Tháng Năm nghĩ về Phụ nữ
(Wed,
29/04/2015 -Trầm Thiên Thu –
thanhlinh.net)
Tháng Năm
có Ngày của Mẹ vào Chúa Nhật thứ nhì. Mẹ là phụ nữ. Phụ nữ là hoa. Mỗi chúng ta
đều có một người mẹ. Mẹ thật kỳ diệu. Đặc biệt hơn, chúng ta có Mẹ Thiên Chúa,
một loại kỳ hoa dị thảo của Thiên Chúa.
Có nhiều
loại hoa, với muôn hương và muôn sắc. Hoa là biểu tượng của vẻ đẹp dịu dàng. Có
một loài hoa đặc biệt là “hoa biết nói cười”, là công trình kỳ diệu của Thiên
Chúa, đó chính là Phụ Nữ.
Jean
de La Bruyère (1645-1696, triết gia và nhà luân lý) đã nhận xét tinh tế: “Khuôn
mặt đẹp là cái đẹp nhất của tất cả cảnh sắc và nhịp điệu êm ái nhất là giọng
nói của người phụ nữ ta yêu”. Còn danh nhân Eunpide so sánh: “Nơi người
phụ nữ quyến rũ lòng người nhất không phải là cái đẹp mà là sự cao quý”.
Sách
Talmud của Do Thái có ghi: “Phụ nữ đi ra từ chiếc xương sườn của người nam,
chứ không từ bàn chân chàng để làm tấm thảm chùi chân chàng, cũng không từ cái
đầu để mà cao hơn chàng, mà từ cạnh sườn chàng để làm người đồng hàng với
chàng, ngay bên dưới cánh tay chàng để được che chở, và cạnh trái tim chàng để
được yêu thương”.
Câu
nói trên đây rất “gần gũi” với sách Sáng Thế của Công giáo, về việc Thiên Chúa
dựng nên phụ nữ từ chiếc xương sườn của đàn ông, nghĩa là một nữ và một nam
được Thiên Chúa liên kết thành vợ chồng qua bí tích Hôn Phối, như Chúa Giêsu
xác định: “Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì
Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19:6). Sự kết
hợp Âm Dương cũng kỳ lạ: Nữ giới là Âm, nam giới là Dương; đất là Âm, trời là
Dương; đêm là Âm, ngày là Dương. Con người “phát hiện” quy luật đó nhờ Tạo Hóa
đã sáng tạo, Đấng đó chính là Thiên Chúa.
Phụ
nữ rất nhiều chuyện để nói, xưa nay người ta nói tới rất nhiều mà vẫn chẳng hết
chuyện. Kẻ ưa, người ghét; kẻ bênh vực, người đả phá. Chính phụ nữ cũng có
người hiền lành, chịu đựng, nhưng cũng có người ma mãnh, thâm độc. Ở đây, chúng
ta chỉ nhắc tới đôi nét về một số phụ nữ trong Kinh Thánh mà thôi.
PHỤ
NỮ TRONG CỰU ƯỚC
Kinh
Thánh nhắc tới nhiều phụ nữ trong nhiều hoàn cảnh và nhiều lý do. Phụ nữ được ví
là “hoa biết nói” và được mệnh danh là “người đẹp”, dù là Chung Vô Diệm hoặc
Thị Nở thì họ vẫn… “dễ thương”. Có lẽ “cái đẹp” ở phụ nữ không là ngoại hình mà
là sự dịu dàng, yểu điệu, duyên dáng,… Như Jean de La Bruyère đã xác định: “Không
có phụ nữ xấu, mà chỉ có phụ nữ không biết làm đẹp”. Cựu ước cho biết:
– Khi gần
vào Ai-cập, ông Áp-ram nói với bà xã xinh đẹp là bà Xa-ra: “Bà coi, tôi biết
bà là một người phụ nữ có nhan sắc. Khi người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói:
‘Vợ hắn đấy!’, họ sẽ giết tôi và để cho bà sống. Vậy xin bà cứ nói bà là em
tôi, để vì bà, người ta xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống” (St 12:11-13).
–
Ông Áp-ra-ham cầu nguyện với Thiên Chúa và Thiên Chúa chữa lành vua
A-vi-me-léc, vợ vua và các nữ tỳ của vua, cho họ có thể sinh con, bởi trước đấy
Đức Chúa đã làm cho mọi phụ nữ trong gia đình vua A-vi-me-léc không sinh
đẻ được, vì chuyện bà Xa-ra, vợ ông Áp-ra-ham (St 20:17-18).
–
Khi Ê-xau được bốn mươi tuổi thì lấy hai người vợ là Giu-đi-tha, con gái ông
Bơ-ê-ri người Khết, và Ba-xơ-mát, con gái ông Ê-lôn người Khết. Hai người
phụ nữ này làm cho ông I-xa-ác và bà Rê-bê-ca phải cay đắng trong lòng (St
26:34-35).
–
Khi chiến mã của Pha-ra-ô cùng với chiến xa và kỵ binh tiến vào biển, Đức Chúa
cho nước biển ập xuống trên họ, còn con cái Ít-ra-en thì đi giữa lòng biển khô
cạn. Nữ ngôn sứ Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cầm lấy trống; mọi phụ nữ
theo bà đi ra, đánh trống và nhảy múa. Bà Mi-ri-am xướng lên rằng: “Hãy
hát mừng Đức Chúa, Đấng cao cả uy hùng, kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống
đại dương” (Xh 15:19-21).
–
Các ngươi phải thờ phượng Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc phúc
cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi. Trong xứ
của ngươi, sẽ không có phụ nữ sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho ngươi sống
đầy đủ số năm tháng ngày giờ dành cho ngươi (Xh 23:25-26).
– Mọi
phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã dệt đến: vải đỏ tía và
vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. Mọi phụ nữ có nhiệt tâm và khéo
tay thì lấy lông dê mà kéo sợi (Xh 35:25-26).
–
Ông Bơ-xan-ên làm cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng, với những gương soi cho phụ
nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ (Xh 38:8).
–
Khi một phụ nữ khấn hứa với Đức Chúa và tự buộc mình làm điều gì, lúc
thiếu thời còn ở nhà cha, và nếu cha người ấy nghe nói về lời khấn hứa và điều
người ấy tự buộc mình làm, mà ông vẫn im lặng, thì mọi lời khấn hứa của người
ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực.
Nhưng nếu cha người ấy phản đối ngay trong ngày ông nghe biết được, thì mọi lời
khấn hứa và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, không có hiệu lực. Đức Chúa sẽ
dung thứ cho người ấy, vì cha người ấy đã phản đối (Ds 30:4-6).
–
Nếu người phụ nữ ấy đi lấy chồng, khi vẫn còn phải giữ những lời khấn
hứa hay bị ràng buộc bởi một lời hứa thiếu suy nghĩ nào miệng người ấy đã thốt
ra, và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng trong ngày nghe biết được
chuyện ấy, thì những lời khấn hứa của người phụ nữ ấy có hiệu lực, và những điều
mà người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. Nhưng nếu trong ngày nghe
biết được, chồng người ấy phản đối, thì anh ta huỷ bỏ lời khấn hứa còn ràng
buộc người vợ, và lời hứa thiếu suy nghĩ người vợ đã tự buộc mình phải giữ, Đức
Chúa sẽ dung thứ cho người phụ nữ ấy (Ds 30:7-9).
–
Lời khấn hứa của người đàn bà goá hoặc bị chồng bỏ, và mọi điều
người ấy tự buộc mình làm, đều có hiệu lực đối với người ấy. Nếu tại chính nhà
chồng, một phụ nữ đã khấn hứa hoặc lấy lời thề tự buộc mình làm điều gì, và nếu
người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng, không phản đối, thì mọi lời khấn hứa
của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có
hịệu lực. Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ ngay trong ngày nghe biết, thì mọi điều
miệng người vợ thốt ra khi khấn hứa và tự buộc mình làm, sẽ không có hiệu lực:
người chồng đã huỷ bỏ, thì Đức Chúa cũng dung thứ cho người phụ nữ ấy (Ds
30:10-13).
–
Ông Mô-sê nói với họ: “Sao anh em lại để cho cả bọn đàn bà này sống? Chính
bọn chúng đã nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung
với Đức Chúa trong vụ Pơ-o, nên tai hoạ đã giáng xuống cộng đồng của Đức Chúa.
Vậy bây giờ, hãy giết hết các con trai, cũng như mọi phụ nữ đã biết đến việc
vợ chồng, đã ăn ở với đàn ông. Còn mọi con gái nhỏ tuổi chưa ăn ở
với đàn ông, thì hãy để cho chúng sống và thuộc về anh em. Về phần anh em, ai
đã giết người, ai đã đụng tới người bị sát hại, hãy đóng quân ngoài trại trong
bảy ngày. Anh em cũng như các tù nhân đều phải thanh tẩy mình vào ngày thứ ba
và thứ bảy. Anh em phải thanh tẩy mọi quần áo, mọi đồ bằng da, mọi sản phẩm
bằng lông dê và mọi đồ gỗ” (Ds 31:15-20).
–
Ông Mô-sê và tư tế E-la-da làm như Đức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. Trong số
chiến lợi phẩm, có 675.000 chiên dê, 72.000 bò bê, 61.000 con lừa, và 32.000 phụ
nữ chưa ăn ở với đàn ông (Ds 31:31-35).
– Về
gia nghiệp của phụ nữ có chồng, các gia trưởng của thị tộc con cái ông
Ga-la-át, con ông Ma-khia, cháu ông Mơ-na-se, trong số các thị tộc con cái ông
Giu-se, tiến đến và lên tiếng trước mặt ông Mô-sê và các đầu mục cũng là gia
trưởng của con cái Ít-ra-en mà rằng: “Đức Chúa đã truyền lệnh cho đức ông
phải dùng lối bắt thăm mà chia đất cho con cái Ít-ra-en làm gia nghiệp. Đức ông
cũng nhận được lệnh của Đức Chúa bắt phải ban gia nghiệp của ông Xơ-lóp-khát,
người anh em của chúng tôi, cho các con gái ông ấy. Mà nếu các cô này
lấy chồng thuộc các chi tộc con cái Ít-ra-en, gia nghiệp của họ sẽ bị xén khỏi
gia nghiệp cha ông chúng tôi. Gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi
tộc mà họ sẽ là thành viên, và như vậy phần gia nghiệp của chúng tôi sẽ bị xén
bớt. Đến lúc con cái Ít-ra-en mừng năm toàn xá, gia nghiệp của họ sẽ nhập vào
gia nghiệp của chi tộc mà họ là thành viên, và sẽ bị xén khỏi gia nghiệp của
chi tộc cha ông chúng tôi” (Ds 36:1-4).
– Về
chiến tranh, Kinh Thánh nói: “Ai là người đã đính hôn với một phụ nữ
mà chưa cưới? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ cưới
nàng” (Đnl 20:7).
PHỤ
NỮ TRONG TÂN ƯỚC
Bà
tổ Eva đã nghe lời đường mật của ma quỷ mà bất tuân lệnh Thiên Chúa, và rồi bà
còn cám dỗ ông tổ Ađam cùng ăn trái cấm bằng những lời “ngọt như mía lùi”. Vì
thế, chính vẻ yếu đuối lại chính là thế mạnh của phụ nữ. Họ khiến nam giới “sập
bẫy” mà không ngờ. Tân ước cũng nói nhiều về phụ nữ:
–
Chúa Giêsu nhắc nhở nam giới về đôi mắt: “Ai nhìn người phụ nữ mà
thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:28).
–
Sau khi được truyền tin, Đức Maria đi thăm người chị họ là bà Ê-li-da-bét. Thấy
cô em, bà Ê-li-da-bét chúc mừng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ,
và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42).
–
Khi Đức Giêsu đang ở làng Bê-ta-ni-a tại nhà ông Si-mon Cùi, có một người
phụ nữ đến gần Người, mang theo một bình bạch ngọc, đựng một thứ dầu thơm
đắt giá. Cô đổ dầu thơm trên đầu Người, lúc Người đang dùng bữa. Thấy vậy, các
môn đệ lấy làm bực tức nói: “Sao lại phí của như thế? Dầu đó có thể bán được
nhiều tiền mà cho người nghèo”. Biết thế, Đức Giêsu bảo các ông: “Sao
lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm cho
Thầy một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em; còn
Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu! Cô ấy đổ dầu thơm trên mình
Thầy là hướng về ngày mai táng Thầy. Thầy bảo thật anh em: Tin Mừng này được
loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc
cô vừa làm mà nhớ tới cô” (Mt 26:7-13). Nhưng Chúa Giêsu nói: “Tội của
chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được
tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7:47).
–
Đức Giêsu biết có người sờ vào áo mình nên ngó quanh để nhìn người phụ nữ
đã làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà
đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người nói với bà
ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi
hẳn bệnh” (Mc 5:32-34).
–
Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng
đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành thì đang lúc người ta khiêng một người
chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá.
Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng
thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” (Lc 7:13). Rồi Người lại gần, sờ vào
quan tài và cho người con sống lại.
–
Khi Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng
Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ
đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la,
người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của
vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình
mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ (Lc 8:1-3).
–
Đức Giêsu vào làng kia, có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào
nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe
lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa
Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó
giúp con một tay!”. Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng
nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt
nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10:38-42).
–
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên
tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”
(Lc 11:27). Nhưng Người đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ
lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
–
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó, có một
phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà
không thể nào đứng thẳng lên được. Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: “Này
bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!”. Rồi Người đặt tay trên bà,
tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa (Lc 13:11-13).
–
Khoảng 12 giờ trưa tại giếng Gia-cóp, có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến
lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”.
Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Sa-ma-ri
liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho
ông nước uống sao?”. Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người
Sa-ma-ri. Đức Giêsu trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai
là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy
đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4:7-10).
–
Một lần nọ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một
phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với
Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong
sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy,
Thầy nghĩ sao?”. Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng
Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người
ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném
trước đi” (Ga 8:3-7). Tất nhiên chẳng ai dám làm gì người phụ nữ đó.
–
Nhóm Sa-đốc không tin có sự sống lại, nên họ hỏi Chúa Giêsu về một phụ nữ
lấy bảy anh em trai làm chồng, thế thì phụ nữ đó sẽ là vợ ai trong bảy anh
chồng, Chúa Giêsu nói: “Trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy
chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:30; Mc 12:25; Lc
20:36).
–
Trên đường vác Thập giá lên Đồi Sọ, Chúa Giêsu bảo các phụ nữ xót xa cho Ngài: “Hỡi
chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận
mình và cho con cháu” (Lc 23:28).
–
Khi Chúa Giêsu trút hơi thở trên Thập giá tại Đồi Sọ, có nhiều người phụ nữ
đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giêsu từ Ga-li-lê để giúp đỡ
Người. Trong số đó, có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và
Giô-xếp, và bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (Mt 27:55-56).
–
Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la
và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ
dội. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Này các bà, các bà đừng
sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì
Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau
về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi
Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho
các bà hay”. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui
mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay (Mt 28:5-8).
Sách
Khải Huyền cũng đề cập hình ảnh phụ nữ:
– Có
điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời,
chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang
kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con (Kh 12:1-2).
– Có
điềm khác xuất hiện trên trời: Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười
sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao
trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người
Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh
được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà
chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.
Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho
bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi
ngày (Kh 12:3-6).
–
Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ
Nữ đã sinh con trai. Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc,
vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa thời,
ở xa Con Rắn (Kh 12:13-14).
–
Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người
còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa
và giữ lời chứng của Đức Giêsu (Kh 12:17).
– Những
người ấy đã không ra ô uế bởi phụ nữ, vì họ còn tân. Con Chiên đi đâu,
họ cũng đi theo đó. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa
dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên (Kh 14:4).
Ngày
nay, người ta không còn “gay gắt” như ngày xưa về quan niệm “nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô” (một trai coi như là CÓ, mười gái cũng chỉ là KHÔNG), cho thấy
mức bình đẳng giới đã biến chuyển. Vì phụ nữ bị coi thường nên thế giới đã có
Ngày Quốc Tế Phụ Nữ (8-3) để tôn vinh nữ giới, đồng thời có những hoạt động bảo
vệ phụ nữ, và thế giới còn dành Chúa Nhật thứ hai trong Tháng Năm là Ngày Hiền
Mẫu – tôn vinh những người mẹ và cũng là tôn vinh nữ giới. Đó là bước tiến khả
quan. Ngày nay, chúng ta thấy có những phụ nữ làm được những việc rất lợi ích
cho cộng đồng, thậm chí có những phụ nữ trở thành thủ tướng hoặc nguyên thủ
quốc gia.
Người
phụ nữ đầu tiên trên thế giới là Bà Tổ Eva, Bà được mệnh danh là MẸ CỦA CHÚNG
SINH (St 3:20). Có một phụ nữ nhận mình là nữ tỳ, luôn khiêm nhường và sẵn sàng
xin vâng, đó là Đức Maria, được mệnh danh là MẸ THIÊN CHÚA (Lc 1:43). Qua đó,
chúng ta thấy phụ nữ có vị trí quan trọng chứ không như người ta nghĩ.
Tháng Năm
lại về, muôn lòng nô nức hướng về Mẹ Mai Côi, mọi người hân hoan kính dâng Đức
Mẹ không chỉ đơn thuần là những đóa hoa đủ loại, đủ hương, đủ sắc,… mà quan
trọng hơn là nhữnh đóa-hoa-lòng tỏa hương thánh thiện. Xin dâng Mẹ Ngàn Hoa
đóa-hoa-thơ, dù sai vần lạc điệu nhưng thành kính:
Tháng Năm tươi thắm muôn hoa
Lòng con cũng chợt chan hòa niềm vui
Xin tung hô Mẹ Chúa Trời
Phụ nữ tuyệt vời nhờ tiếng “xin vâng”
Xin dâng Mẹ đóa Hoa THƯƠNG
Hoa VUI, Hoa SÁNG, Hoa MỪNG đời con
Bốn hoa bốn sắc nồng nàn
Ví như trời đất luân phiên bốn mùa
Xin thương, lạy Mẹ nhân từ
Dạy con sống giữa bộn bề lo toan
Đường trần lắm nỗi gian nan
Bước bên Mẹ sẽ bình an cuộc đời
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, chúng con là con cháu của
Bà Tổ Êva nơi lũng đầy nước mắt, xin Mẹ thương đoái nhìn, luôn nâng đỡ, chở che
để chúng con luôn biết “xin vâng” như Mẹ, và dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu
Kitô, Nguồn Ơn Cứu Độ muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét