Khoa Học Tình Yêu
(Thứ
tư - 30/09/2015- TRẦM THIÊN THU-tinvui.net)
Một trong những đoạn trong cuốn “Chuyện Một Tâm Hồn” (L'histoire d'une
Âme, The Story of a Soul) của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu khiến tôi ấn tượng
nhất chính là lúc Chị kể lại lời Chúa Giêsu từ trên Thánh Giá nói với Thánh
Margaret Maria Alacoque: “Ta muốn con đọc
cuốn sách cuộc đời, trong đó có KHOA HỌC
TÌNH YÊU”. Thánh Têrêsa còn được mệnh danh là Bông Hồng Nhỏ và Tiến sĩ Tình
yêu Kitô giáo.
Điều này ảnh hưởng Thánh Teresa khá
nhiều: “Khoa học Tình yêu, vâng, từ ngữ
này âm vang ngọt ngào trong linh hồn tôi, và tôi chỉ muốn loại khoa học này”. Ơn gọi yêu thương
của Chị được kết tinh.
Khoa học và tình yêu có vẻ không hợp
nhau. Chúng ta muốn kết hợp tình yêu bằng cảm xúc, sự thu hút, và niềm đam mê –
không hẳn là “chất” khoa học, nó hợp
với lý lẽ, kinh nghiệm và sự phát triển. Nhưng tình yêu giống như khoa học
không là phép ẩn dụ thần bí vô căn cứ hoặc lập dị.
Tôi tình cờ gặp được đoạn văn của
Thánh Teresa ngay sau khi đọc cuốn “Anh
Em Nhà Karamazov” (Brothers Karamazov), và Dostoevsky – viết vào khoảng
thời gian như Thánh Teresa (cuối thập niên 1800) – cũng sử dụng công thức này.
Trong phần đối thoại đầu cuốn sách, Lm Zossima cố gắng an ủi “người phụ nữ của niềm tin bé nhỏ”, đầu
tiên là khuyên phụ nữ này đừng sợ vì tính nhút nhát khi đạt được tình yêu, rồi
chỉ ra rằng tình yêu trong hành động khó so sánh với tình yêu trong mơ ước: “Tình yêu tích cực là làm việc và chịu đựng,
đối với một số người, có thể đó cũng là một khoa học hoàn hảo”.
Dorothy Day, người sáng lập Phong
trào Công nhân Công giáo, cũng viết: “Tình
yêu là một dạng khoa học, một dạng kiến thức mà chúng ta thiếu”. Đây là lý do chúng ta luôn cần
cầu xin Chúa Thánh Thần: “Accende lumen
sensibus, infunde amorem cordibus” – xin hãy thắp sáng các giác quan, xin
hãy đổ đầy tình yêu vào trong tâm hồn chúng con. Lời nguyện ca thật đẹp đó
trong bài thánh ca cổ “Veni Creator Spiritus” (Lạy Chúa Thánh Thần, Xin Ngự
Đến). Chính Chúa Thánh Thần làm cho tâm hồn chúng ta đầy tràn tình yêu.
Không lâu trước thời Thánh Teresa,
khái niệm của chủ nghĩa thực chứng (positivism) cho rằng không có khoa học hiện
hữu trừ những gì nghiên cứu hiện tượng của thế giới tự nhiên, đã bắt đầu được
chú ý. Trong cuốn sách viết năm 1874, cuốn “The
Crisis of Western Philosophy: Against
the Positivists” (Khủng hoảng của Triết học Tây phương: ), triết gia lỗi
lạc Vladimir Soloviev (người Nga) đã bác bỏ khái niệm của triết gia Auguste
Comte (người Pháp) cho rằng nhân loại bước vào một kỷ nguyên nhận thức khoa học
là cách phù hợp để thay thế mọi dạng hiểu biết khác, chẳng hạn như kiến thức
thần học hoặc triết học “thô sơ”.
Comte cảm thấy những điều đó đã lỗi thời đối với lịch sử của sự tiến bộ “khoa học”. Phương châm của Comte là “Order and Progress” (Trật tự và Tiến
trình) được ghi trên quốc kỳ Brazil. Châm ngôn này dễ dàng làm theo.
Lịch sử không ghi lại điều đó. Nhưng
Thánh Teresa, lúc 14 tuổi, đã hiểu những điều mà dân trí thức không thể hiểu,
mặc dù họ dành cả đời để nghiên cứu, đó chính là KHOA HỌC TÌNH YÊU.
Soloviev cảm thấy rằng sự khủng
hoảng triết học Tây phương là do sai lầm khi đề cao kiến thức (lý lẽ) hơn thứ
khác (đức tin). Ông cho rằng điều này bắt đầu nổi lên trước thời kỳ Khai Sáng
(thế kỷ 18, đề cao lý trí). Thời kỳ này cũng củng cố tư tưởng cho rằng khoa học
nên thay thế cho luân lý truyền thống hệ thống đạo đức. Cuối cùng, nó bị coi là
“phi khoa học”.
Toàn bộ luân lý truyền thống dựa
trên những gì Chúa Giêsu xác định là hai giới răn quan trọng nhất: Mến Chúa và
yêu người. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu nói “rất khoa học” – đưa ra kiến thức đích thực – chứng thực tính ưu
việt của tình yêu. Loại bỏ luân lý truyền thống không giải phóng con người khỏi
quy luật, mà lại bao hàm mối nguy có thật là mất tình yêu.
Khoa học phong phú hóa thế giới bằng
nhiều cách, nhưng đó không là nền tảng để người Công giáo hiểu rằng khoa học là
phương cách tự bào chữa về “cuộc tranh
luận sinh học đạo đức đương đại” (contemporary bioethical debates).
Soloviev đã nhận thấy điều nguy hiểm khi loại bỏ kiến thức tôn giáo và triết
học. Ông không cho phép thông báo các tiến bộ khoa học. Ông nhận xét: “Để có kết thúc hợp lý, nguyên nhân chính
của thuyết vị lợi tương đương với sự phủ nhận hoàn toàn đối với luân thường đạo lý”. ĐGH Benedict XVI nói
điều này vẫn như trước đây.
ĐGH Benedict XVI nói rằng chỉ có “khoa học tình yêu” mới là “dạng khoa học cao cấp nhất”. Theo Thánh giáo hội Gioan Phaolô II, “khoa
học tình yêu” có thể bảo vệ nhân loại khỏi các hệ lụy xói mòn do thói vị lợi
ngày nay, và “chỉ có tình yêu mới có thể
ngăn ngừa người này lợi dụng người
kia” [cuốn “Tình yêu và Trách nhiệm”
của ĐGM Karol Wojtyla (về sau là ĐGH Gioan Phaolô II), năm 1960]. Chỉ có tình
yêu mới có thể kéo chúng ta ra khỏi sự vô nghĩa mà chủ nghĩa duy vật truyền bá.
Không lâu trước khi qua đời tại
Auschwitz, Edith Stein đã viết bài nghiên cứu chi tiết về triết học của tư
tưởng theo Thánh Gioan Thánh Giá, với tựa đề là “Khoa học Thánh Giá” (Science of Cross). Tài liệu này là đỉnh cao
của sự khôn ngoan. Trong đó, bà cho biết rằng bà gọi là “khoa học của các thánh” với “sự
thật của các niềm tin” – không bao giờ trái ngược với khoa học hoặc lý lẽ.
Tôi nghĩ rằng thuật ngữ này có sức
mạnh lôi cuốn cả người tin lẫn người không tin, nó mời gọi chúng ta xem lại
những gì chúng ta ngụ ý bằng khoa học – và bằng tình yêu, điều mà Thánh Gioan
Phaolô II gọi là “ơn gọi nền tảng và bẩm
sinh của mọi người”.
Các thánh theo đuổi các ơn gọi khác
nhau của tình yêu bằng cách theo “phương pháp khoa học” mà Chúa Giêsu khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”
(Mt 11:29). Chúng ta còn tìm kiếm gì xứng đáng hơn Thánh Tâm Chúa – “Lò Lửa Tình Yêu”?
Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
nhắc chúng ta nhớ tới “Con Đường Bé Nhỏ” (còn gọi là Con Đường Thơ
Ấu) mà không khoa học gia nào có thể hiểu nổi. Con đường đó chỉ có thể hiểu
được nhờ tình yêu, một thực tế sâu sắc nhất của cuộc sống.
Sainte Thérèse, je t’aime! Chị Thánh
Têrêsa ơi, em yêu Chị!
MATTHEW HANLEY
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ
TheCatholicThing.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét