Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

LINH MỤC ĐƯỢC CỬ HÀNH HAY ĐỒNG TẾ BAO NHIÊU THÁNH LỄ TRONG NGÀY?

LINH  MỤC  ĐƯỢC  CỬ  HÀNH  HAY  ĐỒNG  TẾ  BAO  NHIÊU  THÁNH  LỄ  TRONG  NGÀY?


 Hỏi:

        Xin cha giải thich rõ lại những câu hỏi sau đây:

        1-   Luật phụng vụ về cử hành Thánh Lễ và đồng tế của linh mục

        2- có nhiều linh mục đồng tế thì được ích lợi thiêng liêng ra sao ?

        3- có được phép gom nhiều ý lễ trong một Thánh Lễ hay không?

        4- có cần cầu cho các thai nhi và cho các linh hồn “mồ côi không?

        5- có được phép đi dự tiệc cưới của các cặp hôn nhân đồng tính không?

Trả lời:

   1-  Người Công Giáo Việt Nam sống ở Mỹ đều nhận thấy rõ điều này là: chỉ có ở các giáo xứ hay công đoàn Viêt nam (Cali, Houston, Dallas, New Ỏrleans…) mới có hiện tương nhiều linh mục đến đồng tế trong các lễ tang hay lễ cưới. 
Đây là điều bên Việt Nam cấm, và ngay cả các giáo xứ Mỹ, Hispanic, Phi, Đại Hàn, Tàu …cũng không có, mà chỉ ở các giáo xứ  hay Cộng Đoàn dành riêng cho giáo dân Viêt Nam mới có mà thôi.

Tại sao lại có hiện tượng các linh mục đồng tế nhiều như vậy ở các giáo xứ Viêt Nam ở Mỹ?

Trước khi trả lời cho câu hỏi trên, tưởng cũng cần nói rõ thêm một lần nữa là theo giáo luật, linh mục chỉ được phép cử hành MỘT Thánh Lễ mỗi ngày mà thôi, trừ trường hợp có nhu cầu mục vụ chính đáng, như có đông giáo dân dự lễ trong các ngày Chúa Nhật và lễ buộc, khiến không thể làm một lễ cho quá nhiều người tham dự được. Trong trường hợp này, Đấng bản quyền địa phương - cụ thể là Giám mục địa phận, có thể cho phép các linh mục trực thuộc làm 2 hay 3 lễ trong ngày để thỏa mãn nhu cầu mục vụ của giáo Xứ. (x. Giáo luật số 905).

Linh mục cử hành Thánh Lễ mà không được phép làm 2, hay 3 Lễ trong ngày, trừ trường hợp ngoại lệ  nói trên, thì linh mục đến đồng tế cũng phải theo luật này để không được đồng tế 2, hay 3 lễ trong ngày mà hoàn toàn vì lý do riêng, chứ không phải là vì nhu cầu mục vụ đòi buộc. Nghiã là không có luật ngoại lệ nào cho phép đồng tế nhiều lần như vậy trong một ngày. Chỉ có luật cấm linh mục Công Giáo dồng tế với các thừa  tác viên của các giáo đoàn chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo mà thôi, (x. giáo luật số 908)

Liên can đến câu hỏi 1, Thực tế mà nói thì sở dĩ có nhiều linh mục đồng tế trong các dịp lễ tang hay lễ cưới ở Mỹ là vì hai lý do sau đây:

a. Linh mục có thân nhân hay hay bạn bè quen biết có người qua đời hay lễ cưới của con em họ, nên  vì tình gia đình hay quen biết mà phải đi đồng tế.

b. Ngoài lý do nêu trên, có nhiều linh mục đi đồng tế vì được người ta mời cho có đông linh mục trong các dịp lễ tang hay lễ cưới, vì thân nhân muốn được hãnh diện hay khoe khoang với giáo xứ hay công đoàn. Tôi đã có lần chứng kiến trong một lễ có đông linh mục đồng tế, thân nhân của gia đình có lễ tang, đã cầm phong bì đến hỏi tôi  xem cha đó là ai để trao phong bì! Như vậy rõ ràng linh mục kia được ai mời đến cho đông, chứ không phải vì là thân nhân hay quen biết của gia đình có tang lễ.

 Một điều đáng nói thêm là ở địa phương kia nơi có nhiều linh mục bên Viêt Nam qua Mỹ du học và cư ngụ trong lãnh thổ giáo xứ. Nên mỗi dịp có lễ tang hay lễ cưới thì đa số các linh mục này đều đến đồng tế, mặc dù không có liên hệ họ hàng hay bạn bè với gia đình có lễ tang hay lễ cưới ! Họ đến vì được mời, chứ không phải vì liên hệ gia đình hay quen biết. Lại nữa cũng ở địa phương khác, các linh mục đã thi nhau đi đồng tế cuối tuần với 2, 3 lễ tang hay lễ cưới ở các giáo xứ quanh vùng.Vì các linh mục phải chạy từ xứ này sang xứ kia cho kịp giờ lễ, nên người  ta đã nói “ các cha đi sô ( show) cưối tuần như các ca sĩ đi show trình diễn hết chỗ này đến chỗ khác !

Một điều thông thường khó coi là thân nhân các lễ tang hay lễ cưới thường tặng phong bì cho các cha trước hay sau Thánh lễ. Nếu thật sự vì thân quen thì không cần thiết phải tặng phong bì, một tệ trạng mà linh mục cần tránh để khỏi mang tiếng là “đi Sô” để kiếm thêm thù lao không cần thiết cho đời sống linh mục ở Mỹ nói riêng. Không cần thết vì đời sống vật chất của linh mục ở Mỹ đã được cung cấp đầy đủ hơn các linh mục ở Âu Châu hay ở Viêt Nam rất nhiều, nên kiếm thêm tiền nhờ đi đồng tế để làm gì?

 Linh mục mà có nhiều tiền thì làm sao sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, “Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tư ý trở nên khó nghèo vì anh  em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” (2 Cor 8: 9)

Có sống đích thực tinh thần khó nghèo này của Chúa Kitô thì  linh mục mới có sức thuyết phục khi  giảng dạy cho giáo dân về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm, mà hơn ai hết linh mục phải là nhân chứng sống động bằng chính đời sống của mình trước mặt người đời. Linh mục mà  ham tiền, ham của cải và phương tiện vật chất sa hoa,   thì không thể sống gương khó nghèo của Chúa Kitô , “ Đấng  không có chỗ tựa đầu, trong khi con chồn có hang, chim trời có tổ”(Mt 8: 20 ).

Chúa nói:“ ai có tai nghe, thì nghe.” (Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8)

2- Có nhiều linh mục đồng tế thì được ích lợi thiêng liêng ra sao?

Tôi đã có dịp nói đôi lần về vấn đề này. Nay xin được nhắc lại một lần nữa là ơn thánh Chúa ban cho ai còn sống hay đã qua đời hoàn toàn là nhưng không (gratis = gratuitous) nghĩa là không thể mua được bằng tiền bạc, hay của cải vật chất nào. Cũng không lệ thưộc vào việc có nhiều hay ít linh mục đồng tế.

 Sự thật phải tin là: nếu một người, khi còn sống, đã hoàn toàn qui hướng đời mình về với Chúa, đã thực tâm yêu mến Chúa và cố gắng sống theo đường lối của Người, thì khi chết dẫu không có ai dâng lễ và đồng tế cầu nguyện cho, thì cũng không hề thiệt thòi gì, vì đời sống của mình đã đủ để Chúa đoái thương ban phúc trường sinh sau khi chết.

 Ngược lại, một người, khi còn sống, đã hoàn toàn  quay lưng lại với Chúa và khước từ lời Chúa mời gọi vào dự Bàn Tiệc Nước Trời,( Mt 22: 1-14), thì sau khi chết, dẫu có cả trăm linh mục, giám mục, Hồng Y và ngay cả Đức Thánh Cha dâng lễ cầu cho, thì cũng vô ích mà thôi. Ơn thánh Chúa ban không hề lệ thuộc vào có đông người làm lễ và cầu nguyện, mà căn cứ vào chính đời sống của một người cho đến ngày lìa đời.

Có thêm linh mục đồng tế và đông người cầu nguyện cho thì chỉ có ích cho các linh hồn đã ra đi trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa được hoàn hảo đủ để vào ngay Thiên Đàng, mà còn cần được thanh luyện ít nhiều thời gian nơi Luyên Tội. (Purgatory). Chỉ các linh hồn thánh đang còn ở nơi đây mới cần các Thánh trên Trời và người thân còn sống cầu nguyện và làm việc lành để đền thay cho họ được sớm vào hưởng Thánh Nhan Chúa cùng các Thánh các Thiên Thần trên Thiên Đàng. Sở dĩ các linh hồn cần sự trợ giúp này, vì họ  đã hết giờ làm việc lành để tự cứu mình rồi..( x SGLGHCG số 1030-1032)

Như thế, cần thiết phải sống ngay lành, mến Chúa và yêu người thực sự, cùng quyết tâm xa tránh tội lỗi trong suốt cuộc đời của mình trên trần thế, thì đó mới chính là bảo hiểm chắc chắn cho hy vọng  được cứu độ và sống đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Cho mục đích đó, không ai có thể làm thay cho mình, kể cả việc bỏ nhiều tiền ra xin lễ đời đời trước ở các nơi buôn thần bán thánh, trong khi chính mình lại không tự cứu mình bằng đời sống hoàn toàn qui hướng về Chúa và bước đi theo Chúa Kitô là “con Đường, là sự Thật và là sự sống.” (Ga 14: 6), thì cũng vô ích mà thôi.

Thiên Chúa là tình thương và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kito là vô giá và đủ cho con người được cứu độ. Nhưng tình thương và công nghiệp ấy không tự động áp dụng cho hết mọi người mà không đòi hỏi ai phải làm gì nữa để xứng đáng được hưởng nhờ công nghiệp ấy.

Nói rõ hơn, cần phải cộng tác với ơn cứu độ đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ thì mới xứng đáng để hưởng nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, “ Đấng đã hy sinh mạng sống của mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20:28).

Cộng tác với ơn cứu độ bằng  đời sống tin, cậy, mến có chiều sâu thực sự thì đó là cách thiết thực lo cho phần rỗi của mình. Còn  nhờ người khác cầu nguyện thêm cho chỉ là phần phụ mà thôi. Nói khác đi, nếu nhờ người khác làm thay cho, như bỏ nhiều tiền ra xin lễ đời đời trước ở các nơi buôn thần bán thánh, và nhờ các nhà Dòng cầu nguyện cho sau này, mà được bảo đảm cho phần rỗi của mình, thì những người giầu có sẽ vào Thiên Đàng hết, và chỉ người nghèo không có tiền xin lễ hay nhờ người khác cầu nguyện cho thì bị thua thiệt hay sao?

Chắc chắn không phải vậy, vì Thiên Chúa công bằng, ban ơn thánh của Người cho những ai có thiện chí cộng tác với ơn thánh đó để sống theo đường lối của Chúa và cậy nhờ công nghiệp cửu chuộc của Chúa Kitô để được cứu rỗi mà vào Nước Trời, sau khi chấm dứt hành trình con người trên trần thế này.

Như thế, ai cũng có thể được cứu rỗi, nếu có thiện chí muốn yêu mến Chúa và quyết tâm chống lại mọi cảm dỗ của ma quỉ, của bản năng yếu đuối và mời mọc quyến rũ của thế gian vô luân vô đạo. Không có quyết tâm này thì Chúa không thể cứu ai được. Chắc chắn như vậy.

3- Có được gom nhiều ý lễ để hưởng trọn bổng lễ trong một Thánh Lễ hay không?

Ở các giáo xứ hay Công đoàn Việt Nam, người ta thường nghe rao trước lễ các ý lễ (mass intentions) của người xin. Các ý lễ này có khi nhiều đến hai ba chục người xin được rao trong Thánh Lễ.

Nói đến ý lễ - về một phương diện- là nói đến bổng lễ (mass stipends) mà linh mục được hưởng khi dâng Thánh Lễ. Linh mục chủ tế hay đồng tế chỉ được hưởng một bổng lễ mà thôi, còn các bổng lễ khác phải nhường cho các mục đích của Giáo quyền sở tại. (x, giáo luật số 951). Nghĩa là dủ có nhiều ý lễ được rao trong Thánh lễ, linh mục cử hành không được phép hưởng tất cả bổng lễ của các ý lễ đó trong môt Thánh Lễ, vì mỗi Thánh Lễ, chỉ được hưởng một bổng lễ mà thôi, dù bổng lễ là ít hay nhiều. (giáo luật số 948).

Nếu linh mục muốn hưởng hết các bổng lễ thì phải dâng lễ cho đủ số bổng lễ muốn hưởng, Điều này linh mục phải giải thích rõ cho giáo dân biết để người ta khỏi hiểu lầm là linh mục đã gom các ý lễ trong một Thánh Lễ để hưởng hết mọi bổng lễ trong các ý lễ của người xin. Đây là vấn đề lương tâm công bằng mà mọi linh mục không thể bỏ qua để hưởng lợi theo ý riêng của mình.

Sau hết, cũng cần nó thêm là khi có người xin lễ đưa một số tiền to (100 hay 200 đô) mà chỉ nói là để xin lễ chứ không nói rõ là xin bao nhiêu lễ, thì linh mục cũng buộc phải làm lễ và hưởng bổng lễ theo qui định của giáo quyền sở tại (tử 5 đến 10 đô cho mỗi ý lề tùy mỗi Địa phận qui đinh, (x. Giáo luật số 950).

Nhưng nếu người xin đưa số tiền to và nói rõ nói là chỉ xin một lễ thôi, thì linh mục được hưởng số bổng lễ đó cách hợp lý

4- Có cần cầu nguyện cho các thai nhi và các linh hồn mồ côi không?

Ở các giáo xứ Việt Nam, người ta thường nghe có người xin lễ cầu cho các thai nhi và cho các linh hồn mồ côi. Điều này có hợp lý không ?

Trước hết phải nói ngay là các thai nhi hoàn toàn vô tội trước mặt Chúa, vì chúng chưa được sinh ra và có thể phạm tội cá nhân được, nên không cần ai phải cầu nguyện cho chúng. Chúng bị giết (phá thai) thì tội thuộc về kẻ đã phá thai hay giúp cho việc phá thai có kết quả. Do đó không cần phải xin lễ cầu cho các thai nhi như thực hành hiện nay ở các giáo xứ hay cộng đoàn Viet Nam ở Mỹ. Có chăng, các thai nhi chỉ chịu hậu quả của tội Nguyên Tổ (Original Sin) mà thôi.

    Nhưng nếu chúng không được rửa tội để tẩy sạch tội này, thì lỗi đó vẫn thuộc về cha mẹ thai nhi và kẻ đã giúp đỡ cho việc phá thai có kết quả. Thiên Chúa nhân từ không thể bắt lỗi các thai nhi vì chúng không được rửa tội. Tóm lại, không cần xin lễ cầu cho các thai nhi, và linh mục cần giải thich rõ cho giáo dân biết, và không  nên nhận tiền xin lễ của ai  cầu cho mục đích này, vì không hợp lý.

Lại nữa, cũng không nên nhận tiền xin lễ cầu cho “các linh hồn mồ côi”, như giáo dân Việt Nam thường làm ở các giáo xứ. Lý do là  không có linh hồn nào bị coi là mồ côi, hiểu theo nghĩa là không có ai cầu nguyện cho cả. Sự thật thì  Giáo Hội luôn cầu cho “các tín hữn đã ly trần”  trong mọi Thánh Lễ, dù không có ai xin lễ. Như thế,  có chăng chỉ nên xin lễ cầu chung hay cho riêng một số linh hồn đã ly trần,  để nếu họ còn  đang được thanh luyện  nơi luyện tội , thì  được  sớm vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa  mà thôi. Tóm lại, xin lễ cầu cho các linh hồn ở Luyện Tội là việc bác ái,  đạo đức đáng khen, nhưng đừng nói là cầu cho các linh hồn mồ côi vì lý do nói trên.

5- Có được dự tiệc cưới của các cặp hôn nhân đồng tính không?

Hôn nhân đồng tính (same sex marriage) là điều trái tự nhiên, và vô luân(immoral)  nên Giáo Hội không bao giờ nhìn nhận loại hôn nhân này giữa hai người nam hay hai người nữ. Đây là điều trái nghịch với mục đích của hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập và  truyền cho con người (trước tiên là  Adam và Eva) phải thi hành để “sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất,và thống trị mặt đất,”  (x.St 1:28)

Trung thành với ý muốn đó của Thiên Chúa,  Giáo Hội không bao giờ chấp nhân  hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ, vì nó trái tự nhiên và trái với mục đích của hôn nhân mà Thiên Chúa  đã thiết lập từ đầu; và sau này, Chúa Giêsu  đã nâng lên hàng bí tích.

 Vì Giáo Hội không công nhận, nên người Công giáo cũng không được phép dự nghi thức thành hôn (ở nơi nào cử hành nghi thức này) và tiệc cưới của những cặp hôn nhân đồng tính vì bất cứ lý do nào. Tham dự như vậy là vô tình tán thành việc kết hôn của họ, một gương xấu, một điều trái tự nhiên và vô luân mà người Công giáo phải xa tránh để bảo vệ truyền thống hốn nhân được Thiên Chúa thiết lập cho mục đích di truyền nòi giống, tức là cộng tác với Chúa trong việc sinh sản con người cho đầy mặt đất cho đến ngày mãn thời gian.

Ước mong các giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.Amen.


Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét