Lòng thương xót, yếu tính của Tin Mừng
và chìa khóa dẫn vào đời sống Kitô Hữu (8)
(Sun,
15/05/2016 - Vũ Văn An )
III. Sứ Điệp Của Cựu Ước
1. Ngôn ngữ Thánh Kinh
Sứ
điệp của Thánh Kinh về lòng thương xót có thể phát xuất từ một truyền thống sâu
rộng của nhân loại. Nhưng người ta sẽ lầm khi cho rằng Thánh Kinh và cùng với
nó, Kitô Giáo, chỉ đơn giản nhắc lại một cách phổ thông những điều các triết
gia đã khám phá trong việc họ phân tích lòng cảm thương của con người và những
điều các học giả tôn giáo đã gạn lọc từ nhiều tôn giáo khác nhau làm thành một
truyền thống chung của con người. Kitô Giáo không phải là “thuyết Platông cho người bình dân” (1) như Nietzsche vốn nghĩ.
Kitô Giáo tiếp nhận nhiều điều từ truyền thống nhân bản, nhưng nó cũng phê phán
truyền thống này, làm cho nhiều điều trở nên chính xác và làm cho sâu sắc hơn. Điều
ấy trở nên rõ ràng khi ta chịu để ý điều này: sứ điệp Thánh Kinh không những
nói về lòng cảm thương [Mitleid], mà còn nói tới lòng thương xót
[Barmherzigkeit] nữa. Bất chấp mọi điểm tiếp xúc chung về tôn giáo và triết
học, ý niệm thương xót vẫn có một ý nghĩa chuyên biệt, mà nay ta cần lưu ý.
Hiện
có một ý kiến khá phổ biến cho rằng Thiên Chúa của Cựu Ước là một vị Thiên Chúa
ưa trả thù và nổi giận, trong khi Thiên Chúa của Tân Ước là một vị Thiên Chúa
nhân từ và hay thương xót. Thực vậy, trong Cựu Ước, có rất nhiều bản văn hỗ trợ
ý kiến này. Đó là các đoạn văn nói tới giết chóc và trục xuất toàn bộ dân số ngoại
giáo của nhiều thành phố và dân tộc theo lệnh của chính Thiên Chúa (Đnl
7:21-24; 9:3; Gs 6:21; 8:1-29; 1Sm 15). Người ta cũng có thể nghĩ tới các thánh
vịnh nguyền rủa (nhất là các Thánh Vịnh 58; 83;109) (2). Tuy nhiên, cách nhìn
này không công bằng chút nào đối với diễn trình tiệm tiến qua đó ý niệm Thiên
Chúa của Cựu Ước biến đổi một cách hết sức quan yếu. Cách nhìn này cũng không
công bằng chút nào đối với việc phát triển nội bộ của Cựu Ước theo chiều hướng
Tân Ươc. Cuối cùng, cả hai Giao Ước này cùng làm chứng cho một vị Thiên Chúa
duy nhất.
Sự kiện trên đã bắt đầu xuất hiện trong một số nhận xét và
suy nghĩ khởi đầu về việc dùng ngôn ngữ trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước.
Cựu Ước có đặc điểm sử dụng thành ngữ rechamin để chỉ lòng cảm thương
và cũng để chỉ cả lòng thương xót nữa. Chữ này phát nguyên từ chữ rechem,
có nghĩa là “dạ” (womb) và cũng dùng
để chỉ “lòng” (ruột). Trong cả Cựu Ước
và Tân Ước, lòng (ruột) được coi như trung tâm của xúc cảm. Trong Tân Ước, lòng
(ruột) hay bụng (guts, σπλάγχνα) cũng dùng để diễn tả lòng thương xót phát xuất
từ trái tim (3). Cũng vậy, ta thấy oiktirmos (οίκτιρμός) đã được dùng
để chỉ lòng thiện cảm và việc sẵn sàng ra tay cứu giúp (4). Và sau cùng, chữ eleos
(έλεος) rất quan trọng. Khởi đầu, nó diễn tả tác động của cảm xúc, nhưng về
sau, người ta thường dùng nó để dịch các từ ngữ đặc trưng của Hipri là hesed
và hen, là những từ đặc biệt dùng để mô tả lòng thương xót.
Ta
vẫn còn cần phải biết lòng thương xót liên hệ ra sao với công lý và phải chứng
tỏ rằng đối với Cựu Ước, hai ý niệm này không đơn giản chỉ đứng cạnh nhau hay
đối nghịch nhau, mà đúng hơn, lòng thương xót của Thiên Chúa phục vụ công lý
của Người và đem nó tới chỗ được thể hiện. Thực vậy, lòng thương xót của Thiên
Chúa là chính công lý của Người. Tuy nhiên, trước tiên, ta phải nhấn mạnh một điều
khác. Ta chỉ có thể hiểu lòng thương xót khi ta bao gồm ý niệm “trái tim” (leb, lebab, καρδία)
vào các xem xét của ta.
Trong
Thánh Kinh, “trái tim” không chỉ diễn
tả một cơ quan của con người, rất cần cho sự sống; về phương diện nhân học, nó
diễn tả cốt lõi của con người nhân bản, trung tâm các xúc cảm của họ cũng như
trung tâm khả năng phán đoán của họ. Thánh Kinh dành nhiều chỗ và chú ý cho thế
giới cảm xúc con người, cả liên quan tới con người lẫn Thiên Chúa theo nghĩa
bóng bẩy. Hãy nghĩ tới các thánh vịnh ai ca của Cựu Ước, các ai ca của Giêrêmia,
các than vãn buồn đau của Đavít trước cái chết của con trai Absalon (2Sm 19).
Chúa Giêsu đầy giận dữ và buồn khổ trước sự ương ngạnh của những kẻ chống đối
Người (Mc 3:5), và đầy cảm thương đối với người ta (Mc 6:34) và đối với bà góa Thành
Naim vì mất đứa con trai duy nhất (Lc 7:13). Trước cái chết của bằng hữu
Ladarô, Chúa Giêsu hết sức xúc động buồn bã (Ga 11:38). Như thế, trong Thánh
Kinh, lòng cảm thương không bị coi là yếu đuối và mềm yếu phản nam tính, không
xứng đáng với người anh hùng thực sự. Theo Thánh Kinh, con người được phép biểu
lộ các tâm tình của họ, các sầu buồn của họ, các xúc cảm của họ, các niềm vui
và đau thương của họ. Họ cũng có thể than thở với Thiên Chúa và không cần phải
xấu hổ vì khóc lóc.
Thánh
Kinh còn đi xa hơn nữa, khi nói tới trái tim Thiên Chúa về phương diện thần
học. Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa chọn người ta theo trái tim của Người (1Sm
13:14; Gr 3:15; Cv 13:22). Thánh Kinh nói tới việc trái tim Người rất bối rối
đối với con người và tội lỗi của họ (St 6:6); và Thánh Kinh nói rằng Người
hướng dẫn Dân Người bằng một trái tim ngay thẳng (Tv 78:72) (5). Kiểu nói này
đạt tới đỉnh cao của nó trong Tiên Tri Hôsê. Vị tiên tri này nói một cách chưa
từng ai nói và thực sự cảm kích rằng trái tim Thiên Chúa tự co cụm ở trong
Người (*) và lòng cảm thương của Người trở nên ấm áp và dịu dàng (Hs 11:8).
Người trở nên sống động nhờ tâm tình yêu thương con người cách cuồng nhiệt (6).
Kiểu
nói quan trọng nhất để hiểu lòng thương xót là hesed. Chữ này có
nghĩa: lòng tốt, tình bạn, ân huệ đầy yêu thương không đòi công trạng, và cả ân
sủng cùng lòng thương xót của Thiên Chúa (7). Bởi thế, hesed vượt quá
cảm xúc và đau đớn đơn thuần trước cảnh khốn cùng của con người; nó chỉ hành
động Thiên Chúa tự ý và nhân hậu ngoảnh nhìn con người một cách đầy quan tâm.
Nó bao hàm ý tưởng liên hệ, chứ không hẳn một hành động riêng rẽ, mà đúng hơn
là một thái độ và một cách tiếp cận liên tục. Áp dụng vào Thiên Chúa, ý tưởng
này nói lên việc Người ban ơn thánh của Người cách bất ngờ và không đòi công
trạng, nghĩa là một việc ân ban vượt lên trên mọi liên hệ trung thành hỗ tương,
vượt quá mọi mong ước của con người và phá đổ mọi phạm trù nhân bản. Chỉ cần
nghĩ rằng Thiên Chúa, Đấng toàn năng và thánh thiện, đã quan tâm lo lắng đối
với tình thế cực kỳ khốn khổ của con người, do chính họ gây ra, rằng Thiên Chúa
ấy thấy rõ cảnh khốn khổ của con người khốn cùng và đáng thương, rằng Người
nghe thấy tiếng than của họ, nhân từ cúi xuống với họ, tự hạ mình đến với những
con người trong cảnh khốn khổ của họ, và bất chấp mọi bất trung của họ, vẫn tỏ
ra lo lắng đối với họ không thôi, và rằng Người sẵn sàng tha thứ cho họ và ban
cho họ một cơ hội nữa, dù họ chỉ đáng bị trừng phạt, là đủ thấy tất cả những
điều này quả vượt quá mọi kinh nghiệm và mong ước bình thường của con người;
tất cả những điều này quả đã vượt quá mọi tưởng tượng và suy nghĩ của con người.
Trong sứ điệp hesed của Thiên Chúa, một điều gì đó thuộc mầu nhiệm của Người,
mà tự trong chính nó vốn khép kín đối với tư duy con người, đã được mặc khải
cho họ. Ta chỉ có thể biết được phần nào mầu nhiệm này nhờ mặc khải của Thiên
Chúa mà thôi.
2. Đáp ứng của Thiên Chúa đối với sự hỗn mang và tai họa
của tội
Ý
nghĩa mà chứng từ của Thánh Kinh gán cho lòng thương xót của Thiên Chúa không
phát xuất duy nhất từ cách dùng từ ngữ này. Ý nghĩa của lòng thương xót chỉ
được xác quyết từ tính toàn vẹn của lịch sử cứu rỗi trong Thánh Kinh. Nó khởi
đầu ngay sau trình thuật tạo thế của Thánh Kinh. Khi tạo dựng, Thiên Chúa làm
nên mọi sự tốt lành, đúng hơn, rất tốt lành (St 1:4, 10, 12, 18, 20, 25, 31).
Thiên Chúa làm nên con người giống hình ảnh của Người; Người làm nên họ có nam
có nữ. Người chúc lành cho họ. Họ phải sinh sôi nẩy nở con cháu cho tràn đầy
mặt đất. Người ủy thác cho con người trọn bộ tạo thế để họ duy trì và vun xới
(St 1:27-30; 2:15). Mọi sự đều tốt; đúng hơn, rất tốt.
Nhưng,
câu truyện tốt đẹp trên ngay sau đó tiếp diễn bằng thảm họa. Con người muốn
được như Thiên Chúa, được quyền tự quyết định điều gì tốt điều gì xấu (St 3:5).
Việc ra xa lạ với Thiên Chúa dẫn tới việc con người ra xa lạ với thiên nhiên và
với những con người khác. Thế là từ nay, trái đất sinh gai góc và con người
phải đổ mồ hôi và cực nhọc mới cày cấy được nó. Sự sống mới chỉ có thể được cưu
mang trong đau đớn; chồng và vợ ra xa lạ đối với nhau (St 3:16-19); rồi Cain
giết Abel (St 4). Sự ác tiếp nối sự ác liên tiếp như núi lở và mọi suy nghĩ và
cố gắng trong trái tim con người mỗi ngày mỗi trở nên ác hơn (St 6:5).
Tuy
nhiên, Thiên Chúa không để cho thế giới và nhân loại đơn thuần lao đầu vào tai
ương và sa xuống thảm hại. Đúng hơn, ngay từ lúc ban đầu ấy, Người đã đưa ra
các biện pháp cứu chữa và liên tiếp thực hiện các phản công mới chống lại cảnh
hỗn mang và thảm họa sắp diễn ra. Mặc dù chữ “thương xót” không xuất hiện trong
các chương đầu tiên của Sách Sáng Thế, lòng thương xót của Thiên Chúa thực sự
đã rờ mó được và hết sức hữu hiệu ngay từ thuở khởi nguyên này. Cùng với việc
xua đuổi con người ra khỏi địa đường, Thiên Chúa đã ban cho họ áo quần để bảo
vệ họ khỏi các ác nghiệt của thiên nhiên, giúp họ khỏi xấu hổ trước mặt nhau,
và duy trì được phẩm giá của họ (St 3:20). Người đe dọa sẽ trả thù bất cứ ai
đặt tay xâm hại Cain và ghi dấu lên trán Cain để bảo vệ ông khỏi bị sát hại (St
4:15). Cuối cùng, sau Hồng Thủy, Thiên Chúa cố gắng tạo một khởi đầu mới với
Nôe. Người đoan hứa một hiện sinh và một trật tự liên tục cho vũ trụ, chúc phúc
cho nhân loại mới, và đặt sự sống của con người, từng được làm nên giống hình
ảnh Người, dưới sự che chở đặc biệt của Người (St 8:23; 9:1-5tt).
Nhưng
chưa hết. Lòng tự cao tự đại của con người không có tận cùng; họ đi xây Tháp
Babel mà đỉnh cao họ hy vọng vươn tới trời. Lòng tự cao tự đại này dẫn tới việc
ngôn ngữ ra hỗn loạn; con người không còn hiểu được nhau và họ bị phân chia tứ
tán ra khắp mặt đất (St 11). Nhưng, một lần nữa, Thiên Chúa không bỏ rơi nhân loại
cho chính số phận của họ, một nhân loại nay đã bị phân chia thành bộ lạc và dân
tộc xa lạ và thù nghịch nhau. Thiên Chúa chống hỗn mang và thảm họa. Người làm
nên một khởi đầu mới với việc kêu gọi Ápraham (St 12:1-3). Có thể nói: với
Ápraham, một phản công lịch sử đã khởi đầu, tức lịch sử hiện thực của việc
Thiên Chúa cứu rỗi con người. Nơi Ápraham, mọi thế hệ, mọi gia đình trên trái
đất đều được chúc phúc (St 12:3) (9). Với chữ “chúc phúc” này, Thánh Kinh muốn
cho hiểu một điều vừa nền tảng vừa hoàn toàn đầy đủ: hạnh phúc, hòa bình, sống
viên mãn và nhiều ân sủng của Thiên Chúa (10). Như thế, với Ápraham, một lịch
sử mới của nhân loại đã khởi sự, một lịch sử chúc phúc và, nói cách khác, một
lịch sử cứu rỗi. Thực vậy, những lời nói về lòng nhân hậu và trung thành của Thiên
Chúa đã rải rác khắp trong trình thuật về Ápraham (St 24:12, 14, 27; 32:11).
Như
thế, ngay từ thuở đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã bắt đầu phản công chống lại
tai ương (11). Ngay từ khởi nguyên, hành động thương xót (Erbarmen) của Thiên
Chúa đã có hiệu lực mạnh mẽ rồi. Lòng thương xót của Thiên Chúa là việc Người
cung cấp đề kháng để chống lại sự ác, là điều lúc ấy đang ở thế thượng phong.
Người không làm thế một cách miễn cưỡng hay bạo động; Người không đơn thuần chiến
đấu; đúng hơn, trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa không ngừng tạo ra
không gian mới cho sự sống và sự chúc phúc.
3. Sự mặc khải tên Thiên Chúa cũng là sự mặc khải Lòng
Thương Xót của Người
Trong
Cựu Ước, việc minh nhiên mặc khải lòng thương xót đã được liên kết rất chặt chẽ
với việc mặc khải nền tảng về Thiên Chúa trong cuộc xuất hành và giải phóng Dân
Do Thái khỏi Ai Cập và với việc mặc khải chính Người lần lượt trên Núi Sinai và
Hôrép. Biến cố mạc khải thường xẩy ra trong một tình thế khó khăn và, đúng hơn
tuyệt vọng, của dân Do Thái. Dân tộc này bị áp bức tại Ai Cập, phải làm những
việc nặng nhọc dành cho các nô lệ. Chính Môsê đã phải trốn chạy khỏi nhà cầm
quyền Ai Cập là những người tìm cách kết liễu đời ông. Thiên Chúa mặc khải cho
ông như là Thiên Chúa của Ápraham, của Ixaác và của Giacóp trong bụi gai bừng
lửa trên Núi Hôrép. Do đó, việc mặc khải trên Núi Hôrép có liên hệ với sự khởi
đầu của lịch sử cứu rỗi với Ápraham. Trong cả hai trường hợp, Thiên Chúa tự mặc
khải như Đấng Thiên Chúa mời gọi và lãnh đạo tiến lên. Thiên Chúa là Đấng Thiên
Chúa của lịch sử. Nhưng dù trình thuật về Ápraham cung cấp cho ta một cửa ngỏ dẫn
vào toàn thể nhân loại và mọi dân tộc, thì giờ đây, nó chỉ tập chú vào câu
truyện của dân Người, Dân Israel.
Thiên
Chúa là Đấng Thiên Chúa nhìn thấy nỗi khốn khổ của dân Người và nghe thấy tiếng
họ kêu van: “Ta đã nhìn thấy nỗi khốn khổ
của dân Ta ở Ai Cập và Ta đã nghe thấy tiếng kêu của chúng vì những kẻ đốc công
tàn ác. Thực vậy, Ta biết rõ các đau khổ của chúng, và Ta đến để giải thoát
chúng khỏi tay người Ai Cập” (Xh 3:7-8; xem 9). Thiên Chúa không phải là
Đấng Thiên Chúa câm điếc; Người là Đấng Thiên Chúa sống động, Đấng biết lưu tâm
tới nỗi khốn khổ của con người, Đấng biết nói, biết hành động, biết can thiệp,
giải thoát và cứu chuộc. Công thức “Giavê,
Đấng đem chúng ta ra khỏi Ai Cập” đã trở thành lời tuyên xưng đức tin rất
nền tảng trong Cựu Ước (Xh 20:2; Đnl 5:6; Tv 81:1; 114:1; v.v…).
Việc
mặc khải Đấng Thiên Chúa hạ mình đến gần dân Người không hề nói lên một sự quen
thuộc giả tạo. Việc mặc khải này có liên hệ một cách hết sức mật thiết với việc
mặc khải sự thánh thiện của Người, tính ưu việt của Người đối với mọi sự vật
trần gian, tính kỳ diệu của Người, và tính tối thượng của Người. Môsê được thấy
bụi gai bừng lửa mà không bị thiêu rụi. Vì quá sợ hãi, ông phải che mặt; không
dám lại gần hơn; ông phải cởi giầy vì đất ông đứng là đất thánh. Rồi khi Môsê
hỏi Thiên Chúa để biết tên Người, ông nhận được câu trả lời mầu nhiệm: “Ta là Đấng Ta là” (Xh 3:14) (**).
Rất
nhiều điều khác nhau và trái ngược nhau đã được viết về nguồn gốc, cách phát
âm, và ý nghĩa của 4 chữ Hípri viết tắt YHWH (12). Martin Buber và Franz
Rosenzweig dịch nó là “Ta sẽ hiện diện
như là Đấng sẽ hiện diện ở đó” (13). Nhờ cách dịch này, chiều kích mầu
nhiệm, không ai vươn tới và cuối cùng không ai hiểu nổi của tên Thiên Chúa đã
được diễn tả. Đối với người Do Thái sùng đạo, bốn chữ Hípri viết tắt này thánh
thiêng đến nỗi họ không dám thốt lên thành tiếng. Vì tôn trọng sự nhậy cảm của
người Do Thái, năm 2008, Bộ Thờ Phượng Thiên Chúa đã cấm không được dịch tên
YHWH của Người trong phụng vụ Giáo Hội. Như thế, việc mặc khải tên Thiên Chúa
đã nói lên tính siêu việt tuyệt đối của Người. Mặt khác, nó chứng tỏ Thiên Chúa
đích thân chăm sóc dân Người và việc Người cam kết hiện diện một cách mạnh mẽ trong
lịch sử dân Người. Thiên Chúa tự mặc khải Người như là Đấng Thiên Chúa hướng
dẫn và lãnh đạo trong một lịch sử không hề bị trói tay từ trước, một lịch sử
trong đó Người sẽ luôn hiện diện một cách không thể suy diễn (nondeducible),
tối thượng, nhưng rất bất ngờ, và như Đấng luôn luôn là tương lai mới mẻ của
dân Người. Người không phải là Đấng Thiên Chúa của một nơi đặc thù, nhưng đúng
hơn, Người biểu lộ quyền năng của Người ở khắp mọi nơi dân Người gặp gỡ trên
đường lữ thứ của họ. Do đó, tính phổ quát của Giavê, được các tiên tri minh
nhiên công bố, đã được thiết lập ngay từ thuở đầu.
Bản
Bẩy Mươi, tức bản Cựu Ước của người Do Thái qua tiếng Hy Lạp, xuất hiện khoảng
năm 200 trước CN, đã giải thích việc mặc khải tên Thiên Chúa theo tư tưởng
triết học Hy Lạp và đã dịch tên này là “Ta
là Đấng hằng hữu” (̓Еγώ εỉμι ὁ ὤυ). Lời dịch này đã làm nên lịch sử và đã
lên khuôn cho tư tưởng thần học trong nhiều thế kỷ. Dựa vào lối dịch này, người
ta xác tín rằng điều cao nhất trong tư tưởng tức Hữu Thể (Being) và điều cao
nhất trong đức tin tức Thiên Chúa, có liên hệ qua lại với nhau. Trong xác tín
này, ta thấy có sự xác nhận rằng tin và nghĩ không hề chống đối nhau, mà đúng hơn,
tương ứng với nhau. Lối giải thích này đã được tìm thấy nơi triết gia Do Thái
theo văn hóa Hy Lạp là Philo (chết năm 40 CN). Tuy nhiên, Tertullianô chẳng bao
lâu đã đặt câu hỏi: “Giêrusalem nào có gì
liên hệ với Nhã Điển?” (14). Đáng lưu ý nhất là Blaise Pascal; sau khi trải
qua một kinh nghiệm thần bí, thần học gia này nhấn mạnh sự khác nhau giữa Thiên
Chúa của các triết gia và Thiên Chúa của Ápraham, của Ixaác và của Giacóp trong
đoạn văn nổi tiếng “Memorial” năm
1654 (15).
Các học giả Thánh Kinh cận đại từng chỉ rõ các dị biệt giữa lối hiểu hữu thể của người Hípri và của người Hy Lạp. Vì, đối với suy tư Hípri, hữu thể không phải là một thực tại bất động (quiescent) mà đúng hơn là một thực tại năng động. Trong tư tưởng Hípri, hữu thể là một hiện hữu cụ thể, hoạt động, và có hiệu năng mạnh mẽ. Thành thử, việc mặc khải tên Thiên Chúa tạo nên lời hứa hẹn của Người: Ta là “Đấng đang hiện diện ở đó”. Ta ở với các ngươi trong cảnh khốn cùng của các ngươi và Ta sẽ đồng hành với các ngươi trên đường các ngươi đi. Ta nghe thấy tiếng kêu của các ngươi và ta đáp lại các van vỉ của các ngươi. Tương ứng với điều này, việc mặc khải tên Thiên Chúa lập tức được nối kết với việc phê chuẩn giao ước giữa Thiên Chúa và các tổ phụ và với việc lên công thức có tính cổ điển cho giao ước này: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 6:7). Như thế, trong việc mạc khải tên của Người, Thiên Chúa đã nói ra thực tại thâm sâu nhất của chính Người: hữu thể Thiên Chúa là hữu thể hiện diện cho dân Người và với dân Người. “Hữu thể Thiên Chúa là Hữu-Thể-cho-dân-Người; hữu thể của Thiên Chúa trong tư cách Phò Hiện Hữu là mầu nhiệm kỳ diệu của yếu tính Người. Với đức tin của mình, Israel có thể vô điều kiện nương tựa vào chân lý này” (16).
Chữ “thương xót” (Erbarmen) chưa xuất hiện
trong cuộc mặc khải ở Hôrép. Tuy nhiên, điều mà lòng thương xót thực sự có ý
nghĩa thì vốn đã được hàm chứa ngay trong việc mặc khải thánh danh Người; sau
đó, nó đã được tỏ lộ trọn vẹn hơn trong mạc khải ở Sinai. Hoàn cảnh trong đó
việc này xẩy ra có tính hết sức bi kịch. Thiên Chúa đã dẫn dân Người ra khỏi
cảnh nô lệ ở Ai Cập và đã ban cho họ Mười Giới Răn trên hai phiến đá làm hiến
chương của giao ước (Xh 20:1-21; Đnl 5:6-22). Nhưng không bao lâu sau khi giao
ước này được chấp thuận, nó đã lập tức bị vi phạm. Dân Thiên Chúa chọn đã nhanh
chóng bất trung; họ bỏ đạo, theo các thần ngoại giáo và nhẩy múa quanh con bò vàng.
Thiên Chúa lập tức nổi giận đùng đùng chống lại thứ dân cứng đầu này và Môsê
đập bể hai phiến đá giao ước ngay ở dưới chân núi làm dấu chỉ quả thực giao ước
đã bị đạp đổ (Xh 32). Ngay khi vừa bắt đầu, mọi sự xem như đã không còn, mất
hết.
Tuy
nhiên, Môsê đã cầu bầu và nhắc Thiên Chúa nhớ tới lời hứa của Người. Ông xin
Thiên Chúa ban ơn thánh và lòng thương xót: “Xin
cho con thấy dung nhan Ngài”. Và rồi cuộc mặc khải tên Người lần thứ hai đã
diễn ra. Thiên Chúa hô lớn tên Người cho Môsê trong lúc đi qua: “Ta sẽ nhân từ (hen) với những ai Ta sẽ nhân từ, và Ta sẽ tỏ
lòng thương xót (rechamin) cho những
ai Ta sẽ tỏ lòng thương xót” (Xh 33:19). Ở đây, lòng thương xót của Thiên
Chúa được hiểu không phải như sự gần gũi với một người bạn thân, nhưng đúng hơn
như biểu thức của tính tối thượng tuyệt đối của Thiên Chúa và quyền tự do không
thể bị giản lược của Người. Giavê không thích hợp với bất cứ phạm trù nào, ngay
cả phạm trù công lý bù trừ (compensatory justice). Trong lòng thương xót của
Người, Thiên Chúa chỉ phù hợp với chính Người và với thánh danh Người đã tỏ cho
Môsê (17). Do đó, Người đã ra lệnh cho Môsê phải chuẩn bị hai phiến đá mới để
ghi lại lề luật. Bất chấp sự bất trung và cứng đầu của họ, Người vẫn không để dân
Người rơi vào hoang phế và hư không. Thiên Chúa làm mới lại giao ước của Người;
Người ban cho dân Người một cơ hội nữa và Người làm thế hoàn toàn vì tự do và
ơn thánh nhưng không.
Cuối
cùng, vào một sớm mai khác, ta lại thấy việc mặc khải thứ ba về tên Thiên Chúa.
Người hiện xuống với Môsê trong đám mây, như dấu chỉ sự hiện diện mầu nhiệm của
Người, và nói lớn với ông: “Chúa tể, Chúa
tể, Đấng Thiên Chúa hay thương xót (rachum) và nhân từ (henum), chậm nổi
giận, và giầu tình yêu bền vững (hesed) và trung thành (emet) (Xh 34:6).
Trong
cuộc mặc khải tên Người lần thứ ba này, lòng thương xót không những nói lên
tính tối thượng và tự do của Thiên Chúa; nó còn nói lên lòng trung thành của
Người nữa. Trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa trung thành với chính
Người và với dân của Người, bất chấp sự bất trung của họ. Trong cuộc mặc khải
tên Thiên Chúa lần thứ ba, ta có thể nhận ra lời khẳng định chính của Israel liên quan
tới yếu tính của Thiên Chúa họ (18). Sau đó, lời tuyên bố về mặc khải này đã
liên tiếp được nhắc đi nhắc lại trong Cựu Ước, nhất là các thánh vịnh, một cách
như lên công thức (19). Có thể nói, nó đã trở thành Kinh Tin Kính của Cựu Ước.
Kinh
Tin Kính trên không do suy tư của con người mà có; cũng không hẳn do thị kiến
huyền nhiệm mà phát sinh. Ngược lại, Môsê được phán bảo một cách không hàm hồ
rằng “Ngươi không thể thấy dung nhan
Ta vì không ai thấy dung nhan Ta mà còn sống được”. Môsê không thể trực tiếp
nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa; ông chỉ có thể thấy lưng của Người khi Người
bước khỏi ông. Có thể nói, ông chỉ có thể nhận ra Thiên Chúa một cách hậu thiên
(a posteriori), nghĩa là bằng cách nhìn trở lui, nhìn đàng sau việc Người bước
qua lịch sử. Thiên Chúa cũng có thể được nhìn thấy dựa vào lời lẽ do Người mặc
khải và giải thích, nghĩa là việc hô to thánh danh Người (Xh 33:20-23). Như
thế, lời tuyên bố dứt khoát liên quan tới yếu tính nhân từ và thương xót của Thiên
Chúa không phải là lời tuyên bố suy lý hay do kinh nghiệm huyền nhiệm mà có.
Đúng hơn, nó là lời tuyên bố của đức tin dựa trên sự tự ý mặc khải của Thiên
Chúa trong lịch sử. Trong và xuyên suốt lịch sử, Thiên Chúa mặc khải yếu tính
của Người, một yếu tính vốn dấu khuất khỏi con người. Ta chỉ có thể nói về yếu
tính này bằng con đường trình thuật, chứ không bằng con đường suy lý. Theo
nghĩa này, công thức này chính là bản tóm lược câu Thiên Chúa tự định nghĩa về
Người trong Cựu Ước.
Kỳ
Sau: Lòng thương xót như phẩm tính khác, vừa khôn dò vừa có tính tối thượng...
________________________________________________________________________________________________________
(*) Tiếng Anh, "recoils within him"; Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là "Lòng Ta đảo lộn trong Ta".
(**) Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch là “Ta có sao Ta có vậy”.
________________________________________________________________________________________________________
(*) Tiếng Anh, "recoils within him"; Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là "Lòng Ta đảo lộn trong Ta".
(**) Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch là “Ta có sao Ta có vậy”.
(1)
Friedrich Nietzsche, Beyond Good and Evil, bản tiếng Anh của Helen
Zimmern (London:
Allen & Unwit), 3.
(2) Muốn hiểu các thánh vịnh nguyền rủa, xem E. Zenger, “Fluchpsalmen” Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, do Walter Kasper và nhiều người khác hiệu đính (Freiburg: Herder 1993-2001), 3:1335f. Cũng nên xem chương II trên đây, ghi chú 62.
(3) Helmut Koster, “σπλάγχνον” Theologisches Worterbuch zum Neyene Testament, do Gerhard Kittel và nhiều người khác hiệu đính (Stuttgart: Kohlhammer, 1949-79) 7:553-57.
(4) Rudolf Bultmann, “οἰκτίρω”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament, 5:162f.
(5) F. Baugartel và J, Behm, “καρδία”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament, 3:609-16; Hans Walter Wolff, Anthropologie des Alten Testaments (Munich: Kaiser, 1973), 68-95.
(6) Abraham Joshua Heschel, The Prophets (New York: Harper & Row, 1975); Peter Kuhn, Gottes Selbsterniedrigung in der Theologie der Rabbinen (Munich: Kosel Verlag, 1968); Peter Kuhn, Gottes Trauer und Klage in de rabbinischen Uberlieferung (Leiden, E.J. Brill, 1978).
(7) Rudolf Bultmann, “ἔλεος”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament, 2: 474-82.
(8) Walther Zimmerli, “χάρις”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament 9:366-77.
(9) St 18:18; 22:18; 26:4; 18:14; Hc 44:21; Gl 3:6-18.
(10) Xem W. Beyer, “εύλογέω εύλογία”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament 2:751-63.
(11) Tôi lấy hứng kiểu nói và quan điểm này từ Gerhard Lohfink và Ludwig Weimer, Marianicht ohne Israel:Eine neue Sicht der Lehre von der Unbeflekten Empfangnis (Freiburg i.Br.: Herder, 2008).
(12) Muốn có lời giải thích về tên Giavê, xin xem Walther Zimmerli, “Ich bin Jahwe” trong Gottes Offenbarung:Gesammelte Aufsatze zum Alten Testament (Munich: Kaiser, 1963); Gerhard von Rad, Old Testament Theology, bản tiếng Anh của D.M.G. Stalker (New York: Harper, 1962). Muốn có cuộc nghiên cứu gần đây hơn, xin xem M. Rose, “Jahwe” Theologische Realenzyklopadie, do Gerhard Muller, Horst Balz và Gerhard Krause biên tập (Berlin: Walter de Gruyter, 1977-2007), 16:438-41; R, Brandscheit, “Jahwe”, Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, 5:712-13.
(13) Die funf Bucher der Weisung: Verdeutscht von M. Buber gem.m. F. Rosenzweig (Heidelberg: Schneider, 1981). Xem thêm Martin Buber, Moses: The Revelation and the Covenant (New York: Harper & Row, 1958), 52-55.
(14) Tertullianô, The Prescription of Heretics, cuốn VII, 9.
(15) Blaise Pascal, Pensées, bản tiếng Anh của A.J. Krailsjeimer (Baltimore: Penguin Books, 1966), 309. Về vấn đề thần học hệ thống, xem Chương V, 1.
(16) Wilrich Wilckens, Theologie des Neuen Testaments, 2/1 (Neukirchen-Vluyyn: Neukirchener Verlag, 2007), 93. Ý niệm Proexistens, như tôi được biết, xuất phát từ nhà giải thích Thệ Phản W. Schmauch và sau đó được các nhà giải thích Tân Ước của Công Giáo tiếp nhận, như H. Schurmann và W, Thusing. Điều rất thích hợp với ý tưởng này là một số tác giả coi không phải hajah (hiện hữu), mà đúng hơn hasah mới là gốc rễ của tên Giavê. Hasah có nghĩa: yêu thương một cách say mê. Theo lối giải thích này, Giavê là người yêu dân Người cách say mê. Xem Edith Olk., Die Barmherzigkeit Gottes-zentrale Quelle des christlichen Lebens (St Ottilien: EOS, 2011), 46.
(17) Wilckens, Theologie des Neuen Testaments, 2/1: 96.
(18) Ibid.
(19) Xem Đnl 4:31; Tv 86:15; 103:8; 116:5; 145:8; Gn 4:2; Ge 2:13.
(2) Muốn hiểu các thánh vịnh nguyền rủa, xem E. Zenger, “Fluchpsalmen” Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, do Walter Kasper và nhiều người khác hiệu đính (Freiburg: Herder 1993-2001), 3:1335f. Cũng nên xem chương II trên đây, ghi chú 62.
(3) Helmut Koster, “σπλάγχνον” Theologisches Worterbuch zum Neyene Testament, do Gerhard Kittel và nhiều người khác hiệu đính (Stuttgart: Kohlhammer, 1949-79) 7:553-57.
(4) Rudolf Bultmann, “οἰκτίρω”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament, 5:162f.
(5) F. Baugartel và J, Behm, “καρδία”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament, 3:609-16; Hans Walter Wolff, Anthropologie des Alten Testaments (Munich: Kaiser, 1973), 68-95.
(6) Abraham Joshua Heschel, The Prophets (New York: Harper & Row, 1975); Peter Kuhn, Gottes Selbsterniedrigung in der Theologie der Rabbinen (Munich: Kosel Verlag, 1968); Peter Kuhn, Gottes Trauer und Klage in de rabbinischen Uberlieferung (Leiden, E.J. Brill, 1978).
(7) Rudolf Bultmann, “ἔλεος”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament, 2: 474-82.
(8) Walther Zimmerli, “χάρις”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament 9:366-77.
(9) St 18:18; 22:18; 26:4; 18:14; Hc 44:21; Gl 3:6-18.
(10) Xem W. Beyer, “εύλογέω εύλογία”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament 2:751-63.
(11) Tôi lấy hứng kiểu nói và quan điểm này từ Gerhard Lohfink và Ludwig Weimer, Marianicht ohne Israel:Eine neue Sicht der Lehre von der Unbeflekten Empfangnis (Freiburg i.Br.: Herder, 2008).
(12) Muốn có lời giải thích về tên Giavê, xin xem Walther Zimmerli, “Ich bin Jahwe” trong Gottes Offenbarung:Gesammelte Aufsatze zum Alten Testament (Munich: Kaiser, 1963); Gerhard von Rad, Old Testament Theology, bản tiếng Anh của D.M.G. Stalker (New York: Harper, 1962). Muốn có cuộc nghiên cứu gần đây hơn, xin xem M. Rose, “Jahwe” Theologische Realenzyklopadie, do Gerhard Muller, Horst Balz và Gerhard Krause biên tập (Berlin: Walter de Gruyter, 1977-2007), 16:438-41; R, Brandscheit, “Jahwe”, Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, 5:712-13.
(13) Die funf Bucher der Weisung: Verdeutscht von M. Buber gem.m. F. Rosenzweig (Heidelberg: Schneider, 1981). Xem thêm Martin Buber, Moses: The Revelation and the Covenant (New York: Harper & Row, 1958), 52-55.
(14) Tertullianô, The Prescription of Heretics, cuốn VII, 9.
(15) Blaise Pascal, Pensées, bản tiếng Anh của A.J. Krailsjeimer (Baltimore: Penguin Books, 1966), 309. Về vấn đề thần học hệ thống, xem Chương V, 1.
(16) Wilrich Wilckens, Theologie des Neuen Testaments, 2/1 (Neukirchen-Vluyyn: Neukirchener Verlag, 2007), 93. Ý niệm Proexistens, như tôi được biết, xuất phát từ nhà giải thích Thệ Phản W. Schmauch và sau đó được các nhà giải thích Tân Ước của Công Giáo tiếp nhận, như H. Schurmann và W, Thusing. Điều rất thích hợp với ý tưởng này là một số tác giả coi không phải hajah (hiện hữu), mà đúng hơn hasah mới là gốc rễ của tên Giavê. Hasah có nghĩa: yêu thương một cách say mê. Theo lối giải thích này, Giavê là người yêu dân Người cách say mê. Xem Edith Olk., Die Barmherzigkeit Gottes-zentrale Quelle des christlichen Lebens (St Ottilien: EOS, 2011), 46.
(17) Wilckens, Theologie des Neuen Testaments, 2/1: 96.
(18) Ibid.
(19) Xem Đnl 4:31; Tv 86:15; 103:8; 116:5; 145:8; Gn 4:2; Ge 2:13.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét