Tại sao không được phép cử hành hôn nhân đồng tính?
1/11/2015
Hỏi: Xin cha giải thích Giáo Hội có cho phép cử
hành hôn nhân đồng tính không?
Trả lời:
Trước khi trả lời câu hỏi
đặt ra trên đây, thiết nghĩ nên biết qua về mục đích của hôn nhân trong Giáo Hội
Công Giáo.
Khi tạo dựng nên con người,
Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ đầu tiên và Ngài đã truyền cho họ:
“Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất.” (St
1:28)
Đây là nền tảng và mục
đích của hôn nhân trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Như thế, con người được vinh hạnh cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình
sáng tạo của Ngài, nghĩa là tham gia vào công trình làm cho có thêm nhiều người
“mang hình ảnh” của Thiên Chúa trong trần thế này cho đến cuối thời gian. Vì thế,
hôn nhân từ thời Cựu đến Tân Ước, trước hết, đều có mục đích diễn tả cách bóng
bẩy và cụ thể tình yêu sâu đậm của Thiên
Chúa dành cho con người
Trong Cựu Ước, hôn nhân
là giao ước tình yêu giữa Thiên Chúa và Israel, tức Dân riêng được tuyển chọn của
Ngài:
“Vì ngươi sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng
ái,
Và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở người;
Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ,
Đấng tạo tác ngươi sẽ cưới ngươi về;
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể,
Ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa
ngươi thờ.” (Is 62: 4-5)
Thiên Chúa “kết hôn” với
dân của Ngài, trong ý nghĩa thâm sâu của tình yêu vô biên mà Ngài đã dành cho họ.
Nhưng họ có bổn phận phải đáp trả bằng cách tuân giữ những thánh chỉ của Ngài để
được chúc phúc và sống muôn đời. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu cũng “kết duyên” với
toàn thể nhân loại được cứu chuộc bằng giá máu của Người đã đổ ra trên thập giá
để mang về cho Thiên Chúa một dân mới và chuẩn bị cho “hôn lễ và tiệc cưới của
Con Chiên và Hiền Thê của Người”, tức là hôn ước giữa Chúa Kitô với nhân loại
qui tụ trong Giáo Hội, được ví như người vợ yêu qúi hay là hiền thê của Người.
(Kh 19:7-9)
Trong ý nghĩa rất thân
tình và thâm sâu đó, hôn nhân quả thật là một ơn gọi (vocation) cao quí, qua
đó, Thiên Chúa mời gọi hai người nam nữ
kết hôn để “thiết lập giữa họ một giao uớc trọn
đời nhằm mưu lợi ích cho người kết
hôn, cho việc sinh sản con cái và giáo dục chúng. Giao ước này, thiết lập giữa
những người đã lãnh nhận phép rửa tội, đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích.
(x. SGLGHCG, số 1601).
Như thế, hôn nhân có mục
đích và ý nghĩa cao cả trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc nhân loại của
Thiên Chúa mà con người có vinh phúc được mời gọi tham gia và cộng tác.
Nói khác đi, hôn nhân giữa
hai người nam và nữ tượng trưng cho giao uớc tình yêu và bổn phận giữa con người
với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương
vô vị lợi, mà tạo dựng con người và “muốn
cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2). Nhưng con người cũng
được mong đợi đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, bằng cách chu toàn ơn gọi của
mình và sống theo đường lối của Thiên Chúa
để được vui hưởng hạnh phúc đời đời
với Người trên Nước Trời mai sau.
Do đó, những ai được mời
gọi kết hôn đều được mong đợi sống đúng với mục đích của ơn gọi này là cộng tác
với Thiên Chúa trong chương trình sáng tạo nhân loại và làm chứng cho tình yêu
vô biên của Chúa dành cho toàn thể con
cái loài người. Nghĩa là phải chu toàn những trách nhiệm
và mục đích của hôn nhân để nêu
cao những giá trị của đời sống gia đình,
sinh con cái và giáo dục chúng để giúp chúng nhận biết và yêu mến Thiên
Chúa cũng như chân quí tình yêu phu phụ
tương trưng cho tình yêu thắm thiết và bền vững giữa Thiên Chúa và loài người.
Thật vậy, khi kết hôn hợp
pháp và thành sự ( licitly and validly),
hai người phối ngẫu được lãnh nhận ân sủng riêng của bí tích để kiện toàn tình
yêu của họ và để giúp họ “nên thánh trong cuộc sống vợ chồng, trong việc đón
nhân và giáo dục con cái nên thánh.” (Lumen Gentium 11).
Mặt khác, qua việc kết
hôn, hai người phối ngẫu bắt đâu xây dựng đời sống gia đình, từ đó phát sinh những
công dân mới cho xã hội và tăng số con cái cho Giáo Hội nhờ phép rửa.
Vì thế, gia đình được ví như một ‘xã hội nhỏ,
thu hẹp” một ‘Giáo Hội tại gia” (domestic church). Chính vì muôn nhấn mạnh và đề cao vai trò của
gia đình mà Chúa Giêsu đã chọn sinh ra trong một gia đình có cha mẹ loài người
là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ thật của Chúa và Thánh Cả Giuse, nguời Cha nuôi của
Chúa (Foster Father) trong Thánh Gia thất xưa.
Như vậy, hôn nhân phải là
hành động nhân linh xẩy ra giữa một người nam và một người nữ đúng theo Ý định
của Thiên Chúa khi tạo dựng Adam và Eva, là đôi hôn phối đầu tiên trong lịch sử
nhân loại. Nghiã là từ đầu, hôn phối không hề dành cho hai người cùng phái tính
(same sex) vì nó đi ngược lại hoàn toàn với mục đích và trách nhiệm của hôn
nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa. Do
đó, ai cho phép việc kết hôn đồng tính (same sex marriage) thì đã hành động chống
lại chính Thiên Chúa là Tác giả của luật hôn nhân và cũng phá hủy tận gốc rễ nền
tảng và mục đích hôn nhân trong xã hội loài người. Chắc chắn như vậy.
Nói thế không có nghĩa là
lên án những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái (lesbian or homosexual
tendencies).
Nhưng cần phân biệt giữa
khuynh hướng tự nhiên về đồng tính và hành vi đồng tính.
Một người được sinh ra với
khuynh hướng tự nhiên (natural tendency) hướng chiều về đồng tính
(homosexuality) thì đây không phải là lỗi của họ, nghĩa là họ không có tội vì có
khuynh hướng tự nhiên này.
Họ cần được giáo dục,
giúp đỡ và thông cảm để vượt thắng khuynh hướng tâm sinh lý bất bình thường
(abnormal) đó.
Chỉ những ai cố ý muốn thực
hành những hành vi đồng phái tính (lesbian or homosexual acts) mới có tội mà
thôi, vì những hành vi này là “những
hành vi thác loạn tự bản chất (intrinsically disordered) nghich với luật tự nhiên vì chúng ngăn cản hành vi tính dục đưa đến đón nhận quà tặng sự sống.” (x.SGLGHCG, số 2357).
Cụ thể, hai người đồng
tính không thể sinh sản con cái và xây dựng nếp sống gia đình cách đúng nghĩa
được. Mọi hành vi luyến ái của họ đều sai trái nghiêm trọng về luân lý, trái tự
nhiên, và không giúp chu toàn mục đích của đời sống hôn nhân. Do đó, ở đâu
và ai
cho phép việc này thì thực chất
chỉ để chiều theo đòi hỏi của một
thiểu số người bệnh hoạn về tâm sinh lý mà thôi.Cho họ kết hôn như vậy là làm đảo lộn mục đích hôn phối mà Thiên Chúa
đã thiết lập từ đầu và Giáo Hội có trách nhiệm bảo vệ và nghiêm chỉnh thi hành.
Tóm lại, không khi nào
Giáo Hội công nhận và cho phép sự thành hôn giữa hai người cùng phái tính. Đây là sự suy thoái đạo đức trầm trọng của một
số xã hội Âu Mỹ, một lẫn lộn về trật tự
và giá trị luân lý với tự do và sở thích cá nhân của thời đại trống vắng niềm tin này.
Người tín hữu Chúa Kitô
phải có can đảm chống lại trào lưu suy thoái đạo đức và luân lý nghiêm trọng
này để bảo vệ giá trị và mục đích của hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập từ
khi tạo dựng con người có nam có nữ.
Sau hết chúng ta cũng
không quên cầu nguyện cho những người có khuynh hướng trái tự nhiên về tâm sinh
lý : xin Chúa giúp họ nhận ra và thắng
vượt được khuynh hướng bất bình thường này.
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét