Oct
26, 2014 – Chúa nhật 30 thường
niên năm A
Điều răn lớn
nhất
Các Bạn thân mến,
Từ ngày tổ phụ Adong và Eva không vâng lời Thiên Chúa, bị đuổi ra
khỏi địa đàng, sống vất vả khổ sở, còn phải chiến đấu với nhau,
với mọi sự, mọi thứ vô hình, hữu hình chung quanh như ma qủi, các loài động vật, thực vật,
thiên nhiên, khí hậu, thời tiết, địa hình…nên con người đã ý thức được rằng mình cần có
Thiên Chúa, cần sống đoàn kết, yêu thương và qui tụ với nhau. Vì thế sự kính thờ Thiên Chúa, và
thương yêu giúp đỡ bao bọc nhau là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên mức độ và sự hiểu biết còn qúa
non nớt, sơ sài, vụng về, chưa đúng, chưa đủ, chưa xứng. Vì thế Thiên Chúa đã truyền dạy cách thờ phượng
Ngài, cách cư xử với nhau qua tiếng nói của các ngôn sứ, các tiên tri, các tổ phụ, các nhà lãnh đạo dân
chúng. Được ghi lại qua Luật Mose, Mười Điều Răn, sách Tiên Tri, sách Xuất Hành, sách Sáng Thế Ký,
sách Levi…để dân chúng truyền nhau tuân giữ, thực hành.
Cùng với thời gian qua đi, luật lệ đã trở nên qúa nhiều, qúa
rắc rối, qúa tỉ mỉ… bao bọc, cột trói con người. Hiển nhiên ai cũng
mong muốn chỉ phải giữ những luật pháp quan trọng, cần thiết…Nên khi Đức Giesu, Đấng Thiên
Sai từ trời đến rao giảng luật mới, đạo mới của Ngài, người Do Thái như được
cởi trói,
thoát khỏi gông cùm…họ lũ lượt đi theo để được nghe Lời Ngài. Còn những đạo sĩ,
biệt phái thì luôn muốn thử thách Ngài, nhưng trong thâm họ chắc cũng muốn được tìm
hiểu về Ngài, về luật lệ Ngài truyền dạy?
Tin Mừng ngắn gọn của Thánh Mattheu chúa nhật tuần này thuật lại rằng:”khi nghe tin Đức Giesu
đã làm nhóm Sadoc phải câm miệng, thì những người Phariseu họp nhau lại. Rồi
một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giesu để thử
Ngài rằng:”Thưa Thầy, trong sách luật Mose, điều răn nào là điều răn
lớn nhất?”
Đức Giesu đáp:”Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là
ngươi phải yêu người thân cận như chính mình…”
Đây là một câu hỏi thực tế, nhưng cũng là câu hỏi mà các giáo sĩ
Do Thái như giáng thêm một đòn tấn công mới nữa vào Đức Giesu. Nhân dịp này Ngài đã đưa ra một
định nghĩa đầy đủ về tín ngưỡng của Ngài. Thật ra những điều Ngài đưa ra không mới mẻ gì, con người thế gian
cũng biết tôn kính Tạo Hóa, cùng biết giúp đỡ tương trợ nhau. Nhưng điểm đặc biệt nơi giáo huấn của
Ngài là cả Mười Điều Răn Ngài đã đặt
trên hai nguyên tắc lớn, rồi lại sát nhập hai điều răn ấy thành một, nâng lên
thành luật ngang hàng với nhau. Và
không cho phép các tín hữu tùy thích, tùy chọn, mà phải tuân giữ cả hai điều
răn ấy.
1. Đức tin hệ tại ở sự kính yêu Thiên Chúa:
- Điều răn thứ nhất Đức Giesu nói phải
Tôn Kính Thiên Chúa, với nghĩa tôn kính tất cả những gì về Thiên Chúa, dù thấy hay
không, hiểu được hay mù tịt, cả về bản tính Thiên Chúa, Danh của Chúa, thời gian của Chúa, những yêu cầu
của Chúa, những việc làm của Chúa…
- Phải tôn kính như sự dâng hiến cho Thiên
Chúa một tình yêu trọn vẹn, cả tâm trí, linh hồn, trái tim, tâm lòng, như một tình yêu
chế ngự lý trí, cảm xúc và thân xác của con người.
- Nếu chúng ta đã biết tin Đức Giesu là Thiên
Chúa trời đất, đã tạo dựng nên mọi loài mọi vật thì cũng dễ dàng chấp nhận yêu mến
kính thờ Ngài trên hết mọi sự, vì đó là điều dễ hiểu, phải lẽ, và hợp lý ...
- Điều răn Tôn Kính Thiên Chúa này, bao gồm tôn
kính việc làm của Thiên Chúa.
- Trong đó gần gũi, liên hệ và quan trọng cần
thiết nhất mà Đức Giesu đã ban cho chúng ta đấy là ông bà, cha me, anh em,
con cái, bạn bè, …
- Nghĩa là chúng ta phải tôn kính sự sống của
con người, của cải của con người, phẩm cách và danh dự của con người, cũng như tôn
trọng chính
mình.
- Tuy nhiên vì cuộc sống có muôn vàn khó khăn, rắc rối
cũng như muôn vàn cạm bẫy của mọi thế lực thù hận với Thiên Chúa, với
con người… Đã khiến chúng ta phải chiến đấu không ngừng, nên mỏi mệt, dễ buông lơi, chán nản, muốn
thoải mái, an ủi…Dẫn đến tình trạng thờ ơ, coi thường hay lãng quên bổn phận với Thiên Chúa.
- Mà quay đi tìm kiếm các thần tượng khác, cụ thể, gần
giũ làm cho mình tự thỏa mãn, như bùa ngải, bói toán theo mê tín dị đoan,
công danh sự nghiệp, tiền bạc của cải, sắc dục, và những sở thích ham muốn khác của tinh thần, tình cảm,
thể xác…
- Để giảm, tránh được những
cám đó, chúng ta phải duy trì liên tục sự tôn kính Thiên Chúa, luôn nhớ lại
thân phận mình với tất cả những gì chúng ta đã được cùng với thời gian… bởi lòng tin ngưỡng bắt
đầu bằng tình yêu, phó thác hoàn toàn đời sống mình cho Thiên Chúa.
- Bên cạnh đó chúng ta còn phải
luôn tỉnh thức cầu nguyện, học tập, rèn luyện, dề cao cảnh giác, tránh nhưng đi cạm bẫy…Tuyệt
đối không được coi thường những cám dỗ, những nguy cơ, mà nên luôn nghĩ đến hậu
quả của việc kính yêu hoặc coi thường Thiên Chúa.
2. Điều răn thứ hai:
- “Yêu người thân cận như chính mình.”
- Với nghĩa không giới hạn, Đức Giesu nói
rõ yêu người thân cận như người ấy là chính mình, nghĩa là chúng ta không đồng hóa một
ai.
- Điều này diễn tả một sự hiệp thông giữa
hai hữu thể, giữa hai cuộc sống khác nhau để nên một, như anh em cùng nhà
- Tình yêu thương của chúng ta đối với
Thiên Chúa phải được phát huy trong tình yêu thương đối với con người.
- Bình thường ai yêu mình, cũng muốn mọi sự
tốt đẹp cho mình bằng cách trau dồi, rèn luyện để có thể tiến tới đời sống thánh
thiện đạo đức, có tinh thần mạnh mẽ, ngay thẳng, trách nhiệm, có kiến thức
sâu rộng, có tâm hồn cao thượng cởi mở, có tấm lòng nhân hậu, có tình cảm chan hòa, có thân xác khỏe mạnh…
và sau cùng được hạnh phúc trên Nước Trời.
- Vì thế gần như chúng ta không thấy ai
ghét bỏ, khinh khi chính bản thân mình, nên chúng ta cũng không thể ghét
bỏ khinh khi người thân cận và phải mong muốn họ có đời sống tinh thần và thể xác tốt đẹp lành mạnh
như chính chúng ta.
- Mặt khác, khi chúng ta chân thành yêu mến
ai thì thường cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm thân tình tự nhiên
như vậy.
- Điều răn này cần thiết cho sự an bình,
hòa thuận, no ấm của gia đình, khu xóm, làng nước, xã hội, Giáo hội và
cả thế giới, nên Đức Giesu đã đưa lên ngang hàng với điều răn thứ nhất.
- Ngài đặt con người vào đúng vị trí và tước
hiệu Ngài dựng nên từ ban đầu, là hình ảnh Thiên Chúa và là con Thiên Chúa.
- Nên nguyên tắc, những điều răn này có gía
trị đời đời mà chúng ta phải theo, phải tôn giữ mãi mãi.
- Tình yêu thương của chúng ta đối với
Thiên Chúa phải được phát huy trong tình yêu thương đối với con người.
- Đây là một thách đố lớn nhất
mà con người mọi thời đại, mọi tầng lớp phải vượt qua.
- Vì yêu thương những người có quan hệ tốt,
rộng lượng nhân ái… thì dễ dàng, nhưng thật khó có thể nhìn thấy Chúa nơi người
khác để mà yêu thương khi họ đáng ghét và ghê tởm?!
- Nhưng đó lại là cách duy nhất để người ta
có thể chứng minh lòng kính yêu Thiên Chúa.
- Tuy nhiên cần phải lưu ý về thứ tự của sự
yêu thường này: yêu mến Thiên Chúa, chính mình rồi mới đến người khác.
- Chỉ khi nào chúng ta yêu mến Thiên Chúa,
chúng ta mới thấy có thể yêu mến người khác, vì lúc đó con người mới trở nên
đáng yêu.
- Bởi con người được tạo nên giống hình ảnh
Thiên Chúa, vì thế yêu Chúa là yêu người và yêu người cũng là yêu Chúa vậy.
- Nhưng suy cho cùng, nếu không có tình yêu
của Thiên Chúa, chúng ta chẳng thể hòa hợp cảm thông nhau, chẳng có bình
an, khó giao hòa với nhau, và xã hội có thể bi quan vì không hoán cải được con người tội lỗi.
- Nên tình yêu thương con người phải đặt
trên nền tảng vững chắc trên tình yêu của Thiên Chúa mới khả thi và tồn tại.
- Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người
tuy là một lý tưởng, nhưng không do tình cảm mơ hồ, mà bằng sự dấn thân trọn vẹn
trong tinh thần tận hiến với Thiên Chúa và nhiệt thành phục vụ người khác.
- Môt khía cạnh quan trọng khác nữa là
dụ ngôn của
Đức Giêsu còn cho thấy tình yêu Ngài dành cho chúng ta có thể thay đổi chúng ta và ban cho chúng ta sức mạnh để
trở nên người giầu yêu thương như Ngài vẫn thấy nơi tiềm năng của chúng ta.
- Lưu ý rằng tình y-êu
nằm nơi trọng tâm lời dạy và cuộc đời Đức Giêsu. Và trong tất cả hành vi của
Ngài, không
hành vi nào biểu lộ tình yêu rõ rệt hơn việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự.
- Phải mừng vì Ngài đã ban cho
chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu không thấy mình
đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được.
- Bên cạnh dấu hiệu của tình
yêu, việc chịu đóng đinh cũng là lời mời gọi mọi người đến với tình yêu.
- Đức Giêsu đã mời gọi chúng
ta như thế, chứng tỏ Ngài nghĩ rằng tình yêu của chúng ta là quí giá.
- Ngài dạy chúng ta rằng chúng
ta có thể giúp đỡ kẻ khác bằng tình yêu của mình giống như Ngài đã dùng tình yêu của Ngài để
giúp đỡ chúng ta.
- Đúng vậy, kinh nghiệm
cho chúng ta thấy rằng lòng tự trọng của tuổi trẻ sẽ tiến bộ rất nhiều khi họ
khám phá
ra tình yêu của họ là đáng giá.
- Chúng ta có thể thấy đựơc
sự đổi thay sâu xa khi một bạn trẻ dấn thân vào một chương
trình phụng sự như: dạy kèm thêm cho các lớp nhỏ hơn, đọc sách cho người mù nghe, hoặc thăm viếng
người già cả neo đơn… Thường đây là cơ hội để họ khám phá ra mình có giá trị, mình có khả năng
giúp đỡ tha nhân.
- Ngoài dấu chỉ tình yêu như lời
mời gọi đến với tình yêu, thập giá Đức Giêsu còn là sự mặc khải cho chúng ta về
tình yêu rằng tình yêu thương kéo
theo đau khổ.
- Điều ấy cũng chống lại sự dối trá đang liên tục xẩy
ra hằng ngày cho rằng người ta có thể gíup kẻ khác mà mình chẳng phải mất mát gì hết. Nhưng Đức
Giesu cho chúng ta thấy yêu thương và giúp đỡ kẻ khác bao giờ cũng kéo theo đau khổ cho chính
mình.
- Thât thế, không đau khổ sao
được khi phải nhẫn nại với người thân yêu phản bội mình. Không đau khổ sao được khi phải thứ
tha cho đứa con hoang đàng và phải đón nó trở về nhà. Không đau sao được
khi phải khiêm tốn nhìn nhận giống cậu con trai hoang đàng rằng mình đã sai lầm…
- Ðiều này dẫn chúng ta tới chủ
điểm sau cùng là: chúng ta nên vui mừng khi cảm thấy đau khổ vì đã dấn thân vào tình yêu.
Chúng ta nên vui mừng khi phải đau khổ với cùng một người về cùng một việc hết ngày này qua
ngày nọ. Chúng ta nên vui mừng khi cảm thấy đau khổ vì bị mất đi một cơ hội để hãnh diện, hoặc mất
đi một vinh dự hay một dịp thăng quan tiến chức...
3. Tuy hai nhưng là một:
- Luật mến Chúa yêu người mà
Đức Giêsu nêu lên trong Tin Mừng hôm nay là luật quan trọng duy nhất làm cho các cá nhân trong gia
đình nhân loại có thể nối kết lại với nhau.
- Cả hai vế mến Chúa - yêu
người chỉ là một hành động của đức bác ái trong Đạo Bác Ái Đức Kitô.
- Hai điều răn này cần thiết bảo
đảm cho trật tự, bình an và hòa bình trên trời dưới đất mà Thiên Chúa đã thiết lập, vì thế Đức Giesu đã nâng lên ngang hàng với nhau, hòa quyện
vào nhau thành một.
- Vì là một hành động duy nhất,
nên trước hết các tác động phản ảnh việc tôn thờ Chúa luôn liên hệ tới việc yêu tha nhân.
- Thí dụ việc tôn thờ Chúa trong
thánh đường là việc tôn thờ rất hiển nhiên của mọi Kitô hữu. Vào đó, ai cũng nghiêm trang kính cẩn, giục lòng tôn thờ yêu
mến Chúa. Mỗi người đều hướng nhìn lên cung thánh và bàn thờ, và hình như không ai để ý đến người
bên cạnh! Quan sát thế, người ta tưởng việc tôn thờ Chúa không có chút gì liên hệ đến việc
yêu tha nhân, bởi ai cũng lo thờ Chúa hết lòng.
- Thực ra sự liên hệ của
tình yêu Chúa và tha nhân không hệ tại thái độ hay tư thế của việc thờ phượng, nhưng nằm trong việc diễn tả, tức hành động của việc
thờ phượng.
- Khi một Kitô hữu đến tham
dự Thánh Lễ, là người đó tham dự trực tiếp vào việc
cứu chuộc nhân loại của Đức Kitô. Việc tham dự này có tính cách cứu chuộc chỉ nhờ sống mầu nhiệm cứu chuộc với
Đức Kitô, chứ hành động tôn thờ cá nhân mà thôi sẽ không đem lại hiệu qủa ơn cứu chuộc.
- Nhưng điểm quan trọng hơn vẫn là sống mầu nhiệm cứu
chuộc của Thánh Lễ sau khi ra khỏi thánh đường, nghĩa là cuộc đời người Kitô hữu trở nên
một Thánh Lễ nối dài trong cuộc sống để diễn tả tình yêu Chúa và tha nhân.
- Nhưng điểm quan trọng hơn vẫn là sống mầu nhiệm cứu
chuộc của Thánh Lễ sau khi ra khỏi thánh đường, nghĩa là cuộc đời người Kitô hữu trở nên
một Thánh Lễ nối dài trong cuộc sống để diễn tả tình yêu Chúa và tha nhân.
- Thứ đến, một hành động bác ái cá nhân nào dù âm thầm
hay công khai cũng đều diễn tả sự thờ phượng và yêu mến Thiên Chúa.
- Đức Giêsu dạy mỗi người chúng ta là chi thể của Ngài.
Như thế khi giúp đỡ tha nhân tức là giúp đỡ chính thân thể của Ngài. Việc giúp đỡ này rất hiển
nhiên và quan trọng nói nên việc thờ phượng Chúa hết lòng.
- Nên chúng ta không thể tách rời Thiên Chúa ra
khỏi tha nhân hoặc ngược lại.
- Luật Chúa tóm tắt trong việc mến Chúa yêu người. Luật
này biến nhân loại thành một gia đình tình yêu lý tưởng trong Thiên Chúa.
- Mà có thể nói gia đình là nơi lý tưởng nhất của
cuộc sống, vì từ nơi đó sự sống con người bắt đầu hiện hữu, và cũng từ nơi đó cuộc đời nhân loại từng bước
hình thành những giai đoạn cuộc đời, để tỏa ra muôn hướng cuộc sống làm nên những xã hội
khác nhau của con người, và sự duy nhất trong bản tính con người của toàn thể nhân loại.
- Gia đình lý tưởng chỉ hiện hữu nhờ vào tình yêu phản ảnh
gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi; ngược lại, thiếu vắng điều đó, gia đình lập tức tan rã để nhường
chỗ cho những ốc đảo cô đơn.
Lạy Chúa, thế giới hôm nay càng ngày càng tự mãn tự hào với bộ
óc mà Ngài đã ban cho, với cặp mắt Ngài đã mở cho
sáng, với trái tim Ngài đã sưởi ấm… Nhưng con người vẫn muốn làm theo ý riêng, tinh thần vẫn
cứng cỏi, hẹp hòi, mắt vẫn muốn nhìn những điều ưa thích, trái tim vẫn muốn
chọn lựa, lòng trí mắt vẫn muốn nhìn những điều ưa thích, trái tim vẫn muốn chọn lựa, lòng trí vẫn
bị cái lạnh lẽo đe dọa…
Xin cho chúng con ngọn lửa nhiệt thành trong trái tim Chúa, để
chúng con hết lòng kính yêu phụng sự Ngài và anh em.
Cùng biết vượt qua kiêu căng, ích kỷ, hận thù đố kỵ, thất bại đắng cay, bất hạnh
tủi khổ, và những thách đố của nền văn minh thời đại, văn
minh của sự chết, để chúng con luôn giữ vững hai điều.
Xin cho chúng con ngọn lửa nhiệt thành trong trái tim Chúa, để
chúng con hết lòng kính yêu phụng sự Ngài và anh em.
Cùng biết vượt qua kiêu căng, ích kỷ, hận thù đố kỵ, thất bại đắng cay, bất hạnh
tủi khổ, và những thách đố của nền văn minh thời đại, văn
minh của sự chết, để chúng con luôn giữ vững hai điều răn Chúa
dạy hầu qua đó, chúng con tìm đựơc ý nghĩa của cuộc sống mình. Amen. (mượn ý)
Than men,
duyenky
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét