Nhận thức Ơn
Thiên Triệu
(Thu, 25/09/2014 - Trầm Thiên Thu
–Thanhlinh.net)
Nhận thức ơn gọi –
nhất là ơn gọi linh mục – là gì? Mỗi khi các chủng sinh bước vào niên học mới
và tái quyết định trở thành linh mục, rất nhiều thanh niên Công giáo tiếp
tục công việc đã đưa họ tới chủng viện: Nhận thức ơn thiên triệu linh
mục. Họ tiếp tục được giúp đỡ từ bạn bè, gia đình, các vị linh hướng và các
vị hữu trách đào tạo.
Nếu bạn quan tâm quá
trình này (hoặc bạn đang giúp đỡ người khác theo đuổi ơn gọi này), có những vấn
đề liên quan giới tính và sự chín chắn về cảm xúc mà bạn nên tự vấn, thảo luận
cởi mở và chân thành với người linh hướng và những người hữu trách.
Câu trả lời quả quyết
đối với bất kỳ vấn đề nào đều cho thấy lĩnh vực cần chú ý nhiều hơn trước khi
vào tiểu chủng viện, đặc biệt là trước khi vào đại chủng viện, hoặc tham dự các
khóa huấn luyện tiền thần học. Đồng thời điều đó cũng có thể cho thấy rằng bạn
KHÔNG có ơn gọi làm linh mục.
1. Hơn bất cứ thứ gì
khác, ước muốn trở thành linh mục chỉ vì bạn muốn “phục vụ” người khác?
Động lực thúc đẩy như
vậy rất đáng hoan nghênh. Các ứng viên tiến tới chức linh mục chắc chắn phải có
ước muốn phục vụ tha nhân. Có những trường hợp gọi là “ơn gọi muộn” – những đàn ông chưa kết hôn hoặc đã góa vợ, họ cảm
thấy việc trở nên linh mục là con đường để họ “phục vụ” tốt hơn trong Giáo hội. Động lực thúc đẩy như vậy cũng
đáng hoan nghênh, nhưng chưa đủ để chứng minh đích thực là ơn gọi linh mục.
Vấn đề chính đối với
một ứng viên tiến tới chức linh mục luôn luôn thế này: Bạn đã trải nghiệm “tiếng gọi” của Đức Kitô? Chữ “vocation” (ơn gọi, ơn thiên triệu,
thiên hướng) có nguồn gốc từ La ngữ là động từ “vocare” – kêu gọi, như Thánh sử Mác-cô tường thuật: “Người
lên núi và GỌI đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người.
Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao
giảng” (Mc 3:13-14).
Giáo hội luôn biết lời
mời gọi này của Đức Kitô như động lực đầu tiên đối với việc muốn trở thành linh
mục. Tuy nhiên, thực tế vẫn có những người được phong chức vì các động
lực khác, đôi khi có hại cho giáo dân. Đây là lý do cần chú ý vấn đề “đồng nhận thức” (co-discernment): Bạn
là ứng viên và những người đại diện Giáo hội cùng nhận biết bạn có ơn gọi trở
nên linh mục hay không. Nhưng buồn thay, vẫn có những người theo
đuổi chức linh mục vì các lý do sai trái(for all
the wrong reasons). Vì thế, trong tài liệu PPF (Program of
Priestly Formation – Chương trình Đào tạo Linh mục, xuất bản lần thứ 5), Hội
đồng Giám mục Hoa Kỳ (United States Conference of Catholic Bishops) đã nói: “Các
ứng viên có thể tiến tới chức linh mục phải cầu nguyện với Thiên Chúa và nói
với Giáo hội về việc nhận biết ơn gọi của mình. Sự liên kết này rất quan trọng
vì đó là thiên hướng chắc chắn để biết mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa
theo cách thức cá nhân và tập trung, như thể tiếng Chúa gọi đạt tới cá nhân
bằng con đường trực tiếp, không có cách nào khác là qua cộng đồng” (Pastores
dabo vobis, 37). Cuối cùng, được hướng dẫn đúng, cuộc đối thoại này có thể làm
cho ứng viên được chấp nhận, hoàn tất giai đoạn đầu về sự nhận thức ơn gọi”
(PPF, số 33).
Vấn đề chính trong sự “đồng nhận thức” này là tiết lộ sự thúc
đẩy nổi trội về lời mời gọi nhân đạo của chức linh mục Công giáo – tức là “việc phục vụ tha nhân”. Đối với người được mời gọi tiến tới chức linh mục, phải
có động lực thúc đẩy sâu xa từ đáy lòng, động lực chính trong đời sống, ngoài
các động lực khác với ước muốn phục vụ người khác. Đây là vài động lực thúc đẩy
cần thiết:
– Yêu mến Thánh Thể.
–
Ước muốn cử hành các Bí
tích cho dân Chúa.
– Ước muốn xây dựng Giáo hội và thúc đẩy
các mối quan hệ sâu xa trong giáo xứ.
– Ước muốn trở nên người tôi tớ và người
hướng dẫn tâm linh cho người khác.
– Ước muốn sống tốt lành theo kỷ luật
Kitô giáo.
Các động lực này còn
phôi thai khi bạn chuẩn bị vào chủng viện. Nhưng khả năng xác định các
động lực này và “liên kết” các điểm
với nhau để cấu thành chứng cớ đáng kể rằng ơn gọi của bạn là xác thực.
Cuối cùng, động lực
ban đầu của bạn phải nổi bật trong mối quan hệ thân mật với Đức Giêsu Kitô hằng
sống và phục sinh, Đấng đến gần bạn trên “bờ
biển cuộc đời bạn” và lên “chiếc thuyền cuộc đời bạn”. Từ đó,
bạn có thể chia sẻ với người khác về hành trình ơn gọi linh mục của bạn rằng đó
là do lòng yêu mến Chúa Kitô, như Ngài đã đón nhận Giáo hội là Vị Hôn
Thê, và suốt đời phục vụ Giáo hội vô điều kiện (x. Mt 20:28;
Mc 10:45). Đừng bao giờ có ý hưởng thụ hoặc an nhàn, dù chỉ đối với điều nhỏ bé
nhất!
Như vậy cũng chưa đủ
đối với ứng viên tiến tới chức linh mục nếu chỉ quyết định muốn “phục vụ người khác” với tư cách một
linh mục. Trái tim của họ phải gắn chặt vào Chúa Giêsu, Đấng mà họ nhận thức
được lời mời gọi bất khả từ là bước theo sát Ngài qua chức linh mục.
2. Bạn có cảm thấy hôn nhân không hấp dẫn?
Nếu vậy thì bạn “có vấn đề” đấy. Có thể nói thẳng: “Nếu
bạn cảm thấy hôn nhân không hấp dẫn, bạn không nên ước muốn trở thành
linh mục”. Hôn nhân là “ơn gọi tự
nhiên” nhằm duy trì nòi giống và bảo tồn nhân loại. Hôn nhân lãng mạn, thú
vị, nhưng cũng rất thực tế (xung đột, cãi nhau, tiền bạc, bệnh tật, lo lắng,
phiền phức, nhịn nhục,... và nhiều thứ rắc rối khác). Hôn nhân hấp dẫn lắm,
nhưng bạn từ khước vẻ hấp dẫn đó thì mới đáng nói, đáng trân trọng.
Chức linh mục không
dành cho những người coi đó là “sự thiếu
sót” vì tính cách yếu đuối nên khó hoặc không thể giao tiếp với phụ nữ.
Chức linh mục cũng không dành cho những người không yêu quý trẻ em. Nếu bạn cảm
thấy hôn nhân không hấp dẫn, không thích làm người chồng tốt và người cha tốt,
bạn cần tập trung để khám phá lý do bạn muốn trở thành linh mục để làm
gì. Điều này cần được giúp đỡ của giới chuyên môn.
3. Bạn có cảm thấy
thân mật với người khác là khó khăn hoặc ghê tởm?
Câu trả lời ở đây thực
sự là “cờ đỏ” (dấu hiệu báo động).
Người ta không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của “2002 John Jay Report on
the Causes and Context of the Sexual Abuse of Minors by Catholic Priests”
(Tường trình của John Jay về Nguyên nhân và Phạm vi Lạm dụng Tình dục Thiếu
niên của các Linh mục Công giáo Năm 2002). Bản tường trình này ghi: “Các
linh mục lạm dụng tình dục các thiếu niên không khác với các linh mục khác về
tâm lý hoặc trí tuệ nhưng dễ bị tổn thương, thiếu sự thân mật, và thiếu các mối
quan hệ thân thiết trước và trong thời gian học ở chủng viện”. Tôi
không có ý nói về bất cứ sự không thoải mái nào trong các mối quan hệ giữa các
cá nhân với nhau hoặc sự thiếu khả năng diễn tả và giao tiếp cảm xúc đều có thể
cho thấy rằng cá nhân đó là người lạm dụng tình dục. Nhưng bản
tường trình này đã “soi sáng” về tầm
quan trọng của việc chuẩn bị cho chức linh mục mà nhiều thập niên qua đã bị
khinh suất: Khả năng của chủng sinh (và cuối cùng là linh mục) được phong
phú hóa bằng cách giao tiếp tình cảm với người khác trong các mối quan hệ lành
mạnh và tốt đẹp.
Thật vậy, linh mục
không thể phát triển sự cam kết sống độc thân khiết tịnh mà không có vài người
bạn thân thiết, cả nam và nữ. Sự thân mật tình cảm không là thân mật
giới tính, và chắc chắn điều này phải được phân biệt đúng đắn về biên độ
giữa các cá nhân với nhau. Cũng đừng lầm lẫn sự thân mật tình cảm
(emotional intimacy) với sự lệ thuộc tình cảm (emotional dependency). Hơn
nữa, ở đây chúng ta đang nói về mức độ giao tiếp giữa các cá nhân với nhau thích
hợp với tình trạng độc thân khiết tịnh. Nói cách khác, đó là cách thể hiện quan
trọng về những gì chúng ta gọi là “chín
muồi tình cảm” (affective maturity).
Như đã nói rõ
trong PPF, cùng với các yếu tố khác, sự chín muồi tình cảm dẫn tới điều
này: “Đào sâu khả năng TRAO và NHẬN tình yêu, đó là khả năng tự vạch
trần thích hợp (capacity of appropriate self-disclosure), khả năng phát triển
và duy trì tình bạn lành mạnh, khả năng đặt ra biên độ thích hợp bằng cách
quyết không hành động theo cảm xúc lãng mạn và tự kiềm chế trước cơn cám dỗ”
(PPF, số 94).
Chúng ta muốn thấy các
ứng viên tiến tới chức linh mục vẫn phát triển tình bạn với cả nam lẫn nữ, với
cả người độc thân và người đã kết hôn, nhưng họ phải biết kiềm chế và được nâng
đỡ trong tình bạn lành mạnh.
4. Bạn có cảm thấy khó
tiết dục? Bạn có thường xem hình ảnh “đen”
trên Internet hoặc báo chí?
Nếu có, rất nguy hiểm!
Ai cũng muốn rằng ứng viên không thể hò hẹn (tình cảm), có thể duy trì và bảo
vệ đức khiết tịnh trong lành trước khi bắt đầu bước chân vào chủng viện.
Người ta cũng mong
muốn rằng chiến đấu với văn hóa khiêu dâm cần có thời gian để vượt qua. Chủng
viện là môi trường phát triển nhân đức khiết tịnh, xử lý các cuộc chiến tương
đối bình thường về lĩnh vực này. Nhưng chủng viện không là nơi để chiến đấu với
các vấn đề liên quan giới tính chưa được quyết định. Thái độ ám ảnh hoặc miễn
cưỡng phải được loại trừ trước khi vào chủng viện, nhất là các vấn đề liên quan
hình ảnh đồi trụy trên Internet hoặc báo chí. Người nghiện hình ảnh khiêu
dâm chứng tỏ rằng họ không thích hợp để tiến tới chức linh mục.
5. Bạn có chấp nhận và tôn trọng luật độc thân của Giáo hội? Bạn có muốn luật
này thay đổi trong triều đại giáo hoàng này hoặc triều đại giáo hoàng tương
lai?
Bạn phải tự vấn xem
mình có ơn gọi sống độc thân hay không – ơn gọi này khác với ơn gọi trở thành
linh mục. Ở mức độ nào đó, bạn phải biết rõ sự độc thân có ý nghĩa gì mà bạn
thề hứa tuân thủ – cùng với các cám dỗ và các sự chiến đấu khác – để phát triển
sự khao khát đức khiết tịnh suốt đời và khước từ sự hấp dẫn của tình dục. Chắc
chắn bạn không thể có lương tâm tốt trong bất cứ giai đoạn nào qua quá trình
đào tạo ở chủng viện khi bạn giấu giếm và muốn thân mật tính dục với người
khác, ngay cả sau khi thụ phong linh mục cũng vậy.
Do đó, chủng sinh phải
có khả năng khám phá vẻ đẹp của sự độc thân theo nền tảng thần học, phải nhận
thức được tình trạng độc thân, phải biết cảm thấy thoải mái khi sống độc thân
và khiết tịnh ngay cả khi giao tiếp với những bạn nữ đã kết hôn hoặc độc thân. Thật
vậy, độc thân được hiểu là một tặng phẩm, và là con đường hình thành sự phát
triển con người.
Nói cách khác, ứng
viên tiến tới chức linh mục thực sự cần coi tình trạng độc thân có sức thu hút
mạnh và có ý nghĩa sâu sắc về tâm linh – cách diễn tả lòng yêu mến Chúa Kitô và
Giáo hội. Trong tài liệu PPF, Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ nói: “Ứng
viên phải được chuẩn bị chấp nhận giáo huấn của Giáo hội về bản năng giới tính,
quyết định làm chủ các cơn cám dỗ về tình dục, được chuẩn bị sống khiết tịnh
trong mọi thứ tình bạn, và cuối cùng, được hướng dẫn kiềm chế sự ham muốn để có
thể sống lành mạnh, sống độc thân khiết tịnh bằng đức tin và tình yêu vị tha:
Biết quan tâm người khác, giúp họ đạt tới mức cao nhất, không đầu hàng, và đầu
tư mọi năng lực để chỉ phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa” (PPF, số 94).
Ứng viên chín muồi về
tình cảm sẽ phát triển các năng lực chính yếu, theo đuổi và nỗ lực vì mục đích
tốt lành của dân Chúa, để thánh hóa họ và tự thánh hóa. Ứng viên nhận thức được
như vậy có thể duy trì thói quen thân mật với Đức Kitô qua việc cầu nguyện hằng
ngày.
6. Ngoài các giờ kinh
chính thức, bạn có nhu cầu dành thời gian để cầu nguyện riêng hàng ngày?
Đời sống cầu nguyện là
“chìa khóa” để phát triển sự chín
muồi về tình cảm. Tại sao? Bởi vì sống thân mật với Thiên Chúa Ba Ngôi là “mối quan hệ riêng với Thiên Chúa, và cũng là giao tiếp với Giáo hội, Nhiệm Thể Đức Kitô”
(PPF, số 108). Hằng ngày kết hiệp thân mật với Đức Kitô bằng việc cầu
nguyện riêng (cầu nguyện thầm, suy niệm, đọc Kinh Thánh, trong phòng riêng
hoặc trước Thánh Thể) sẽ giúp ứng viên ước muốn kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, Đấng
kêu gọi họ. Điều đó cũng giúp ứng viên chín muồi về tình cảm và sinh hoa trái
khi kết hiệp với Giáo hội. Cầu nguyện là “địa điểm” mà linh mục hướng linh hồn tới Đấng Yêu Dấu, và giữ họ
theo hướng đúng là hướng về dân Chúa, dám chết vì đoàn chiên.
Trước mặt Thiên Chúa
và với lương tâm đúng đắn, bạn phải trả lời “không”
hoặc “có” đối với 6 câu hỏi trên đây.
Hãy tìn thác cuộc đời bạn vào Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Mạch mọi Sự Thiện. Hãy
phó thác cuộc đời bạn cho Đức Maria, Mẹ của các linh mục, xin Mẹ hướng dẫn bạn
trên hành trình trở thành linh mục của Thiên Chúa hằng hữu và hằng
sinh. Và đừng bao giờ quên noi gương Thánh linh mục Gioan Maria Vianney,
bổn mạng các linh mục.
Thiết tưởng cũng nên
nói thêm rằng Thánh Giáo hoàng Grêgôriô (540?-604) đã thẳng thắn và
cương quyết cách chức các linh mục bất xứng, cấm lấy tiền từ
nhiều loại lễ, nhưng ngài lấy tiền của Tòa Thánh giúp các tù nhân
của vua Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp
đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài nổi tiếng là nhà
cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Khi Rôma bị tấn công,
chính ngài đã dám đi chất vấn vua Lombard. [Ngài còn nổi tiếng về Bình Ca – gọi
là nhạc Gregorian, loại nhạc đặc trưng của Giáo hội Công giáo].
Thánh giám mục Êusêbiô
Vercelli (283?-371) nhận xét: “Cách tốt nhất để thánh hóa giáo
dân là PHẢI cho giáo dân thấy giáo sĩ vững mạnh nhân đức và sống
cộng đoàn”. Đó mới là mục tử hết mình vì đoàn chiên. Còn Thánh linh mục
Don Bosco tâm niệm: “Da mihi animas, coetera tolle – xin cho tôi các
linh hồn, còn mọi sự khác cứ lấy đi”. Ước gì Giáo hội có được những mục tử “lành nghề” để phục vụ Thiên Chúa!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét