, “các đẳng linh hồn” đã được sử dụng từ lâu trong
Giáo hội tại Việt Nam để chỉ các tín hữu đã qua đời đang còn thanh luyện chờ
ngày hưởng phúc thanh nhàn bất diệt. Lịch phụng vụ của Roma xưa nay ghi lễ ngày
02/11 là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”. Lịch phụng vụ ởViệt Nam
thì dịch là: “Lễ Các Linh Hồn” [13], “Lễ Linh Hồn” [14], “Lễ Cầu Cho Mọi Tín Hữu
Qua Đời”[15], sau này dịch là “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Thiết nghĩ
cách dịch “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” thì sát nghĩa với nguyên bản,
nhưng nên hiểu đó vẫn là nói tắt, vì đầy đủ phải là Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã
Qua Đời Đang Còn Thanh Luyện (hay đang ở luyện ngục). Cách nói “Lễ các đẳng”
cũng là cách nói tắt, mang âm hưởng văn hóa bản địa về “cả thảy vong linh” thuộc
“thập loại chúng sinh” gồm cả “cô hồn các đẳng”! Phải chăng các tiền nhân của
chúng ta đã hội nhập văn hóa trong khi tạo ra cụm từ này để phiên dịch?
Trường hợp những ngày lễ
Feria V in Cena Domini, Feria VI in Passione Domini, chúng ta dịch là Lễ Tiệc
Ly (Thứ Năm Tuần Thánh), Lễ Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó của Chúa (Thứ Sáu Tuần
Thánh), nhưng người bình dân vẫn quen gọi là “Lễ Rửa Chân”, “Lễ Hôn Chân”... vừa
đơn giản, tượng hình lại dễ nhớ. Tất nhiên không đủ nghĩa, không nên sử dụng nữa.
Kết luận.
Giáo dân Việt Nam chúng
ta có thói quen xin lễ cho các linh hồn tổ tiên nội hay ngoại, linh hồn thân
nhân, linh hồn mồ côi, linh hồn ngoại đạo, thai nhi, linh hồn người chết vì tai
nạn… và trong Thánh lễ hàng ngày, Hội Thánh luôn cầu nguyện cho mọi người đã
qua đời. Đó là những thực hành rất tốt để tưởng nhớ người đã qua đời, thực thi
bổn phận “hợp thông cùng các thánh”.
Ngày “Commemoratio omnium
Fidelium Defunctorum”, chính xác là ngày “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”.
Còn “Lễ Các Đẳng” là cách nói vắn tắt, hiểu theo giáo lý Công Giáo như đã trình
bày, thì không đúng cho lắm, những nếu đặt trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thì
việc tiếp tục sử dụng nó cũng không có gì ngăn trở.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
[1] Trong văn nói, một số
người Nam bộ phát âm “các đẳng” thành “các đảng”, cũng như “cô hồn” thành “cu hồn”,
nên “cúng cô hồn các đẳng” thì nói là: “cúng cu hồn các đảng”.
[2] Lưu ý là luyện ngục
không phải là một hoả ngục ngắn hạn, luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục và sự
thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể
nói ‘thời gian’ bao lâu (x. GLCG số 1030-1032).
[3] Thời xưa chưa có mục
từ “tất cả”. Các danh từ chỉ tổng lượng thời xưa là: Cả, cả và, cả thảy, hết cả,
hết thảy.
[4] Phật thuyết quỷ vấn Mục
Liên kinh, gồm 17 chuyện, theo truyền thuyết thì do An Thế Cao dịch, nhưng được
ghi nhận là thất dịch, thuộc đời lưỡng Tấn.
[5] Tức bộ phận sinh
dục.
[6] Còn gọi là “Phật kinh
thập giới”, không rõ tác giả, viết dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1442-1497), là
áng văn viết bằng chữ Nôm cổ theo thể biền ngẫu.
[7] Tác phẩm của Nguyễn
Du (1765-1820), được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo
Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn
tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất
nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn cầu siêu để giải
thoát cho hàng triệu linh hồn.
[8] Theo giáo lý Phật
Giáo, con người chúng ta do lực của nghiệp và phiền não của chính bản thân mà cứ
mãi luân hồi chuyển sinh trong 6 chủng loại thế giới sinh tồn đầy những khổ
đau, gọi là lục đạo đó là: thiên, a-tu-la, nhân, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.
[9] Xem BGCN, Số 07/2010,
tr. 106.
[10] Thánh Gioan Kim Khẩu,
Bài giảng XX sách Công Vụ tông đồ (Jean Comby, Để đọc lịch sử Giáo Hội, q.I,
tr.115).
[11] Có những người vì lý
do nào đó mà không lãnh nhận bí tích Rửa Tội được, nên không trở thành Kitô hữu.
Nhưng nếu họ sống theo những giá trị của Phúc Âm thì, nói theo từ ngữ của nhà
thần học Karl Rahner, họ cũng là những “Kitô hữu vô danh” (Chrétien anonyme).
[12] Công đồng Florence
(1431) đã định tín: Có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn. Các linh hồn ra
khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông
cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian
thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi
luyện tội.
[13] Niên Giám 1964,
tr.11
[14] Địa phận Hà Nội,
Sách Lễ, Nxb Hiện Tại, 1967.
[15] Sách Lễ Giáo Dân,
1971, tr. xxix và tr. 1572. Cách dịch này rất dễ hiểu lầm là: Lễ cầu cho mọi
tín hữu chết hết (!)