Niềm Mong Đợi
(Chúa Nhật I Vọng, năm C)
(Sat,
21/11/2015 - Trầm
Thiên Thu-thanhlinh.net)
Mùa Vọng
lại về, khởi đầu một Năm Phụng Vụ mới. Mùa Xuân Phụng Vụ không nhộn nhịp cũng
chẳng rực rỡ sắc màu như Tết Nguyên Đán hoặc các dịp lễ hội khác.
Mùa Xuân
Phụng Vụ có vẻ lặng lẽ và thâm trầm trong sắc tím, nhưng lại không là màu buồn
ảm đạm. Sắc tím biểu hiện sự chung thủy, hy vọng trong khoảng mong chờ – đặc
biệt là mong chờ Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân gian, giải thoát khỏi mọi thứ
đau khổ, mọi bất công, áp bức, bóc lột,... nhất là cứu chúng ta thoát khỏi sự
kềm kẹp của ma quỷ, ách tội lỗi.
Trong tâm
tình ngưỡng vọng Đấng Thiên Sai, chúng ta vững tâm tín thác và cùng với ngôn sứ
Isaia (Is 45:8 – Thánh ca Rorate Cœli hoặc Rorate Cæli) chân thành dâng lời cầu
nguyện:
Trời cao hỡi, hãy gieo sương
Xin mây mưa xuống đức công chính Người
Nẩy mầm cứu độ, đất ơi!
Để cho chính trực đồng thời vươn lên
Triết gia
Jean Jacque Rousseau (1712-1778, Pháp quốc) bộc bạch: “Tôi đã đau khổ quá
nhiều ở thế giới này để hy vọng một thế giới khác”. Còn sử gia Thomas
Fuller (1608-1661, Anh quốc) đưa ra một hệ lụy tất yếu: “Nếu không nhờ có hy
vọng, trái tim sẽ tan vỡ”. Niềm hy vọng thực sự quan trọng trong cả cuộc
sống thường và cuộc sống tâm linh – đặc biệt là cuộc đời Kitô hữu.
Hy vọng là
Đức Cậy, một trong ba nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến). Có tin tưởng mới hy
vọng, có hy vọng mới mong chờ – tức là luôn kiên tâm vững chí hướng về tương
lai. Mong chờ thì phải tỉnh thức, nghĩa là khôn ngoan, nếu mong chờ mà không
tỉnh thức thì chỉ là khờ dại (x. Mt 25:1-13). Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta phải
tỉnh thức, luôn “dầu, đèn” sẵn sàng,
một lòng kiên tâm mong đợi Đức Giêsu Kitô.
Có câu
chuyện ngụ ngôn thế này...
Trong một
căn phòng, không gian tĩnh lặng tới mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì
thầm của những ngọn nến. Cây nến thứ nhất than vãn: “Tôi là biểu tượng
của Bình An và Hoà Thuận. Thế nhưng thời nay, những cái đó
thật chênh vênh, chông chênh. Thế giới hiếm khi không có gươm đao, súng đạn,
tranh chấp, cãi cọ,... giữa người với người – thậm chí vợ chồng, anh em trong
một nhà”. Thế rồi ngọn nến leo lét, ngọn lửa mờ dần, mờ dần,... cho tới khi
ánh sáng lụi tắt hoàn toàn.
Ngọn nến
thứ hai vừa lắc đầu vừa kể lể: “Tôi là Niềm Tin. Thế nhưng
trong thế giới này hình như tôi trở nên thừa thãi, như một thứ xa xỉ. Biết bao
kẻ sống theo thời không cần tới niềm tin”. Nói rồi ngọn nến từ từ tắt, tỏa
ra một làn khói trắng luyến tiếc.
Ngọn nến
thứ ba than phiền: “Tôi là Tình Yêu, nhưng tôi không còn đủ sức
để tỏa sáng nữa. Người ta gạt tôi ra một bên và không thèm hiểu giá trị của
tôi. Cứ nhìn thế giới mà xem, không thiếu những kẻ quên luôn cả tình yêu đối
với chính những người ruột thịt của mình”. Dứt lời, ngọn nến vụt tắt.
Căn phòng
trở nên tối tăm. Chỉ còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh
sáng, như ngôi sao đơn độc giữa đêm tối âm u. Bất chợt, một cô bé bước vào
phòng. Thấy ba ngọn nến đã tắt, cô bé thốt lên: “Tại sao các bạn không cháy
nữa? Cuộc sống này luôn cần các bạn. Hòa Bình, Niềm Tin và Tình
Yêu phải luôn tỏa sáng chứ!”.
Riêng cây
nến thứ tư vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng khe khẽ đáp lời cô gái: “Đừng
lo! Tôi là Hy Vọng. Nếu tôi còn cháy, mặc dù ngọn lửa rất mong manh, chúng ta vẫn có thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu”. Mắt cô bé sáng lên. Cô bé dùng cây nến Hy Vọng để thắp sáng lại các cây nến khác.
Niềm Hy
Vọng rất quan trọng. Nếu trái tim luôn cháy lên “ngọn lửa hy vọng”, dù chỉ
leo lét và âm ỉ, chúng ta sẽ tìm lại được những điều tốt đẹp khác cho cuộc
sống: Tình Yêu, Niềm Tin và Bình An. Một danh nhân cũng đã nhận định: “Thà
thắp sáng lên một ngọn lửa, còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Ngọn lửa đó
là Hy Vọng.
Chúng ta
là các Kitô hữu, chính xác phải nói là tín hữu Công giáo, chúng ta luôn sống
trong hy vọng và mong chờ Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, cả cuộc đời Kitô hữu là
miệt mài sống Mùa Vọng liên lỉ và kéo dài, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời.
Thật vậy, Chúa Cha đã hứa ban Con Một cho nhân loại, và chính Người Con ấy đã
thực sự đến, hiện hữu trong xác phàm, nên giống chúng ta mọi thứ – ngoại trừ
tội lỗi, đồng lao cộng khổ với chúng ta. Người Con ấy là Đức Giêsu Kitô, là
Thiên-Chúa-Con-Người với thần tính và nhân tính. Trước khi về trời, Chúa Giêsu
lại hứa sẽ đến đón chúng ta, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó (Ga 14:3).
Điều gì
Chúa hứa thì luôn nên trọn, gọi là ứng nghiệm. Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta
biết về “định chế cho tương lai” qua
sấm ngôn của Đức Chúa: “Này, sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành
Ta đã phán về nhà Ít-ra-en và về Giu-đa” (Gr 33:14). Ngày đó như thế nào?
Ngôn sứ Giêrêmia cho biết: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc
lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước
theo lẽ công bình chính trực. Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu
thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho
thành: Đức Chúa là-sự-công-chính-của-chúng-ta!” (Gr 33:15-16).
Thiên Chúa
là Nguồn Chân Lý và Công Lý, tất nhiên Ngài toàn thiện, và cũng chỉ một mình
Ngài nhân lành (Mc 10:18; Lc 18:19). Tác giả Thánh Vịnh ộc bạch qua lời
tuyên xưng: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của
Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo
ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy
trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5). Và đó cũng là điều khấn
nguyện mà mỗi chúng ta đều phải biết cầu xin không ngừng.
Chúa Giêsu
mà chúng ta khao khát và mong đợi chính là Đấng Em-ma-nu-en, là Đấng
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Lc 1 :23). Ngài đến không chỉ làm gương cho
chúng ta noi theo, mà Ngài còn hướng dẫn và giáo huấn chúng ta biết cách đến
với Chúa Cha, biết con đường về trời: “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ
lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường
lối của Người. Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với
những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa” (Tv 25:8-10). Tục ngữ Việt Nam
có câu: “Cha nào, con nấy”. Chúa Giêsu là Con của Đấng Nhân Lành Giàu
Lòng Thương Xót nên Ngài cũng giống như Chúa Cha. Tác giả Thánh Vịnh nói rõ: “Chúa
xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Người” (Tv
25:14). Câu tục ngữ kia cũng khả dĩ áp dụng cho đời sống tâm linh, nghĩa là
chúng ta cũng phải có máu-thương-xót như Chúa Cha và Chúa Con.
Thật vậy,
Thánh Phaolô đã cầu chúc: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối
với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng
như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em
được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê
trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng
ta, quang lâm cùng với các thánh của Người” (1 Tx 3:12-13). Chúa Giêsu cũng
chỉ mong chúng ta biết sống như vậy mà thôi, vì yêu người là yêu Chúa, là giữ
trọn lề luật (Rm 13:8; Rm 13:10).
Với tâm
trạng chờ đợi, Thánh Phaolô nhắn nhủ thêm, đồng thời cũng là mệnh lệnh: “Thưa
anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa,
và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin,
chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. Hẳn anh em rõ
chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em” (1 Tx
4:1-2).
Mùa Vọng
là dịp mong chờ Chúa Giêsu giáng sinh, ngày Con Thiên Chúa mặc xác phàm và là
dịp Ngài đến thế gian lần thứ nhất. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng là dịp nhắc
nhở chúng ta mong chờ ngày Con Thiên Chúa đến thế gian lần thứ hai, tức là ngày
Chúa Giêsu Kitô quang lâm, cũng gọi là Ngày Tận Thế, Ngày Cánh Chung, hoặc Ngày
Chung Thẩm.
Trong khi
chờ đợi, người ta phải tích cực hành động cụ thể chứ không thể thụ động theo “chủ nghĩa” MaKeNo (mặc kệ nó), ra sao
thì biết vậy. Chuẩn bị càng tốt thì kết quả càng mãn nguyện, không chuẩn bị thì
có hối cũng không kịp. Nước đến chân mới nhảy thì sẽ bị nước cuốn trôi.
Trình thuật
Lc 21:25-28 (tương đương Mt 24:29-31 và Mc 13:24-27) cho chúng ta biết những
điềm lạ trên trời và dưới đất ngay trước khi Con Người quang lâm: “Sẽ có
những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo
lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu
phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời
sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh
quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy
đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”.
Cảnh tượng
chắc chắn rất khủng khiếp, bây giờ chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Quang
cảnh dữ tợn như núi lửa, sóng thần, động đất, bão lụt, các vụ khủng bố – như vụ
tòa tháp đôi WTC (World Trade Center) ở Hoa Kỳ ngày 11-9-2001 hoặc vụ khủng bố
tại Pháp hồi đầu tháng 11-2015 – cũng chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi.
Tất cả đều
bất ngờ, không thể kịp phản ứng bất cứ một động thái nào, dù là động thái nhỏ
nhất. Và rồi ai cũng kinh ngạc và hốt hoảng. Vì thế, chúng ta “phải tỉnh thức và cầu nguyện” không
ngừng, như Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng
mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày Ấy như một
chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày Ấy sẽ ập xuống
trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu
nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững
trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36).
Chúa Giêsu
nói ngắn gọn nhưng rõ ràng. Chắc chắn Ngày Ấy vô cùng khủng khiếp, đến nỗi
người ta “hồn xiêu phách lạc” kia mà.
Người nào có “lì lợm” tới mức nào
cũng phải rung động và kinh ngạc. Do đó, hãy luôn van xin Thiên Chúa: “Xin
đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi
Ngài” (Tv 33:22).
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp con biết khao khát Đấng Thiên Sai, biết mong chờ và chuẩn
bị tâm hồn bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện liên lỉ, đồng thời thể hiện rõ nét
Tôn Nhan Thương Xót của Ngài. Xin Mưa Giêsu gội mát và tẩy rửa trần gian để mọi
người biết thương xót lẫn nhau, nhờ đó mà không còn những kẻ xấu tìm cách khủng
bố người khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng ban hòa bình cho nhân
loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét