Một Giáo hội, Một Nhà, Một Gia đình
9/15/2021-conggiao.info
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chữa lành sự mù lòa về mặt luân lý của chúng ta, ý thức về luân lý mà chúng ta gọi là lương tâm, vốn giúp cho chúng ta phân biệt điều phải điều trái, để chúng ta chăm sóc những người nhỏ bé nhất trong chúng ta
ỦY BAN MỤC VỤ DI DÂN
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT
NAM
Hướng tới Ngày Thế giới
những người Di dân và Tị nạn năm nay (26/09/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô đã
công bố sứ điệp với chủ đề: “Tiến tới một cộng đồng 'chúng ta' ngày càng rộng lớn
hơn”, nhằm xây dựng gia đình nhân loại trong công lý và hòa bình, bảo đảm không
ai bị loại bỏ lại đằng sau. Ngài kêu gọi tất cả, các tín hữu công giáo và mọi
người trên thế giới, cùng quan tâm và thể hiện tình liên đới đối với những người
dễ bị tổn thương khi di tản. Theo Đức Thánh Cha, “Làn sóng di dân có thể được
xem là ‘biên cương’ mới cho sứ vụ, một cơ hội đặc biệt để loan báo Chúa Kitô và
làm chứng cho đức tin Kitô trong tinh thần bác ái và tôn trọng sâu sắc dành cho
các cộng đồng tôn giáo khác”. Đức Thánh Cha kêu gọi nỗ lực phá đổ những bức tường
ngăn cản chúng ta và xây dựng các nhịp cầu kiến tạo văn hóa gặp gỡ, với ý thức
sâu sắc về mối liên kết sâu sắc của chúng ta. Ngài nói rằng các phong trào di
dân là cơ hội để chúng ta vượt qua sợ hãi và để cho mình được phong phú bởi sự
đa dạng khả năng của mỗi người.
Tôi xin giới thiệu các
bài suy tư được gợi ý do Phân Bộ Di Dân và Tị Nạn của Bộ Phát triển Con người
toàn diện: “ONE CHURCH, ONE HOME, ONE FAMILY” và “A CHURCH THAT REACH OUT” của
Rev. Marcel Uwineza, S.J., Ph.D., do ông Antôn Uông Đại Bằng và Gioan Lê Quang
Vinh chuyển ngữ.
+Louis Nguyễn Anh Tuấn
Chủ tịch Ủy Ban Mục Vụ Di
Dân – HĐGMVN.
* * *
MỘT GIÁO HỘI, MỘT NHÀ, MỘT
GIA ĐÌNH
Lm. Marcel Uwineza, S.J.,
Ph.D.
Bản dịch của Gioan Lê
Quang Vinh
Trong hoàn cảnh người di
dân và tỵ nạn ngày nay, một Giáo hội biết lắng nghe đang sẵn sàng nghe tiếng
kêu của người mù Ba-ti-mê. Anh cố gắng kêu lên bất chấp đám đông bảo anh im lặng
(Mc 10,46-52). Thánh sử Mác-cô tường thuật việc Chúa Giêsu chữa lành người ăn
xin mù lòa Ba-ti-mê ở vùng ngoại ô của thành Giê-ri-cô. Khi suy niệm việc chữa
lành này, chúng ta nhớ lại hoàn cảnh tuyệt vọng của Ba-ti-mê: anh là người mù
và là người ăn xin. Hai trạng thái này khiến anh trở thành một người bị bỏ rơi
dễ bị tổn thương. Rất có thể anh đang xin của bố thí từ những khách hành hương
mộ đạo đang trẩy về Giêrusalem. Mặc dù gặp tình cảnh bi đát, anh đã không mất
đi khả năng lắng nghe và lên tiếng nói. Anh nghe biết rằng trong đoàn người
đang đi ngang qua đám đông, có một người Na-gia-rét hay làm phép lạ, và anh kêu
lớn tiếng khiến mọi người kinh ngạc: “Lạy Thầy Giêsu, Con vua Đa-vít, Xin
thương xót tôi” (Mc 10,47). Tin đáng vui mừng là Chúa Giêsu không bảo Ba-ti-mê
im tiếng trong khi đám đông cố gắng trấn áp tiếng kêu của Ba-ti-mê và họ đã
không thành công!
Trong Ngày Thế Giới Người
Di Dân và Tỵ Nạn này, câu chuyện của anh mù Ba-ti-mê đòi hỏi chúng ta lắng nghe
nỗi thống khổ và đau đớn của họ, và cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không phớt lờ
cũng không ngăn cấm họ, nhưng thay vào đó, chúng ta dành cho họ sự đón tiếp niềm
nở, chứng tỏ rằng giáo huấn của Hội Thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô không phải là
một công thức trừu tượng nhưng là một mệnh lệnh phải thực hành giáo huấn ấy để
có thành quả rõ ràng. Giáo huấn ấy một lần nữa mời gọi chúng ta trở nên “một
Giáo hội, một nhà, một gia đình.” Như Martin Luther King Jr. đã có lần lưu ý, một
trong những bổn phận của Kitô giáo, là loan báo rằng “tất cả mọi cuộc sống con
người đều phản ánh thần tính Thiên Chúa, và mọi hành động bất công đều phá hủy
và làm xấu đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người.” Vì thế, nếu Giáo hội
không nuôi dưỡng mối liên kết vốn không thể phân chia giữa lòng yêu mến Chúa và
tình yêu đối với người lân cận thì có lẽ Giáo hội không còn trung tín với giáo
huấn và lệnh truyền của Đức Kitô. Với tuyên bố chọn lựa ưu tiên của mình là đứng
về phía người bị bỏ rơi, người nghèo khổ và người bị gạt ra ngoài lề xã hội
trong nhân loại chúng ta, Giáo hội phải nhận ra gương mặt của Thiên Chúa trong
những con người đó. Nếu chúng ta có thể nhận thấy Thiên Chúa trong gương mặt của
người đói khát, người trần truồng, người đau yếu, người xa lạ và người bị giam
cầm (Mt 25,31-46) như Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý, “chúng ta sẽ là những người
biết cảm tạ Thiên Chúa vì đã có thể gặp gỡ, yêu thương và phục vụ Chúa
trong những người ấy.” Trừ khi người ta
chấp nhận rằng việc thuộc về một cộng đồng chủng tộc, tôn giáo hay quốc gia là
một hình phạt đáng bị loại trừ, còn không thì chẳng có gì có thể biện minh cho
việc hạ thấp nhân phẩm của quá nhiều con người đã trở thành nạn nhân chỉ vì
nhân thân của chính họ và vì gốc gác của họ. Về phương diện thần học, những lời
đó khẳng định tư tưởng này: làm người trong ý nghĩa sâu xa nhất có nghĩa là trở
thành bình đựng món quà bản ngã mà Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, chúng ta không
có bất cứ lý do gì để hạ thấp chính mình, và chắc chắn cũng không có lý do để bị
người khác hạ thấp, để coi thường hay quay lưng lại với người khác, bởi vì nếu
làm như thế, chúng ta hạ thấp Thiên Chúa. Đó là vì mỗi con người nhân vị là một
phương cách diễn tả tình yêu của Thiên Chúa.
Chúng ta hiểu rằng mình
là “Một Giáo hội, Một Nhà và Một Gia đình” trong đó những người đón nhận Chúa
Giêsu là Đấng Cứu độ đã trở nên những người con trai và con gái của cùng một
Cha (Ga 1,12). Điều này đòi hỏi sứ mạng làm Kitô hữu của chúng ta phải đem lại
sự hòa giải giữa những con người và người nhóm người vốn chịu ảnh hưởng bởi
lòng thù hận trong quá khứ. Trong số những người này chúng ta phải kể đến người
tỵ nạn và người di cư. Để nuôi dưỡng sự hòa giải này, nhà thần học Robert
Schreiter lưu ý “chúng ta phải học biết quá khứ, nhận ta những thương tích đã
chịu và những thương tích đã gây ra, kể lại những câu chuyện về họ xác nhận căn
tính của họ, khám phá chính họ là những người dự phần vào cùng một quá khứ và
liên đới chịu trách nhiệm về tương lai chung của họ.” Nếu chúng ta thực hiện điều
này thì sẽ có nhiều khả năng được biến đổi.
Có một câu chuyện kể về
người phụ nữ giàu có giúp đỡ một người di dân vô gia cư có đôi chân bị sưng tấy.
Bà tiến lại gần anh ấy và hỏi: “Anh đang đi đâu vậy?” Anh trả lời: đến Vương
Cung Thánh đường Thánh Phêrô. Bà nói: “Nhưng đôi chân anh không cho phép anh đi
bộ đến đó.” Và bà gọi taxi cho anh đi. Khi người tài xế taxi dừng xe, anh ta do
dự không muốn chở người khách này vì người này có mùi hôi hám. Sau vài phút,
người tài xế cũng đồng ý chở họ. Anh di dân ấy cùng với người phụ nữ lên xe và
nói chuyện mãi trên đường đến Vatican. Họ nói về quá khứ của anh, cuộc sống anh
đã trải qua và những thử thách khi bỏ xứ Syria để thành người tỵ nạn, phải mất
cả gia đình vân vân. Khi đến nơi họ muốn đến, người phụ nữ trả tiền xe, nhưng
anh tài xế lúc đầu đã do dự không muốn chở họ, bây giờ liền nói: “Không, thưa
bà. Chính tôi mới là người phải trả tiền cho bà vì bà đã khiến tôi lắng nghe một
câu chuyện làm thay đổi trái tim tôi và thay đổi cái nhìn của tôi về cuộc sống.”
Không phải vô lý khi
chúng ta tưởng tượng rằng Chúa Giêsu đã đem lại cho đám đông sự thay đổi trong
trái tim và tâm trí của họ. Đám đông này trước đó đã thất bại khi cố gắng ngăn
chặn không cho anh Ba-ti-mê kêu xin sự giúp đỡ và ơn cứu độ. Thánh sử Mác-cô diễn
tả sự thay đổi tâm hồn của đám đông bằng những lời này: “Người ta gọi anh mù và
bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!" (Mc 10,49).
Những người đi theo Chúa
Giêsu đôi khi có thể là những rào cản. Có những Kitô hữu tham dự vào những sinh
hoạt của cộng đoàn và chia sẻ đời sống cộng đoàn, nhưng vẫn có thể là những chướng
ngại vật ngăn chặn sự thật trong Tin Mừng của Chúa Giêsu. Mối đe dọa cho Kitô
giáo không phải lúc nào cũng từ bên ngoài, nhưng có khi do cách sống của những
người tự gọi mình là Kitô hữu và do những người không thật sự hiểu được ý nghĩa
thật sự của lời Chúa Kitô giảng dạy và các lệnh truyền của Người. Cũng có một số
người không thật sự muốn chấp nhận chúng ta là “một nhà và một gia đình.”
Theo quan điểm và nhận thức
phổ quát cũng như địa phương của chúng ta về Giáo hội, đã bao nhiêu lần chúng
ta dập tắt những tiếng nói làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu? Những tiếng nói
này bao gồm cả tiếng than van của người di cư và người tỵ nạn. Họ cũng là những
chi thể trong Thân Mình mầu nhiệm Đức Kitô. Vì thế, nhu cầu cấp bách của những
người tuyệt vọng phải thúc đẩy chúng ta phá vỡ những rào cản được dựng nên bởi
những kẻ muốn dập tắt tiếng kêu than của những con người túng quẫn, nhờ đó họ
cũng có thể đến với Chúa Giêsu là Đấng chúng ta tuyên xưng bước theo. Chúng ta
có thể tưởng tượng anh mù Ba-ti-mê đã nhảy lên vui sướng như thế nào (Mc
10,50). Chúng ta không thể nhìn thấy chính xác nơi Chúa Giêsu đang đứng, nhưng
rõ ràng Người từ chối giữ im lặng.
Chúng ta cũng chứng kiến
chính việc từ chối giữ im lặng như thế nơi những người tìm chỗ trú ẩn và sự an
toàn khi họ gõ cửa nhà chúng ta, gõ cửa biên giới chúng ta và trên hết, gõ cửa
lương tâm chúng ta. Trong họ và nơi họ, Giáo hội mời gọi con người nhận ra rằng
chúng ta là thành phần của một gia đình. Giống như anh mù Ba-ti-mê, không sợ
hãi dù đám đông chèn ép anh, chúng ta với tư cách là một gia đình nhân loại, phải
vượt qua sự nghi ngờ và sợ hãi tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng thật
là sai lầm khi để những mối nghi ngờ và nỗi sợ hãi điều khiển cách suy nghĩ và
hành động của chúng ta đến chỗ làm cho chúng ta trở nên thiếu khoan dung, khép
kín và có lẽ thậm chí thành người phân biệt chủng tộc mà không nhận thức được.
Nếu như thế nỗi sợ hãi sẽ tước đoạt ước muốn và khả năng gặp gỡ tha nhân là người
khác với chúng ta. Nỗi sợ hãi sẽ tước đoạt khỏi chúng ta cơ hội gặp gỡ Chúa
(Bài giảng trong Thánh Lễ ngày Thế Giới Người Di Dân và Tỵ Nạn 14 tháng 1 năm
2018)
Chúng ta là một Giáo hội,
một nhà, một gia đình khi chúng ta cùng nhau hành động để xóa bỏ thành kiến đối
với người di dân và người tỵ nạn. Những thành kiến làm phương hại đến cộng đồng
nhân loại cùng chung cảnh ngộ và đầy ân phúc. Hành động của Thiên Chúa trong thế
giới này mời gọi chúng ta đón nhận và quan tâm chăm sóc nhau. Việc mở lòng ra sẽ
giúp chúng ta xóa đi những thành kiến đáng sợ và làm cho lòng bác ái phát triển.
Nhà thần học Canada Bernard Lonergan nói rằng thành kiến là “sự biến dạng của việc
phát triển trí tuệ”. Con người bị gắn chặt vào những phạm trù bất biến vì các
thành kiến. Thành kiến có thể phát sinh từ một “động lực vô thức”, bắt rễ sâu từ
việc con người lớn lên chỉ biết coi thường người khác. Sâu xa hơn, thành kiến
có thể bắt nguồn từ “tính ích kỷ cá nhân, và có loại thành kiến mạnh mẽ và mù
quáng hơn do lòng ích kỷ của một nhóm người.” Tính ích kỷ chỉ lo mưu cầu lợi
ích cho cá nhân, cho nhóm hay chủng tộc của mình bắt người khác phải trả giá.
Hơn nữa, có một “loại thành kiến phổ biến về lương tri, chuyên biệt hóa trí tuệ
theo nghĩa riêng và cụ thể, nhưng thường tự xem mình như toàn năng.” Trong khi
những điểm mù và thành kiến thường là một phần của tâm thần, thì “con đường” của
Chúa Giêsu, và cũng phải là con đường của gia đình duy nhất là Giáo hội, đón nhận
cả người giàu lẫn người nghèo, người bị bách hại và người bị khinh chê, người
thượng lưu và người thuộc giai cấp thấp. “Con đường” của Chúa Giêsu không cho
phép tin vào thành kiến. Khi Chúa Giêsu gặp gỡ người tội lỗi, người phong cùi
và người phụ nữ bên giếng nước ở Samaria (Ga 4,1-42). Chúa Giêsu khẳng định rằng
“con đường” mà Người giảng dạy không thuận theo tầm quan trọng của chủng tộc,
dân tộc, văn hóa hay quê hương của con người. “Con đường” mà Chúa Giêsu dạy
loan báo quyền năng tối cao của Thiên Chúa và Ngài muốn tạo thành đồng thời mời
gọi chúng ta trở nên con trai và con gái của Ngài.
Việc trở nên con người
nhân vị có giá trị vượt xa việc thụ thai và sinh ra. Thiên Chúa ban cho chúng
ta được hiện hữu là trao cho chúng ta những lời mời gọi và sứ vụ. Chúng ta được
mời gọi yêu thương nhân loại mà Ngài trao cho chúng ta. Tình yêu này được thể
hiện cụ thể trong việc chăm sóc những người nhỏ bé nhất trong chúng ta (xem Mt
25,31-46). Tình yêu này không phải là một loại cảm xúc nào đó, nhưng là một
hành động nhằm mưu ích cho người khác và thực hiện điều thật cụ thể. Thiên Chúa
không từ bỏ chúng ta và cũng không sống cách xa chúng ta, nhưng Ngài đã quyết định
đến cắm lều ở giữa chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô (Ga 1,14). Thiên Chúa đã đối
xử với chúng ta với tình yêu hoàn toàn tự hiến, thì mối tương quan giữa chúng
ta với Thiên Chúa phải được xác định qua việc chúng ta gặp gỡ tha nhân. Như
Johann Baotist Metz lưu ý, một trong những lời khác với quy chuẩn thông thường
mà Chúa Giêsu nói là: “Ai “thấy” anh chị em mình là “thấy” Thiên Chúa.” Tình
yêu đối với người lân cận không khác tình yêu đối với Thiên Chúa, mà chỉ là mặt
trần gian của cùng một đồng xu.”
Để kết luận, tôi xin cùng
bạn quay lại với việc Chúa Giêsu chữa lành cho anh mù Ba-ti-mê. Chúng ta nhớ lại rằng câu hỏi mà
Chúa Giêsu dành cho anh Ba-ti-mê: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,51)
cũng giống như câu hỏi mà Người đã hỏi Gia-cô-bê và Gio-an, hai người con ông
Dê-bê-đê: “Các anh muốn Thầy làm gì cho các anh?” (Mc 10,36). Thánh I-nha-xi-ô
Loyola, vị thánh mà năm nay Giáo hội kỷ niệm 500 năm ngài hoán cải, cũng hỏi
câu hỏi đó với người đi linh thao: “Bạn muốn xin ơn gì?” Không giống như các
con ông Dê-bê-đê xin địa vị cao trọng, tính toán xem sẽ được gì khi đi theo
Chúa Giêsu, Ba-ti-mê chỉ thưa với Chúa Giêsu ước muốn đơn sơ: “Lạy Thầy, xin
cho con được nhìn thấy”. Và điều gì xảy ra khi anh được nhìn thấy? Anh đi theo
Chúa Giêsu trên con đường của Người, khác các môn đê gặp khó khăn khi bước theo
Chúa Giêsu trên con đường của Người. Chúng ta biết các ông đã sợ hãi như thế
nào (Mc 10,32). Không giống như các môn đệ, người ăn xin mù lòa trở thành gương
mẫu trong đời môn đệ và trong đức tin. Với “đôi mắt đức tin mở ra” giống như
đôi mắt người ăn xin ấy, tất cả chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, tạo
thành một cộng đoàn, nơi ấy không ai bị trấn áp, tạo thành một ngôi nhà nơi đức
tin triển nở và nơi mọi người cùng thở không khí trong lành bởi vì chúng ta biết
chăm sóc “ngôi nhà chung của chúng ta,” và tạo thành một gia đình nơi đó những
người chạy trốn các cuộc bách hại hay chiến tranh có thể dạy cho chúng ta biết
ý nghĩa của việc làm người.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chữa lành sự mù lòa về mặt luân lý của chúng ta, ý thức về luân lý mà chúng ta gọi là lương tâm, vốn giúp cho chúng ta phân biệt điều phải điều trái, để chúng ta chăm sóc những người nhỏ bé nhất trong chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa chữa lành sự mù lòa vì kém tin. Đức tin cho chúng ta tầm nhìn vượt qua các giác quan, vượt ra ngoài thế giới chúng quanh chúng ta, để nhận ra rằng chúng ta không chỉ là DNA và IQ. Chúng ta có một linh hồn, một mục đích và có cùng một vận mệnh đó là kết hiệp với Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta món quà nhìn thấy và thấu suốt để quyết tâm chăm sóc người khác và chia sẻ món quà mà chúng ta nhận được. Một câu ngạn ngữ của người Rwandan nói rằng “Iso ntakwanga akwita nabi”, nghĩa là “Hãy cho tôi biết tên của bạn và tôi sẽ nói bạn là ai.” Ba-ti-mê có nghĩa là Con trai của Ti-mê, Ti-mê có nghĩa là “tôn vinh”. Cầu chúc tất cả chúng ta trở nên những người con trai và con gái biết tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tôn vinh người di dân và người tỵ nạn. Có như thế chúng ta mới là những chứng nhân của một Giáo hội, một nhà, một gia đình.
(hdgmvietnam.com
15.09.2021)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét