Hòa Điệu Xót Thương
(Chúa Nhật XXX TN, năm B)
(Tue, 20/10/2015 - Trầm Thiên Thu-thanhlinh.net)
Trong âm nhạc có những
giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh kết hợp
với nhau theo một quy luật nhất định, trong đó có âm thanh ổn định và không ổn
định, âm thanh ổn định nhất gọi là chủ âm. Có hai loại điệu thức: điệu thức
trưởng và điệu thức thứ, với “màu sắc”
khác nhau. Chỉ bảy nốt, nhưng liên kết khéo léo sẽ có giai điệu đẹp, điều này
tùy vào tài năng âm nhạc của nhạc sĩ.
Như đã nói, có những
giai điệu đẹp, nghe hoài không chán; ngược lại, có những giai điệu không muốn
nghe lại lần thứ hai. Giai điệu có thể đẹp hơn nếu được hòa âm khéo léo, tính
tế.
Tuy nhiên, giai điệu
đẹp nhất và tuyệt vời nhất chắc chắn chỉ có giai điệu yêu thương, giai điệu của
lòng thương xót. Giai điệu đó sẽ đẹp hơn khi nó trở nên hòa điệu, và nó còn là
Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ
sẽ được Thiên Chúa xót thương ” (Mt 5:7).
Ngôn sứ Giêrêmia loan
báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân
đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân
Người, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở
về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ
mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr
31:7-8). Hành
động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô
biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin
– cho”, mà là hành động của sự
động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô
điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!
Ai có đi tù rồi mới
biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả tự do. Niềm vui đó khó tả vì
nó quá lớn lao. Dân Israel cũng không thoát khỏi cảm giác kỳ lạ đó, họ sung
sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói trước: “Chúng trở về,
nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con
đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là
một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31:9). Và
tất nhiên, điều tiên báo đó đã được ứng nghiệm chính xác.
Tác giả Thánh Vịnh
cũng mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta
tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên
môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm
cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái
sự sung sướng đó được, thế nên chính họ đã hân hoan thốt lên: “Việc
Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3).
Tác giả Thánh Vịnh cầu
xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối
cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai
nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:4-6). Giống như “luật nhân quả” vậy, ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ
sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả.
Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ
sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Vâng, Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí
minh và chí công!
Còn chúng ta là phàm
nhân đầy tội lỗi vì quá yếu đuối, hứa rồi quên, hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã.
Cứ thế, cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi sám hối và đền tội. Tuy
nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng
của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa
muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Thượng
tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại
diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm
cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và
những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ
đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như
vậy”
(Dt 5:1-5).
Thánh Phaolô giải
thích rõ ràng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được
Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã
tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn
thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:4-6). Được CHỌN
thì cũng được TRAO trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung tự tại, tìm
sự an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ
quên những người khác, nhưng phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì những người
khác. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Với tinh thần đó,
trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư theo thông lệ vào ngày 15-5-2013, ĐGH
Phanxicô đã nhắc nhở các giáo sĩ mục phải cẩn thận tránh xa cám dỗ để có thể
trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. Sử dụng từ
ngữ rất “mạnh”, ví von thực tế, thậm
chí có thể gây “sốc” với một số người, ĐGH Phanxicô nói: “Nếu chúng ta đi với người giàu, là chúng ta đang đi về phía hư vô, chúng ta sẽ trở thành chó
sói, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện
cho giám mục và linh mục”.
Phải vậy thôi, bởi vì
ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ “đụng chạm” bất cứ
ai: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt
chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham
mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho
mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây
xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Ngài cảnh báo để thức tỉnh
những người “tai to, mặt lớn” (đại
diện mà!), và đặc biệt là để thương xót những “con chiên”, không muốn chúng bị sập bẫy của lũ sói hoặc cáo!
Trình thuật Mc
10:46-52 (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43) nói về anh mù Ba-ti-mê ở Giê-ri-khô, liên
quan hệ lụy thương xót với Đức Kitô.
Hôm đó, Chúa Giêsu và
các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Thầy với trò và một đám người khá đông ra
khỏi thành Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh
ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta
bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương
tôi!”. Có thể vì anh ta quá khổ sở vì mù lào, cuộc đời chỉ là đêm đen dày
đặc, nên anh ta muốn thoát khỏi cảnh khổ đó, nhưng không phải anh ta “cầu may” theo kiểu “có bệnh thì vái tứ phương”, mà chắc chắn
anh ta thực sự có lòng tin thật lớn đối với Chúa Giêsu. Anh ta chỉ nghe người
khác nói về Ngài chứ anh ta có biết gì đâu. Vậy mà anh đã tin, tin thật, không
chút hồ nghi.
Thấy anh ta la lối om
sòm, kêu gào nhức tai quá, nhiều người đã quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh
ta càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đa-vít, xin
dủ lòng thương tôi!”. Những người quát nạt anh ta chỉ là những người chảnh,
xấu bụng, không hề biết chạnh lòng thương trước cảnh khổ của người khác. Họ đã
không thương anh ta thì thôi, lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Quá chảnh!
Nhưng mặc kệ, anh ta
vẫn tin tưởng và van nài. Anh ta mù mắt mà sáng hồn, kiên trì cầu nguyện. Còn
chúng ta, tuy mắt sáng (và còn đẹp nữa), thế mà lại mù hồn. Đã vậy thì chớ, đôi
khi chúng ta cầu nguyện mà như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, cầu xin mãi không
được thì nản lòng,bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá mong manh. Cầu nguyện
kiểu như vậy chỉ là ích kỷ!
Nghe tiếng cầu xin
chân thành, Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh ta lại. Người ta gọi anh mù và
bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ chờ có thế
thôi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài
hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh. Anh ta nói ngay:“Thưa Thầy, xin cho tôi
nhìn thấy được”. Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu
anh!”. Thế là ngay lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con
đường Ngài đi. Anh ta XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Chúa Giêsu
và anh mù Ba-ti-mê đã cùng hòa điệu thương xót. Thật tuyệt vời biết bao!
Mỗi người trong chúng
ta đều là một nốt trong bản tổng phổ thương xót. Một nốt nhỏ đó không là gì,
nhưng thiếu nốt đó thì không thể hòa điệu trọn vẹn. Tương tự, mỗi nhạc công
trong một dàn nhạc cũng chẳng là gì nếu tách riêng, nhưng họ vẫn thực sự quan
trọng khi hoàn tất nhiệm vụ của mình trong dàn nhạc. Cuộc sống thật kỳ lạ, có
những điều bé nhỏ, xem chừng quá đỗi bình thường, nhưng chính những điều bé nhỏ
đó lại chứng tỏ một tình yêu thương lớn lao.
Lạy Thiên Chúa, xin mở
mắt đức tin cho con để con nhìn thấy Ngài trong tha nhân, nhất là những con người
hèn mọn và đau khổ. Xin giúp con biết thể hiện lòng thương xót để con làm trọn
bổn phận của một nốt nhỏ trong bài Trường Ca Yêu Thương của Ngài. Con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét