Lòng thương xót,
yếu tính của Tin Mừng và chia khóa dẫn vào đời sống Kitô hữu (20)
(Wed,
06/07/2016 - Vu van An)
VI. Phúc thay ai có lòng thương xót
Sứ
điệp thương xót của Thiên Chúa không phải là một lý thuyết xa lạ đối với hành
động và thực tại của thế giới, nó cũng không dừng lại ở bình diện phát biểu cảm
xúc thương hại. Chúa Giêsu dạy ta phải có lòng thương xót như Thiên Chúa (Lc
6:36). Trong Bài Giảng Trên Núi, Người tuyên bố ai có lòng thương xót là người
có phúc (Mt 5:7). Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, ta đọc thấy: “Bởi thế anh em
hãy trở nên những người bắt chước Thiên Chúa, như những đứa con qúy yêu, và hãy
sống trong tình yêu, như Chúa Kitô yêu thương chúng ta và phó mình cho chúng
ta, như lễ dâng và hy lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa” (Ep 5:1-2). Chủ đề quán
xuyến imitatio Dei, bắt chước Thiên Chúa và hành động của Người nơi
Chúa Giêsu Kitô này, là điều nền tảng đối với Thánh Kinh (1). Do đó, sứ điệp
thương xót của Thiên Chúa có nhiều hậu quả đối với đời sống của mọi Kitô hữu,
đối với triết lý hành động mục vụ của Giáo Hội, và đối với các đóng góp mà các
Kitô hữu nên cung hiến cho việc cơ cấu hóa xã hội một cách nhân ái, công chính,
và đầy lòng thương xót.
1. Tình yêu: giới răn chính của Kitô Giáo
Trong
Cựu Ước, các chữ “có lòng thương xót” và “thương xót” ít khi xuất hiện để lên
đặc điểm cho tác phong con người; tuy nhiên, thực tại mà các chữ này muốn ám
chỉ quả có trong Cựu Ước. Thánh Vịnh 15 trả lời câu hỏi:
“Lạy
Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa?
được ở trên núi thánh của Ngài?
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là
kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng
lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi
khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho
vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay” (Tv 15:1-5).
mà hại đến người ngay” (Tv 15:1-5).
Thánh
Vịnh 112:5 cũng nói một điều tương tự:
“Phúc
thay người biết cảm thương và cho vay mượn,
biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình”.
biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình”.
Chúng
ta cũng đã nói một cách chi tiết về trật tự xã hội trong Cựu Ước, vốn được sắp
đặt cho việc bảo vệ người yếu và người nghèo. Chúng ta cũng đã nói đến sứ điệp
của các tiên tri: lời chỉ trích của các ngài đối với các liên hệ bất công khiến
ta không còn gì để nói thêm (2). Tiên Tri Mikha tóm lược điều Thiên Chúa mong
chờ ở con người:
"Hỡi
người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt,
điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn." (Mk 6:8; xem Tb 12:8).
điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn." (Mk 6:8; xem Tb 12:8).
Nghĩa
vụ làm phúc bố thí đã được nhấn mạnh cách riêng (Tb 4:7-11; Hc 7:10, 29). Trên
nền tảng này, các việc yêu thương trong Do Thái Giáo sơ khai đóng một vai trò
quan trọng (3).
Chúa
Giêsu đứng trong truyền thống Cựu Ước – Do Thái Giáo trên. Sự liệt kê các việc
yêu thương trong diễn từ long trọng của Người về Phán Xét Chung đặc biệt tương
hợp với truyền thống Do Thái này: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ không
nhà đỗ nhờ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ yếu đau và bị giam cầm (Mt 25:35-39).
Điều ngạc nhiên trong bảng liệt kê này là: Chúa Giêsu hoàn toàn chỉ nêu các
việc bác ái chứ không phải các việc đạo đức làm tiêu chuẩn để phán xét. Khi làm
như thế, Người đã dựa vào lời tiên tri Hôsê: “Ta muốn lòng thương xót, chứ
không muốn hy lễ” (Mt 9:13; 12:7; xem Hs 6:6; Hc 35:3). Do đó, trong Bài Giảng
Trên Núi, Người nói: “Bởi thế, khi các con dâng của lễ ở bàn thờ, nếu các con
nhớ anh chị em các con có điều gì chống lại các con, các con hãy để của lễ lại
trước bàn thờ và đi đi; trước nhất hãy giảng hòa với anh chị em các con đã, rồi
mới trở lại và dâng của lễ của các con” (Mt 5:23-24; xem Mc 11:25). Nếu ta thực
sự coi trọng các lời lẽ này của Chúa Giêsu, ta phải hỏi ta có hay tìm cách giảng
hòa trước khi đến cử hành Thánh Thể không và có hay giữ mình đừng rước lễ hay
không?
Chúa
Giêsu giải thích giáo huấn của Người bằng các dụ ngôn đầy ngạc nhiên (4). Dụ
ngôn Người Samaria nhân hậu của Người đã trở thành châm ngôn. Thời ấy, người Samaria không được coi là
người Do Thái chính thống. Thành thử, việc Chúa Giêsu chọn ngay người Samaria làm mẫu mực cho
tác phong chân chính quả có tính khiêu khích, và Người phán: “Hãy đi và làm như
vậy” (Lc 10:25-37). Trong dụ ngôn người đầy tớ không biết tha thứ, Chúa Giêsu
lại giải thích một lần nữa rằng ta phải tỏ lòng thương xót với những ai mắc nợ
ta, giống như Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với ta (Mt 18:23-35). Nếu Thiên
Chúa đã xử với ta một cách thương xót, thì ta, ta cũng phải tha thứ và tỏ lòng thương
xót lẫn nhau. Trong các hành vi thương xót của ta, lòng thương xót của Thiên
Chúa với người lân cận của ta được thể hiện một cách cụ thể. Trong các hành vi
thương xót của ta, người lân cận của ta cảm nghiệm được một điều gì đó lạ lùng
về sự thống trị vương giả của Thiên Chúa, một sự thống trị đã bắt đầu ló dạng
một cách bí mật. Nhờ cách này, lòng thương xót có nghĩa hơn một phúc lợi an
sinh xã hội hay một cơ quan bác ái hay chính trị xã hội (dù dĩ nhiên không loại
bỏ các cơ quan này).
Do
đó, chúng ta không ngạc nhiên bao nhiêu khi có người yêu cầu Chúa Giêsu nhận
diện giới răn lớn nhất, trong tinh thần Cựu Ước, Người đã chó đó là tình yêu
Thiên Chúa và tình yêu người lân cận (Mc 12:29-31; Mt 22:34-40, Lc 10:25-28)
(5). Cả hai giới răn vừa kể đều có trong Cựu Ước, tuy ở hai chỗ khác nhau (Đnl
6:5 và Lv 19:18), nhưng đã có khuynh hướng muốn đem chúng lại một chỗ (6). Với Chúa
Giêsu, chúng tạo thành một thể thống nhất hoàn toàn không thể phân ly. Khi làm
như thế, Chúa Giêsu đã mở rộng quan niệm người lân cận, vượt quá các quan niệm
của dân Do Thái, để áp dụng vào mọi người. Điều có tính căn bản từ nền tảng là
phải giữ cho cả hai giới răn đi đôi với nhau; sẽ không có tình yêu Thiên Chúa
nếu không có tình yêu người lân cận. Chỉ khi nào hai giới răn đi với nhau,
chúng mới tóm lược và chu toàn được trọn bộ lề luật. Đi với nhau, chúng mới là
tinh túy, là tóm lược, và là hình ảnh thu nhỏ của hiện sinh Kitô Giáo.
Thánh
Augustinô đã mô tả một cách đẹp đẽ cách hai giới răn này đi đôi với nhau:
“Đừng
có ai nói rằng: ‘Tôi không biết tôi phải yêu gì’. Họ hãy yêu người anh em của
họ, và họ sẽ yêu chính tình yêu ấy… Đối tượng của tình yêu bác ái phải là một
điều mà đức ái khiến ta phải yêu; và, nếu ta phải bắt đầu từ những người gần
nhất, thì đó chính là người anh em của ta… Dòng tư tưởng làm sáng tỏ đủ điều
này là cũng tình yêu huynh đệ này (tình yêu khiến ta yêu nhau) không phải… chỉ
là tình yêu ' vì Thiên Chúa' mà là tình yêu 'Thiên Chúa'… Từ điều vừa nó, ta có
thể suy ra rằng Hai Giới Răn này không thể tách biệt nhau” (7).
Nếu
ta xem xét sự nối kết trên một cách nghiêm túc, thì, lẽ dĩ nhiên, ta sẽ không
thể để tình yêu Thiên Chúa bị tan hòa vào tình yêu người lân cận, là tình yêu
chỉ có thể kết thúc bằng một chủ nghĩa nhân đạo một chiều, trong đó, tình yêu
Thiên Chúa và mối tương quan với Thiên Chúa, nói chung, sẽ biến mất. Tình yêu
triệt để đối với người lân cận mà Chúa Giêsu vốn đòi hỏi sẽ là điều bất khả nếu
không có sức mạnh phát sinh từ tình yêu Thiên Chúa (8).
Đối
với Thánh Phaolô cũng thế, tình yêu là chu toàn lề luật (Rm 13:10; Gl 5:14) và
là mối dây liên kết tuyệt hảo (Cl 3:14). Giống Chúa Giêsu, Thánh Phaolô cũng
tiếp nhận sứ điệp của Tiên Tri Hôsê để khuyên ta, “vì lòng thương xót của Thiên
Chúa”, hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên
Chúa (Rm 12:1; xem Ep 5:1tt). Hành động thương xót và tha thứ của Thiên Chúa nơi
Chúa Giêsu Kitô phải là mẫu mực cho hành động của người Kitô hữu: “anh em phải
đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như
Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4:32; xem Cl 3:12). Một
lần nữa, ta không hành động dựa trên một cơ sở duy nhân đạo, mà đúng hơn, minh
nhiên dựa trên một cơ sở yêu người lân cận của Kitô học.
Đỉnh
cao và cũng là hệ quả thực tiễn mà quan điểm Kitô học này dẫn ta tới đã trở nên
hết sức rõ ràng, trước hết, trong bài ca ngợi tình yêu mà Thánh Phaolô đã viết
trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (13) (9). Vì tính phê phán cao độ và
trổi vượt của nó, ta phải hiểu đoạn văn này ngược với sự phấn khích của những người
cực đoan. Chống lại thứ phấn khích này, Thánh Phaolô muốn dẫn khởi tình yêu làm
thuốc sửa sai duy nhất cần thiết. Không có tình yêu, mọi điều khác, nói tiên
tri, hiểu biết các mầu nhiệm, kiến thức, đức tin, ngay cả các công trình vĩ đại
và việc bác ái, đều là số không; tất cả đều vô ích, không mang lại hiệu quả
nào. Điều này cũng đúng đối với những bài giảng chải chuốt nhất về mỹ từ học,
những nền thần học bác học nhất, những dấn thân nhiệt thành nhất với đức tin
chính thống, nếu chúng có tính tự cho mình là công chính, giáo điều, cao ngạo,
và thiếu yêu thương. Ngay việc tử đạo, ngay trong nó, cũng không đáng kể. Các người
lạc giáo, các người cộng sản, và nhiều nhóm khác cũng có các tử đạo của họ vậy.
Tình yêu mới là đặc điểm phân biệt người Kitô hữu đích thực (10). “Nếu tôi…
không có tình yêu, tôi là số không” (1Cr 13:2-3).
Tuy
nhiên, ta không nên nói tới một thứ ca khúc yêu đương, vì bài mô tả của Thánh
Phaolô không hề có tính cảm tình sướt mướt. Nó có tính cụ thể và hết sức hiện
thực. Chúa Giêsu Kitô chỉ cho ta con đường tình yêu. Con đường Chúa Giêsu đã
dùng để leo xuống với chúng ta là con đường duy nhất để ta leo lên tới Người
(11). Xét cho cùng, mọi điều khác đều sẽ qua đi; chỉ có tình yêu là tồn tại.
Tình yêu là cao cả nhất trong mọi sự vật (13:13). Nếu chỉ có tìh yêu là tồn tại,
thì các việc làm của tình yêu cũng sẽ tồn tại. Chúng là những điều duy nhất ta
có trong tay vào lúc phán xét cánh chung và, có thể nói, chúng là những điều
duy nhất mà chúng ta có thể trưng ra trước khi bị phán xét. Chúng còn mãi trong
sự hiện hữu liên tục của thực tại. Trong cái say sưa của tình yêu, sự việc cuối
cùng (eschaton) đã bắt đầu ló dạng ngay từ bây giờ.
Thánh
Gioan đã khai triển thêm các ý tưởng trên và hoàn toàn đào sâu chúng. Theo
ngài, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương (Ga 14:21) để ta có thể yêu thương
nhau (Ga 13:34). Dưới ánh sáng của nền tảng thần học chặt chẽ này, Thánh Gioan
nói đến giới răn yêu thương mới như đặc điểm để nhận biết người Kitô hữu: “Thầy
ban cho các con một giới răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu
thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau. Bởi điều này, mọi người sẽ
biết các con là môn đệ của Thầy, nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13:34-35).
Trong diễn trình này, Người nói rõ: tình yêu là dấu ấn đặc biệt của lối sống
Kitô Giáo. Thước đo tình yêu này vượt quá mọi thước đo bình thường của con
người; nó được đo bằng tình yêu được Chúa Giêsu chứng tỏ cho chúng ta bằng cách
hiến mạng sống Người. “Đây là giới răn của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu này là
hiến mạng sống mình vì bạn bè” (Ga 15:12-13).
Thư
thứ nhất của Thánh Gioan đã tiếp nhận các câu quả quyết trên:
“Ai
yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, … Nhưng ai ghét anh em mình
thì ở trong bóng tối, và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng
tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng… Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa'
mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người
anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.
Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì
cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 2:10-12; 4:20-21; xem 5:3; 2Ga 5tt).
Tất
cả các điều trên đều tùy thuộc câu khẳng định chính này: Thiên Chúa là tình yêu
(1Ga 4:8, 16).
Ta
có thể trích dẫn vô vàn chứng từ của các giáo phụ liên quan tới ý nghĩa nền
tảng và trung tâm của tình yêu người lân cận và lòng thương xót. Tôi chỉ xin
nhắc đến hai giáo phụ Hy Lạp mà thôi. Vào thời suy thoái kinh tế dẫn tới cảnh
thiếu thốn thảm thương cho nhiều bộ phận dân số, Thánh Basilêô đã cương quyết
bênh vực các người lao động ăn công ngày không một chút tài sản, các người nô
lệ, các nông dân nghèo khổ, các thợ thủ công và các thợ có tay nghề. Khi nạn
đói xẩy tới, ngài đả kích những kẻ kiếm lời và đầu cơ vô lương tâm và kêu gọi
họ phân phối của cải của họ (12). Giống như Chúa Giêsu, Thánh Chrysostom vạch
trần mọi thứ đạo đức giả hình. Theo ngài, tình yêu người lân cận là mẹ của mọi
đức tính tốt và là đặc điểm để phân biệt ai là Kitô hữu (13). Vì lý do này, Thánh
Basilêô mạnh mẽ kêu gọi lương tâm nhà giầu và bảo họ một cách chắc chắn rằng
mọi việc làm đạo đức của họ sẽ hoàn toàn vô ích nếu không có lòng từ nhân (14).
Đối với Thánh Chrysostom, tình yêu người lân cận tốt hơn mọi việc nhân đức khác
hay mọi hành vi đền tội, thậm chí hơn cả phúc tử đạo (15). Ngài nói: không có
đức khiết trinh, người ta vẫn thấy Thiên Chúa, nhưng nếu không có lòng thương
xót, họ không thể thấy Thiên Chúa (16). Do đó, khi nói đến các việc bề ngoài,
Thánh Tôma cho rằng lòng thương xót là summa religionis christianae (tóm
lược Kitô Giáo) (17).
Mối
phúc của người có lòng thương xót là một thuyết minh cụ thể của tình yêu người
lân cận. Nơi Dietrich Bonhoffer, ta tìm được lời giải thích đầy thuyết phục về
mối phúc này:
“Những
người không có tài sản hay quyền lực này, những kẻ xa lạ trên trái đất này,
những kẻ tội lỗi này, những kẻ theo chân Chúa Giêsu này, trong đời họ, họ đã
cùng với Chúa Giêsu từ bỏ phẩm giá của mình, vì họ là người có lòng thương xót.
Như thể các nhu cầu riêng của họ và nỗi khốn khổ của họ chưa đủ, họ đã mang lấy
các khốn khổ và nhục nhằn cũng như tội lỗi của người khác. Họ có một lòng yêu
thương không cưỡng lại được dành cho người bị chà đạp, người ốm đau, người bất
hạnh, người bị đối xử bất công, người bị xua đuổi và mọi người bị hành hạ lo
âu. Họ ra đi, tìm kiếm tất cả những ai đang vướng mắc vào các lao đao của tội
lỗi và mặc cảm tội lệ. Không nỗi khốn khổ nào quá lớn, không tội lỗi nào quá
kinh khủng đối với lòng từ bi của họ. Nếu một ai đó sa vào một nhục nhã, người
có lòng thương xót sẽ hy sinh chính danh dự của mình để che chở họ, và chuốc
lấy sự nhục nhã này. Người ta sẽ thấy họ đi an ủi các người thu thuế và các
người tội lỗi, bất chấp sự nhục nhã do việc này gây ra. Để có thể thương xót,
họ đã ném bỏ gia bảo vô giá nhất của đời người, là chính phẩm giá và danh dự
bản thân. Vì danh dự và phẩm giá duy nhất họ biết là lòng thương xót của Chúa
đối với họ, và đời họ chỉ mang ơn lòng thương xót này mà thôi. Người đã không
xấu hổ vì các môn đệ của Người, Người đã trở nên bằng hữu của nhân loại, và
mang lấy nỗi nhục của họ đế chết trên thập giá. Đó là cách Chúa Giêsu, Đấng
chịu đóng đinh, thương xót. Các môn đệ của Người hoàn toàn nợ lòng thương xót
này chính sự sống của họ” (18).
Kỳ
sau: 2. “Tha thứ cho nhau” và giới răn yêu thương kẻ thù
___________________________________________________________________________
(1) Martin Buber, “Nachahmung Gottes” trong Gesammelte Werke (Frankfurt-a-Main: S. Fischer, 1964), 2:1953-65; Ulrich Luz, Matthew 1-7: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2007), 289.
(2) Xem chương III.
(3) Paul Billerbeck và Hermann Leberecht Struck, hiệu đính, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch (Munich: Beck, 1922-61) I:203-5; IV: 559-610).
(4) Xem chương IV.
(5) Về việc giải thích và lịch sử giải thích giới răn này, xem Joachim Gnilka, Das Evangelium nach Markus (Neukirchen-Vluyn: Neukirchener Verlag, 1979), 162-68; Luz, Matthew 21-28: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2005), 75-87.
(6) Về lối giải thích Do Thái Giáo, xin xem Billerbeck và Struck, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch, I:900-8.
(7) Thánh Augustinô, Về Chúa Ba Ngôi, VIII, 8. Theo bản tiếng Anh Augustine: Later Works của John Barnaby (Philadelphia:Westminster, 1955), 52-53. Nhiều đoạn trong T.J. van Bavel, “Love” trong Augustine through the Ages: An Encylopedia, do Allan Fitzgerald và nhiều người khác hiệu đính (Garnd Rapids, MI: W.B. Eerdmans, 1999), 510f.
(8) Xem Luz, Matthew 21-28, 81-85. Chúng ta biết ơn Karl Rahner về các suy tư mạnh mẽ của ngài, dù có hơi một chiều, về sự hợp nhất giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người lân cận cũng như về ý nghĩa hiện nay của chúng: Karl Rahner, “Reflections on the Unity of the Love of Neighbour and the Love of God” trong Theological Investigations, cuốn 6, bản dịch của Karl H. và Bonfiace Kruger (Baltimore: Helicon, 1969), 231-49; cũng nên xem “ ‘Commandment’ of Love in Relation to the other Commandments” trong Theological Investigations, vol. 5, bản dịch của Karl-H. Kruger (Baltimore: Helicon, 1966), 439-59.
(9) Xem Wolgang-Schrage, Der erste Brief an die Korinther (Zurich: Benziger, 1999), 273-373, nhất là phần tóm lược ở các trang 319 tt.
(10) Thánh Augustinô, In evangelium Ioannis, 76, 2.
(11) Đức Lêô Cả, Tractatus, 74.
(12) Thánh Basilêô, Bài Giảng, 6.
(13) Thánh Gioan Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 18, n.8.
(14) Thánh Basilêô, “Bài giảng cho Người Giầu”, 3.
(15) Thánh Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 77, n.5tt.
(16) Thánh Chrysostom, Bài Giảng 47, n.4.
(17) Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, pt. II/II q.30, a.4, ad.2
(18) Dietrich Bonhoeffer, The Cost of Discipleship, bản dịch của R.H. Fuller (New York:Macmillan, 1972) 100-1.
___________________________________________________________________________
(1) Martin Buber, “Nachahmung Gottes” trong Gesammelte Werke (Frankfurt-a-Main: S. Fischer, 1964), 2:1953-65; Ulrich Luz, Matthew 1-7: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2007), 289.
(2) Xem chương III.
(3) Paul Billerbeck và Hermann Leberecht Struck, hiệu đính, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch (Munich: Beck, 1922-61) I:203-5; IV: 559-610).
(4) Xem chương IV.
(5) Về việc giải thích và lịch sử giải thích giới răn này, xem Joachim Gnilka, Das Evangelium nach Markus (Neukirchen-Vluyn: Neukirchener Verlag, 1979), 162-68; Luz, Matthew 21-28: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2005), 75-87.
(6) Về lối giải thích Do Thái Giáo, xin xem Billerbeck và Struck, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch, I:900-8.
(7) Thánh Augustinô, Về Chúa Ba Ngôi, VIII, 8. Theo bản tiếng Anh Augustine: Later Works của John Barnaby (Philadelphia:Westminster, 1955), 52-53. Nhiều đoạn trong T.J. van Bavel, “Love” trong Augustine through the Ages: An Encylopedia, do Allan Fitzgerald và nhiều người khác hiệu đính (Garnd Rapids, MI: W.B. Eerdmans, 1999), 510f.
(8) Xem Luz, Matthew 21-28, 81-85. Chúng ta biết ơn Karl Rahner về các suy tư mạnh mẽ của ngài, dù có hơi một chiều, về sự hợp nhất giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người lân cận cũng như về ý nghĩa hiện nay của chúng: Karl Rahner, “Reflections on the Unity of the Love of Neighbour and the Love of God” trong Theological Investigations, cuốn 6, bản dịch của Karl H. và Bonfiace Kruger (Baltimore: Helicon, 1969), 231-49; cũng nên xem “ ‘Commandment’ of Love in Relation to the other Commandments” trong Theological Investigations, vol. 5, bản dịch của Karl-H. Kruger (Baltimore: Helicon, 1966), 439-59.
(9) Xem Wolgang-Schrage, Der erste Brief an die Korinther (Zurich: Benziger, 1999), 273-373, nhất là phần tóm lược ở các trang 319 tt.
(10) Thánh Augustinô, In evangelium Ioannis, 76, 2.
(11) Đức Lêô Cả, Tractatus, 74.
(12) Thánh Basilêô, Bài Giảng, 6.
(13) Thánh Gioan Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 18, n.8.
(14) Thánh Basilêô, “Bài giảng cho Người Giầu”, 3.
(15) Thánh Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 77, n.5tt.
(16) Thánh Chrysostom, Bài Giảng 47, n.4.
(17) Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, pt. II/II q.30, a.4, ad.2
(18) Dietrich Bonhoeffer, The Cost of Discipleship, bản dịch của R.H. Fuller (New York:Macmillan, 1972) 100-1.
Sứ
điệp thương xót của Thiên Chúa không phải là một lý thuyết xa lạ đối với hành
động và thực tại của thế giới, nó cũng không dừng lại ở bình diện phát biểu cảm
xúc thương hại. Chúa Giêsu dạy ta phải có lòng thương xót như Thiên Chúa (Lc
6:36). Trong Bài Giảng Trên Núi, Người tuyên bố ai có lòng thương xót là người
có phúc (Mt 5:7). Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, ta đọc thấy: “Bởi thế anh em
hãy trở nên những người bắt chước Thiên Chúa, như những đứa con qúy yêu, và hãy
sống trong tình yêu, như Chúa Kitô yêu thương chúng ta và phó mình cho chúng
ta, như lễ dâng và hy lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa” (Ep 5:1-2). Chủ đề quán xuyến
imitatio Dei, bắt chước Thiên Chúa và hành động của Người nơi Chúa Giêsu Kitô
này, là điều nền tảng đối với Thánh Kinh (1). Do đó, sứ điệp thương xót của
Thiên Chúa có nhiều hậu quả đối với đời sống của mọi Kitô hữu, đối với triết lý
hành động mục vụ của Giáo Hội, và đối với các đóng góp mà các Kitô hữu nên cung
hiến cho việc cơ cấu hóa xã hội một cách nhân ái, công chính, và đầy lòng thương
xót.
1.
Tình yêu: giới răn chính của Kitô Giáo
Trong
Cựu Ước, các chữ “có lòng thương xót” và “thương xót” ít khi xuất hiện để lên
đặc điểm cho tác phong con người; tuy nhiên, thực tại mà các chữ này muốn ám
chỉ quả có trong Cựu Ước. Thánh Vịnh 15 trả lời câu hỏi:
“Lạy
Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa?
được ở trên núi thánh của Ngài?
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là
kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng
lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi
khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho
vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay” (Tv 15:1-5).
mà hại đến người ngay” (Tv 15:1-5).
Thánh
Vịnh 112:5 cũng nói một điều tương tự:
“Phúc
thay người biết cảm thương và cho vay mượn,
biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình”.
biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình”.
Chúng
ta cũng đã nói một cách chi tiết về trật tự xã hội trong Cựu Ước, vốn được sắp
đặt cho việc bảo vệ người yếu và người nghèo. Chúng ta cũng đã nói đến sứ điệp
của các tiên tri: lời chỉ trích của các ngài đối với các liên hệ bất công khiến
ta không còn gì để nói thêm (2). Tiên Tri Mikha tóm lược điều Thiên Chúa mong
chờ ở con người:
"Hỡi
người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt,
điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn." (Mk 6:8; xem Tb 12:8).
điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn." (Mk 6:8; xem Tb 12:8).
Nghĩa
vụ làm phúc bố thí đã được nhấn mạnh cách riêng (Tb 4:7-11; Hc 7:10, 29). Trên
nền tảng này, các việc yêu thương trong Do Thái Giáo sơ khai đóng một vai trò
quan trọng (3).
Chúa
Giêsu đứng trong truyền thống Cựu Ước – Do Thái Giáo trên. Sự liệt kê các việc
yêu thương trong diễn từ long trọng của Người về Phán Xét Chung đặc biệt tương
hợp với truyền thống Do Thái này: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ không
nhà đỗ nhờ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ yếu đau và bị giam cầm (Mt
25:35-39). Điều ngạc nhiên trong bảng liệt kê này là: Chúa Giêsu hoàn toàn chỉ
nêu các việc bác ái chứ không phải các việc đạo đức làm tiêu chuẩn để phán xét.
Khi làm như thế, Người đã dựa vào lời tiên tri Hôsê: “Ta muốn lòng thương xót,
chứ không muốn hy lễ” (Mt 9:13; 12:7; xem Hs 6:6; Hc 35:3). Do đó, trong Bài Giảng
Trên Núi, Người nói: “Bởi thế, khi các con dâng của lễ ở bàn thờ, nếu các con
nhớ anh chị em các con có điều gì chống lại các con, các con hãy để của lễ lại
trước bàn thờ và đi đi; trước nhất hãy giảng hòa với anh chị em các con đã, rồi
mới trở lại và dâng của lễ của các con” (Mt 5:23-24; xem Mc 11:25). Nếu ta thực
sự coi trọng các lời lẽ này của Chúa Giêsu, ta phải hỏi ta có hay tìm cách giảng
hòa trước khi đến cử hành Thánh Thể không và có hay giữ mình đừng rước lễ hay
không?
Chúa
Giêsu giải thích giáo huấn của Người bằng các dụ ngôn đầy ngạc nhiên (4). Dụ
ngôn Người Samaria nhân hậu của Người đã trở thành châm ngôn. Thời ấy, người Samaria không được coi là
người Do Thái chính thống. Thành thử, việc Chúa Giêsu chọn ngay người Samaria làm mẫu mực cho
tác phong chân chính quả có tính khiêu khích, và Người phán: “Hãy đi và làm như
vậy” (Lc 10:25-37). Trong dụ ngôn người đầy tớ không biết tha thứ, Chúa Giêsu
lại giải thích một lần nữa rằng ta phải tỏ lòng thương xót với những ai mắc nợ
ta, giống như Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với ta (Mt 18:23-35). Nếu Thiên
Chúa đã xử với ta một cách thương xót, thì ta, ta cũng phải tha thứ và tỏ lòng
thương xót lẫn nhau. Trong các hành vi thương xót của ta, lòng thương xót của
Thiên Chúa với người lân cận của ta được thể hiện một cách cụ thể. Trong các
hành vi thương xót của ta, người lân cận của ta cảm nghiệm được một điều gì đó lạ
lùng về sự thống trị vương giả của Thiên Chúa, một sự thống trị đã bắt đầu ló
dạng một cách bí mật. Nhờ cách này, lòng thương xót có nghĩa hơn một phúc lợi
an sinh xã hội hay một cơ quan bác ái hay chính trị xã hội (dù dĩ nhiên không
loại bỏ các cơ quan này).
Do
đó, chúng ta không ngạc nhiên bao nhiêu khi có người yêu cầu Chúa Giêsu nhận
diện giới răn lớn nhất, trong tinh thần Cựu Ước, Người đã chó đó là tình yêu
Thiên Chúa và tình yêu người lân cận (Mc 12:29-31; Mt 22:34-40, Lc 10:25-28)
(5). Cả hai giới răn vừa kể đều có trong Cựu Ước, tuy ở hai chỗ khác nhau (Đnl
6:5 và Lv 19:18), nhưng đã có khuynh hướng muốn đem chúng lại một chỗ (6). Với
Chúa Giêsu, chúng tạo thành một thể thống nhất hoàn toàn không thể phân ly. Khi
làm như thế, Chúa Giêsu đã mở rộng quan niệm người lân cận, vượt quá các quan
niệm của dân Do Thái, để áp dụng vào mọi người. Điều có tính căn bản từ nền
tảng là phải giữ cho cả hai giới răn đi đôi với nhau; sẽ không có tình yêu
Thiên Chúa nếu không có tình yêu người lân cận. Chỉ khi nào hai giới răn đi với
nhau, chúng mới tóm lược và chu toàn được trọn bộ lề luật. Đi với nhau, chúng mới
là tinh túy, là tóm lược, và là hình ảnh thu nhỏ của hiện sinh Kitô Giáo.
Thánh
Augustinô đã mô tả một cách đẹp đẽ cách hai giới răn này đi đôi với nhau:
“Đừng
có ai nói rằng: ‘Tôi không biết tôi phải yêu gì’. Họ hãy yêu người anh em của
họ, và họ sẽ yêu chính tình yêu ấy… Đối tượng của tình yêu bác ái phải là một
điều mà đức ái khiến ta phải yêu; và, nếu ta phải bắt đầu từ những người gần
nhất, thì đó chính là người anh em của ta… Dòng tư tưởng làm sáng tỏ đủ điều
này là cũng tình yêu huynh đệ này (tình yêu khiến ta yêu nhau) không phải… chỉ
là tình yêu ' vì Thiên Chúa' mà là tình yêu 'Thiên Chúa'… Từ điều vừa nó, ta có
thể suy ra rằng Hai Giới Răn này không thể tách biệt nhau” (7).
Nếu
ta xem xét sự nối kết trên một cách nghiêm túc, thì, lẽ dĩ nhiên, ta sẽ không
thể để tình yêu Thiên Chúa bị tan hòa vào tình yêu người lân cận, là tình yêu
chỉ có thể kết thúc bằng một chủ nghĩa nhân đạo một chiều, trong đó, tình yêu
Thiên Chúa và mối tương quan với Thiên Chúa, nói chung, sẽ biến mất. Tình yêu
triệt để đối với người lân cận mà Chúa Giêsu vốn đòi hỏi sẽ là điều bất khả nếu
không có sức mạnh phát sinh từ tình yêu Thiên Chúa (8).
Đối
với Thánh Phaolô cũng thế, tình yêu là chu toàn lề luật (Rm 13:10; Gl 5:14) và
là mối dây liên kết tuyệt hảo (Cl 3:14). Giống Chúa Giêsu, Thánh Phaolô cũng
tiếp nhận sứ điệp của Tiên Tri Hôsê để khuyên ta, “vì lòng thương xót của Thiên
Chúa”, hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên
Chúa (Rm 12:1; xem Ep 5:1tt). Hành động thương xót và tha thứ của Thiên Chúa
nơi Chúa Giêsu Kitô phải là mẫu mực cho hành động của người Kitô hữu: “anh em
phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như
Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4:32; xem Cl 3:12). Một
lần nữa, ta không hành động dựa trên một cơ sở duy nhân đạo, mà đúng hơn, minh
nhiên dựa trên một cơ sở yêu người lân cận của Kitô học.
Đỉnh
cao và cũng là hệ quả thực tiễn mà quan điểm Kitô học này dẫn ta tới đã trở nên
hết sức rõ ràng, trước hết, trong bài ca ngợi tình yêu mà Thánh Phaolô đã viết
trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (13) (9). Vì tính phê phán cao độ và
trổi vượt của nó, ta phải hiểu đoạn văn này ngược với sự phấn khích của những
người cực đoan. Chống lại thứ phấn khích này, Thánh Phaolô muốn dẫn khởi tình
yêu làm thuốc sửa sai duy nhất cần thiết. Không có tình yêu, mọi điều khác, nói
tiên tri, hiểu biết các mầu nhiệm, kiến thức, đức tin, ngay cả các công trình
vĩ đại và việc bác ái, đều là số không; tất cả đều vô ích, không mang lại hiệu quả
nào. Điều này cũng đúng đối với những bài giảng chải chuốt nhất về mỹ từ học,
những nền thần học bác học nhất, những dấn thân nhiệt thành nhất với đức tin
chính thống, nếu chúng có tính tự cho mình là công chính, giáo điều, cao ngạo,
và thiếu yêu thương. Ngay việc tử đạo, ngay trong nó, cũng không đáng kể. Các
người lạc giáo, các người cộng sản, và nhiều nhóm khác cũng có các tử đạo của
họ vậy. Tình yêu mới là đặc điểm phân biệt người Kitô hữu đích thực (10). “Nếu
tôi… không có tình yêu, tôi là số không” (1Cr 13:2-3).
Tuy
nhiên, ta không nên nói tới một thứ ca khúc yêu đương, vì bài mô tả của Thánh
Phaolô không hề có tính cảm tình sướt mướt. Nó có tính cụ thể và hết sức hiện
thực. Chúa Giêsu Kitô chỉ cho ta con đường tình yêu. Con đường Chúa Giêsu đã
dùng để leo xuống với chúng ta là con đường duy nhất để ta leo lên tới Người
(11). Xét cho cùng, mọi điều khác đều sẽ qua đi; chỉ có tình yêu là tồn tại.
Tình yêu là cao cả nhất trong mọi sự vật (13:13). Nếu chỉ có tìh yêu là tồn
tại, thì các việc làm của tình yêu cũng sẽ tồn tại. Chúng là những điều duy
nhất ta có trong tay vào lúc phán xét cánh chung và, có thể nói, chúng là những
điều duy nhất mà chúng ta có thể trưng ra trước khi bị phán xét. Chúng còn mãi
trong sự hiện hữu liên tục của thực tại. Trong cái say sưa của tình yêu, sự
việc cuối cùng (eschaton) đã bắt đầu ló dạng ngay từ bây giờ.
Thánh
Gioan đã khai triển thêm các ý tưởng trên và hoàn toàn đào sâu chúng. Theo
ngài, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương (Ga 14:21) để ta có thể yêu thương
nhau (Ga 13:34). Dưới ánh sáng của nền tảng thần học chặt chẽ này, Thánh Gioan
nói đến giới răn yêu thương mới như đặc điểm để nhận biết người Kitô hữu: “Thầy
ban cho các con một giới răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã
yêu thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau. Bởi điều này, mọi người
sẽ biết các con là môn đệ của Thầy, nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13:34-35).
Trong diễn trình này, Người nói rõ: tình yêu là dấu ấn đặc biệt của lối sống
Kitô Giáo. Thước đo tình yêu này vượt quá mọi thước đo bình thường của con người;
nó được đo bằng tình yêu được Chúa Giêsu chứng tỏ cho chúng ta bằng cách hiến
mạng sống Người. “Đây là giới răn của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu này là hiến
mạng sống mình vì bạn bè” (Ga 15:12-13).
Thư
thứ nhất của Thánh Gioan đã tiếp nhận các câu quả quyết trên:
“Ai
yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, … Nhưng ai ghét anh em mình
thì ở trong bóng tối, và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng
tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng… Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa'
mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người
anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông
thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa,
thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 2:10-12; 4:20-21; xem 5:3; 2Ga 5tt).
Tất
cả các điều trên đều tùy thuộc câu khẳng định chính này: Thiên Chúa là tình yêu
(1Ga 4:8, 16).
Ta
có thể trích dẫn vô vàn chứng từ của các giáo phụ liên quan tới ý nghĩa nền
tảng và trung tâm của tình yêu người lân cận và lòng thương xót. Tôi chỉ xin
nhắc đến hai giáo phụ Hy Lạp mà thôi. Vào thời suy thoái kinh tế dẫn tới cảnh
thiếu thốn thảm thương cho nhiều bộ phận dân số, Thánh Basilêô đã cương quyết
bênh vực các người lao động ăn công ngày không một chút tài sản, các người nô
lệ, các nông dân nghèo khổ, các thợ thủ công và các thợ có tay nghề. Khi nạn
đói xẩy tới, ngài đả kích những kẻ kiếm lời và đầu cơ vô lương tâm và kêu gọi
họ phân phối của cải của họ (12). Giống như Chúa Giêsu, Thánh Chrysostom vạch
trần mọi thứ đạo đức giả hình. Theo ngài, tình yêu người lân cận là mẹ của mọi
đức tính tốt và là đặc điểm để phân biệt ai là Kitô hữu (13). Vì lý do này,
Thánh Basilêô mạnh mẽ kêu gọi lương tâm nhà giầu và bảo họ một cách chắc chắn
rằng mọi việc làm đạo đức của họ sẽ hoàn toàn vô ích nếu không có lòng từ nhân
(14). Đối với Thánh Chrysostom, tình yêu người lân cận tốt hơn mọi việc nhân
đức khác hay mọi hành vi đền tội, thậm chí hơn cả phúc tử đạo (15). Ngài nói:
không có đức khiết trinh, người ta vẫn thấy Thiên Chúa, nhưng nếu không có lòng
thương xót, họ không thể thấy Thiên Chúa (16). Do đó, khi nói đến các việc bề
ngoài, Thánh Tôma cho rằng lòng thương xót là summa religionis christianae (tóm
lược Kitô Giáo) (17).
Mối
phúc của người có lòng thương xót là một thuyết minh cụ thể của tình yêu người
lân cận. Nơi Dietrich Bonhoffer, ta tìm được lời giải thích đầy thuyết phục về
mối phúc này:
“Những
người không có tài sản hay quyền lực này, những kẻ xa lạ trên trái đất này,
những kẻ tội lỗi này, những kẻ theo chân Chúa Giêsu này, trong đời họ, họ đã
cùng với Chúa Giêsu từ bỏ phẩm giá của mình, vì họ là người có lòng thương xót.
Như thể các nhu cầu riêng của họ và nỗi khốn khổ của họ chưa đủ, họ đã mang lấy
các khốn khổ và nhục nhằn cũng như tội lỗi của người khác. Họ có một lòng yêu
thương không cưỡng lại được dành cho người bị chà đạp, người ốm đau, người bất
hạnh, người bị đối xử bất công, người bị xua đuổi và mọi người bị hành hạ lo
âu. Họ ra đi, tìm kiếm tất cả những ai đang vướng mắc vào các lao đao của tội
lỗi và mặc cảm tội lệ. Không nỗi khốn khổ nào quá lớn, không tội lỗi nào quá kinh
khủng đối với lòng từ bi của họ. Nếu một ai đó sa vào một nhục nhã, người có
lòng thương xót sẽ hy sinh chính danh dự của mình để che chở họ, và chuốc lấy
sự nhục nhã này. Người ta sẽ thấy họ đi an ủi các người thu thuế và các người
tội lỗi, bất chấp sự nhục nhã do việc này gây ra. Để có thể thương xót, họ đã
ném bỏ gia bảo vô giá nhất của đời người, là chính phẩm giá và danh dự bản
thân. Vì danh dự và phẩm giá duy nhất họ biết là lòng thương xót của Chúa đối
với họ, và đời họ chỉ mang ơn lòng thương xót này mà thôi. Người đã không xấu
hổ vì các môn đệ của Người, Người đã trở nên bằng hữu của nhân loại, và mang
lấy nỗi nhục của họ đế chết trên thập giá. Đó là cách Chúa Giêsu, Đấng chịu
đóng đinh, thương xót. Các môn đệ của Người hoàn toàn nợ lòng thương xót này chính
sự sống của họ” (18).
Kỳ
sau: 2. “Tha thứ cho nhau” và giới răn yêu thương kẻ thù
___________________________________________________________________________
(1) Martin Buber, “Nachahmung Gottes” trong Gesammelte Werke (Frankfurt-a-Main: S. Fischer, 1964), 2:1953-65; Ulrich Luz, Matthew 1-7: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2007), 289.
(2) Xem chương III.
(3) Paul Billerbeck và Hermann Leberecht Struck, hiệu đính, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch (Munich: Beck, 1922-61) I:203-5; IV: 559-610).
(4) Xem chương IV.
(5) Về việc giải thích và lịch sử giải thích giới răn này, xem Joachim Gnilka, Das Evangelium nach Markus (Neukirchen-Vluyn: Neukirchener Verlag, 1979), 162-68; Luz, Matthew 21-28: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2005), 75-87.
(6) Về lối giải thích Do Thái Giáo, xin xem Billerbeck và Struck, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch, I:900-8.
(7) Thánh Augustinô, Về Chúa Ba Ngôi, VIII, 8. Theo bản tiếng Anh Augustine: Later Works của John Barnaby (Philadelphia:Westminster, 1955), 52-53. Nhiều đoạn trong T.J. van Bavel, “Love” trong Augustine through the Ages: An Encylopedia, do Allan Fitzgerald và nhiều người khác hiệu đính (Garnd Rapids, MI: W.B. Eerdmans, 1999), 510f.
(8) Xem Luz, Matthew 21-28, 81-85. Chúng ta biết ơn Karl Rahner về các suy tư mạnh mẽ của ngài, dù có hơi một chiều, về sự hợp nhất giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người lân cận cũng như về ý nghĩa hiện nay của chúng: Karl Rahner, “Reflections on the Unity of the Love of Neighbour and the Love of God” trong Theological Investigations, cuốn 6, bản dịch của Karl H. và Bonfiace Kruger (Baltimore: Helicon, 1969), 231-49; cũng nên xem “ ‘Commandment’ of Love in Relation to the other Commandments” trong Theological Investigations, vol. 5, bản dịch của Karl-H. Kruger (Baltimore: Helicon, 1966), 439-59.
(9) Xem Wpolgang-Schrage, Der erste Brief an die Korinther (Zurich: Benziger, 1999), 273-373, nhất là phần tóm lược ở các trang 319 tt.
(10) Thánh Augustinô, In evangelium Ioannis, 76, 2.
(11) Đức Lêô Cả, Tractatus, 74.
(12) Thánh Basilêô, Bài Giảng, 6.
(13) Thánh Gioan Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 18, n.8.
(14) Thánh Basilêô, “Bài giảng cho Người Giầu”, 3.
(15) Thánh Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 77, n.5tt.
(16) ThánhChrysostom, Bài Giảng 47, n.4.
(17) Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, pt. II/II q.30, a.4, ad.2
(18) Dietrich Bonhoeffer, The Cost of Discipleship, bản dịch của R.H. Fuller (New York:Macmillan, 1972) 100-1.
___________________________________________________________________________
(1) Martin Buber, “Nachahmung Gottes” trong Gesammelte Werke (Frankfurt-a-Main: S. Fischer, 1964), 2:1953-65; Ulrich Luz, Matthew 1-7: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2007), 289.
(2) Xem chương III.
(3) Paul Billerbeck và Hermann Leberecht Struck, hiệu đính, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch (Munich: Beck, 1922-61) I:203-5; IV: 559-610).
(4) Xem chương IV.
(5) Về việc giải thích và lịch sử giải thích giới răn này, xem Joachim Gnilka, Das Evangelium nach Markus (Neukirchen-Vluyn: Neukirchener Verlag, 1979), 162-68; Luz, Matthew 21-28: A Commentary, bản dịch của James E. Crouch (Minneapolis: Fortress, 2005), 75-87.
(6) Về lối giải thích Do Thái Giáo, xin xem Billerbeck và Struck, Kommentar zum Neuen Testament aus Talmud und Midrasch, I:900-8.
(7) Thánh Augustinô, Về Chúa Ba Ngôi, VIII, 8. Theo bản tiếng Anh Augustine: Later Works của John Barnaby (Philadelphia:Westminster, 1955), 52-53. Nhiều đoạn trong T.J. van Bavel, “Love” trong Augustine through the Ages: An Encylopedia, do Allan Fitzgerald và nhiều người khác hiệu đính (Garnd Rapids, MI: W.B. Eerdmans, 1999), 510f.
(8) Xem Luz, Matthew 21-28, 81-85. Chúng ta biết ơn Karl Rahner về các suy tư mạnh mẽ của ngài, dù có hơi một chiều, về sự hợp nhất giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người lân cận cũng như về ý nghĩa hiện nay của chúng: Karl Rahner, “Reflections on the Unity of the Love of Neighbour and the Love of God” trong Theological Investigations, cuốn 6, bản dịch của Karl H. và Bonfiace Kruger (Baltimore: Helicon, 1969), 231-49; cũng nên xem “ ‘Commandment’ of Love in Relation to the other Commandments” trong Theological Investigations, vol. 5, bản dịch của Karl-H. Kruger (Baltimore: Helicon, 1966), 439-59.
(9) Xem Wpolgang-Schrage, Der erste Brief an die Korinther (Zurich: Benziger, 1999), 273-373, nhất là phần tóm lược ở các trang 319 tt.
(10) Thánh Augustinô, In evangelium Ioannis, 76, 2.
(11) Đức Lêô Cả, Tractatus, 74.
(12) Thánh Basilêô, Bài Giảng, 6.
(13) Thánh Gioan Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 18, n.8.
(14) Thánh Basilêô, “Bài giảng cho Người Giầu”, 3.
(15) Thánh Chrysostom, Chú Giải Thánh Mátthêu, Bài Giảng 77, n.5tt.
(16) ThánhChrysostom, Bài Giảng 47, n.4.
(17) Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, pt. II/II q.30, a.4, ad.2
(18) Dietrich Bonhoeffer, The Cost of Discipleship, bản dịch của R.H. Fuller (New York:Macmillan, 1972) 100-1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét