Dòng nước và dòng đời
(Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa –
Chúa Nhật I TN, năm B)
(Sun, 04/01/2015 - Trầm Thiên Thu-thanhlinh.net)
Lãnh nhận Phép Rửa là
“dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta
đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy,
chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn!
Phép Rửa của Ông Gioan
là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám
hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối,
không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính
tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14).
Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như
vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Nghe nói vậy ông
Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy
Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện
qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ
lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”
(Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ
tường là “các tầng trời xé ra, và Thần
Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa
Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt
3:17; x. Mc 1:11).
Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên
Chúa đã biến Người thành hiện thân
của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong
Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa
là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta,
còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân.
Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta bước vào miền cứu
độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái,
Chúa Giêsu nói với ông: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu
không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên
Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh
Phaolô xác định: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô
đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi
trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí
Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó
sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau
bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ
trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi
thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ
bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không
muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối
với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa xác nhận
rạch ròi: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức
công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước
với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa
ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn
tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh
và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ
giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài
trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức,
bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,...
Tất cả mọi sự chúng ta
tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có
gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức
như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh,
dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và
thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách
nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì,
nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn
tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!
Ngài là Đấng vô hình
mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền
vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước
lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv
29:3-4). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật
vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào
khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Thiên Chúa xuất hiện
trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì
chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây
cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa
ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn
phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô
đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
+
Tại nhà ông
Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên
Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở
lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv
10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người
đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức
Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn
cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị
biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền
năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó,
và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv
10:36-38).
Trước khi Chúa Giêsu
đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến
trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất
bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông
đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận
mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm
nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận
mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lạy
Chúa tôi!
Ông rao giảng về Đức
Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không
đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em
trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc
1:7-8). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng
khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống
và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Đặc biệt nhất là có
tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về
Con” (Mc 1:11).
Di tích sông Gio-đan,
nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung
tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Jordan, có một địa
điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và kinh thánh,
nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần
Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại
Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28).
Dòng sông Gio-đan bình
thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm
Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không
thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn
đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày
cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt
ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất
nước là mất nơi sống!
Nước biểu hiện sự xuất
hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang
trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ
mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu
quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi.
Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên
tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học
phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng
hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không
ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Chúa Giêsu được dìm
mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình
mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao
trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người,
đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại
bản thân” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhận Đức Kitô
là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là
phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét