CUỘC CHIẾN CHỐNG NỮ GIỚI
(2016-05-07- TRẦM THIÊN THU)
Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Đó là quan niệm cổ xưa hủ lậu, thế nhưng ngày nay vẫn chưa thực sự chấm dứt!
Mara
Hvistendahl lo lắng về số phận các cô gái. Không chỉ
về vấn đề chính trị, luân lý hoặc văn hóa mà còn về
vấn đề sinh tồn. Đúng vậy. Ở Trung quốc (TQ), Ấn Độ và nhiều
quốc gia khác (các nước
phát triển và đang phát triển),
nam giới nhiều hơn nữ giới, do hậu quả của việc chống lại nữ giới. Trong việc chọn lựa không tự nhiên, bà Hvistendahl tường
trình về sự mất cân bằng giới tính này: đó là vấn
đề, là phương cách và là ý
nghĩa đối với tương lai.
Theo tự nhiên, 105 bé trai sinh ra đối
với 100 bé gái. Tỷ
lệ này là theo sinh học.
Mức chênh lệch giữa 104 và 106 là tỷ lệ
bình thường. Bất cứ tỷ lệ nào khác đều là bất thường.
Nhưng
ngày
nay, ở Ấn Độ có 112 con trai đối với 100 con gái. Ở TQ, tỷ lệ này là 121 –
dù nhiều thành phố ở TQ hơn tiêu chuẩn 150. Dân số TQ và Ấn Độ rất đông đến nỗi tỷ lệ giới tính ở các vùng xa chênh lệch
từ mức trung bình
toàn cầu tới mức không thể về sinh học là 107. Nhưng sự mất cân bằng này không chỉ ở Á châu. Azerbaijan
ở mức 115, Georgia ở
mức 118 và Armenia
ở mức 120.
Nguyên nhân có tỷ lệ chênh lệch này là do nạn phá thai. Nếu
tỷ lệ nam giới trên 106, như
vậy là các cặp
vợ chồng đã phá thai
khi họ biết thai nhi là
gái. Theo tính toán của bà
Hvistendahl, đã có quá nhiều vụ phá thai vì chọn lựa giới tính trong 30
năm qua, với 163 triệu
bé gái đáng lẽ được
sinh ra mà lại bị
giết chết khi chưa chào đời. Một con số đáng quan ngại về luân lý!
Giữa thập niên 1970, việc chọc ối (amniocentesis, chọc
ối để biết giới tính thai nhi trong tử cung) trở nên phổ biến ở các nước đang phát triển. Mới đầu chỉ để xem thai nhi có bất
thường hay không, thập
niên 1980 người ta gọi là “xét nghiệm giới tính” (sex test) ở Ấn Độ và các nước khác, những nơi mà các bậc cha mẹ luôn ưu tiên con trai. Khi việc
chọc ối được thay thế bằng kỹ thuật siêu âm vừa rẻ vừa ít hại, thì đa số các cặp vợ chồng muốn có con trai đều có thể biết trước giới tính thai nhi, nếu
không là con trai, họ sẽ quyết định. Một biển quảng cáo ở bệnh viện Ấn Độ ghi: “Thà tốn 500 rupi bây giờ hơn là tốn 5.000 rupi sau này”.
Bà Hvistendahl nói: “Thường thì những
người giàu, không
phải người nghèo, là những
người không
thích có con gái. Chọn
giới tính chủ yếu bắt đầu
ở những
người giàu và có học thức.
Giới thượng lưu
là những người đầu
tiên tiếp cận với
kỹ thuật
tân tiến
như MRI (máy cộng hưởng
từ), điện
thoại thông minh
(smart phones), hoặc
siêu âm (ultrasound machines)”. Việc quyết định bỏ thai nhi gái
thường do phụ nữ – do
chính người mẹ hoặc mẹ chồng.
Nếu
khó biết đủ dữ liệu, bạn vẫn có thể thấy các bậc cha mẹ muốn có con trai. Chẳng
hạn ở Nam Hàn.
Năm 1989, tỷ lệ
giời tính đối với con đầu lòng là 104
nam và 100 nữ – tỷ
lệ rất bình thường. Nhưng các cặp vợ chồng có con gái càng ngày càng muốn
có con trai. Đối với
lần sinh thứ hai, tỷ
lệ nam giới là 113, tỷ lệ sinh con lần ba lên tới 185. Tỷ lệ sinh lần bốn cao khủng khiếp là 209. Thậm chí còn báo động hơn ở cộng đồng người Do Thái (diaspora). Nghiên cứu
cho thấy rằng kiểu chọn giới tính tương tự cũng xảy ra ở các vợ chồng người Trung quốc, Ấn Độ và Hàn quốc ngay tại Hoa Kỳ.
Bà
Hvistendahl tranh luận rằng những sự mất cân bằng như vậy là các điềm gở báo những điều không hay sắp xảy ra. Bà viết: “Về lịch sử,
các xã hội mà đàn
ông nhiều hơn đàn bà là những
nơi không thú vị
để sống. Thường
là không ổn định. Đôi khi đầy
bạo lực”. Tỷ lệ giới tính chênh lệch
nhiều sẽ như thế kỷ thứ IV trước công nguyên ở Athens – một thời kỳ đẫm máu trong lịch
sử Hy Lạp – và thời kỳ phiến loạn của TQ hồi giữa thế kỷ XIX. Cả hai thời kỳ này đều giết hại các thai nhi
nữ. Bà cũng chú ý rằng
sự khan hiếm phụ nữ ở Tây Mỹ có thể có nhiều thứ phải xử lý với sự hoang dã như vậy. Chẳng hạn năm 1870, tỷ lệ giới tính ở Tây Mississippi
là 125 nam và 100 nữ. Ở
California là 166 và 100. Ở Nevada là 320. Ở Tây Kansas là 768.
Có chứng cớ hiển
nhiên về mối quan hệ giữa tỷ lệ giới tính
và bạo lực. Tỷ lệ giới tính chênh lệch nhiều
nghĩa là xã hội sẽ có số đàn
ông thặng dư (surplus men) – nghĩa là đàn ông vô vọng kiếm được vợ vì
không đủ phụ nữ. Số đàn
ông như vậy có
nhiều ở giai cấp
nghèo, do đó nguy cơ bạo lực tăng
lên. Số người đàn ông chưa kết hôn có thu nhập thấp có
khuynh hướng nổi loạn. Ở TQ, tỷ lệ giới tính chênh lệch quá nhiều, kéo
theo là làn sóng tội phạm. Ngày nay tại Ấn Độ có thể tiên báo đúng về bạo lực và tội phạm ở bất cứ vùng
nào có tỷ lệ giới tính
chênh lệch và thu nhập thấp.
Mức sinh
bé trai nhiều có có ảnh hưởng khác rộng
rãi, khó bảo đảm an toàn cho các cô dâu, và đàn ông có thể mua bán phụ nữ rồi ruồng bỏ họ. Như vậy là góp phần vào tỷ lệ dân số kếch xù
của TQ, các cha mẹ biết rằng họ phải tiết kiệm để bảo đảm an
toàn cho các cô dâu đối với con trai của họ. Một phản ánh mỉa mai về việc quảng cáo
tại Ấn Độ cho thấy các
bậc cha mẹ cần để dành
tiền để bỏ các thai nhi nữ. Cũng vậy, tỷ lệ tiết kiệm này
khiến nhu cầu đòi hỏi cao ở TQ.
Chuyện ép gả
(marriage squeeze) là do chênh lệch giới
tính, đàn ông giàu ở các nước mất cân
bằng sẽ “săn lùng” các phụ nữ ở các nước
nghèo. Bà Hvistendahl tường trình từ Viet
Nam, nơi có công nghệ “đặt hàng cô dâu” và có những cuộc “tuyển cô dâu” tục tĩu
vô luân (được khám
trực tiếp bằng cách các cô gái
thoát y cho họ xem), rằng đó là nhu cầu tìm vợ ở TQ. Và rồi tệ nạn mại dâm
cũng tăng cao!
Kinh tế gia
Gary Becker lưu ý rằng khi khan hiếm phụ nữ thì
giá trị của họ giảm, ông coi đây là sự phát triển tích
cực. Nhưng bà Hvistendahl chứng
minh rằng “việc đánh giá này chỉ đúng theo nghĩa thô
lỗ nhất”. Một cô
gái 17 tuổi ở một nước đang phát triển mà không có vị thế thì
không thể nắm bắt giá trị của cô
gái đó. Nhưng một phụ nữ trẻ có thể trở thành
“vật sở hữu” (chattel) nếu kiếm tiền vì gia đình hoặc “mối lái” (pimps). Giáo sư khoa
kinh tế Lena Edlund ở Columbia nhận xét: “Mối nguy hiểm lớn nhất kết hợp với việc chọn giới tính của cha mẹ là tuyên truyền về việc coi thường nữ giới, một số phụ nữ trên thế giới sẽ bị bắt cóc hoặc bị ép buộc hôn nhân hoặc bị bán vào các nhà thổ”.
Bà
Hvistendahl đã phỏng vấn các nhà nhân khẩu học
(demographers) và các bác sĩ từ Paris
tới Mumbai. Bà trao đổi với Paul
Ehrlich, người chú ý đến chứng cuồng loạn dân
số năm 1968 với cuốn “Quả bom Dân số” (The Population Bomb), nghĩ rằng việc bỏ thai nhi nữ là ý
tưởng chính (một phần vì sẽ làm
cho gia đình không thêm con cho tới lúc
sinh được con trai). Bà còn nói chuyện với
Geert Jan Olsder, một nhà
toán học của Hà Lan, bằng một biến cố lịch sử, góp
phần hình thành “Chính Sách Một Con” của TQ
khi ông gặp một khoa học gia
TQ hồi năm 1975. Sau đó, bà đến thăm
trụ sở Nam Kinh của Câu
lạc bộ Ái quốc
(Patriot Club), một tổ chức của những ông
thặng dư âm mưu nổi loạn.
Bà
Hvistendahl cũng tìm kiếm những tài liệu
không mấy thú vị từ các diễn viên Âu châu như tổ chức
Ford, Liên hiệp quốc và Phụ mẫu Kế hoạch,
cho thấy họ bắt phá thai vì chọn giới tính
là cách ngăn chặn bùng nổ dân số. Chẳng hạn năm
1976, trưởng Liên đoàn Phụ mẫu Kế hoạch Quốc tế
(International Planned Parenthood Federation)
là Malcom Potts đã viết rằng khi xảy ra ở các nước đang
phát triển, việc phá
thai thậm chí còn tốt hơn kế hoạch
hóa: “Phá thai sớm an toàn, hiệu quả, rẻ tiền và dễ dàng nhất”.
Năm
sau, một cán bộ khác của liên
đoàn này đã ăn mừng phương pháp cưỡng bức kế hoạch hóa của TQ,
nói rằng “thuyết phục và động viên rất hiệu quả trong sự thừa nhận của xã hội có thể được áp dụng đối với những người không hợp tác xây dựng”. Ngay đầu năm 1969, Sheldon Segal thuộc Hội đồng Dân
số (Population Council) đã
công bố các lợi ích của việc phá
thai vì chọn giới tính là phương tiện chống lại “quả bom dân số” ở Đông phương. Bà
Hvistendahl minh họa bức tranh chi tiết về người Tây
Malthusia thúc ép một chính sách để giải quyết vấn đề mà không bao giờ tự bành
trướng được.
Bà
Hvistendahl quan ngại vấn đề “phe hữu” hoặc “quyền Kitô giáo” (Christian right) khi bà gọi đó là chính trị khác với quan
điểm của bà. Bà tin rằng điều gì đó phải được thực hiện về việc phá
thai nhi nữ có chủ đích, đó là CẤM MỌI CÁCH PHÁ
THAI”.
Chọn lựa là chọn lựa. Nhưng chỉ có 2
cách chọn lựa: Hạn chế phá thai hoặc chấp nhận sát hại hàng triệu thai nhi nữ và các tai ương sẽ xảy đến!
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ The Wall Street Journal)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét