GIŨ SẠCH
MONDAY,
MARCH 25, 2019-TRẦM THIÊN THU
CON LỖI LẦM BIẾT TÍN
THÀNH SÁM HỐI
CHÚA NHÂN HẬU LIỀN THA
THỨ YÊU THƯƠNG
Giặt là hành động “rửa”
quần áo, nhưng không thể chỉ “giặt” mà còn phải “giũ” – giũ cho sạch. Việt ngữ
thường kết hợp hai động tác đó thành “giặt giũ”. Ngày xưa, chính Đức Chúa đã
truyền lệnh cho ông Mô-sê: “Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải
giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng,
vì ngày kia Đức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân” (Xh
19:10-11). Cựu Ước đề cập động từ “giặt” 24 lần, Tân Ước đề cập 4 lần, đặc biệt
là câu này: “Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây
Sự Sống và qua cửa mà vào Thành!” (Kh 22:14).
Làm gì cũng mệt, giặt giũ
cũng vậy, đồ càng bẩn thì giặt càng mệt. Tương tự, chiếc áo tinh thần càng bẩn
càng khó giặt, chỉ có thể giặt bằng loại “thuốc tẩy” đặc biệt là Bửu Huyết Đức
Giêsu Kitô. Thông thường, muốn bỏ một điều xấu hoặc một thói xấu thì người ta
phải dám – nghĩa là phải can đảm. Có can đảm mới có thể tin tưởng, có tin tưởng
mới có thể dứt khoát “đứng dậy” và “trở về”. Người con hoang đàng yếu đuối phần
xác nhưng lại đủ mạnh tinh thần nên đã có sự can đảm và dám dứt khoát để trở về
mái nhà xưa, mong được chuộc tội với người cha, và chính người cha cũng đã can
đảm và dứt khoát mới có thể nhìn nhận đứa con hư là người con yêu như trước.
Thuở xưa, Đức Chúa xác định
với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập”
(Gs 5:9). Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay. Con
cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành Lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong
tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Đó là hồng ân Thiên
Chúa đã trao ban cho dân Ít-ra-en, cả người tốt lẫn người chưa tốt, cũng như
mưa xuống cho mọi người mà chẳng phân biệt ai sang hay hèn, khôn hay dại, tín
nhân hay vô thần.
Cuộc sống của dân
Ít-ra-en giản dị, nhờ hồng ân nhưng vẫn phải hợp tác bằng sức lao động hằng
ngày: “Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men
và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng
thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ
đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an” (Gs 5:11-12). Làm việc để biết giá trị của
lao động và ý nghĩa của cực khổ. Hưởng dùng những gì do mình làm ra mới biết
trân quý sự nỗ lực của bản thân, nếu cứ an nhàn thì người ta dễ ảo tưởng, ỷ lại
và kiêu ngạo.
Dù chúng ta tốt hay xấu
thì nguồn mạch Hồng Ân của Thiên Chúa vẫn luôn tuôn tràn, lòng thương xót của
Ngài chẳng bao giờ giảm sút chút nào. Cảm nhận được điều đó nên Thánh Vịnh gia
xác định: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt
trên môi” (Tv 34:2). Tại sao vậy? Lý do rất minh nhiên: “Linh hồn tôi hãnh diện
vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:3). Đó là chứng cớ sống
động, không thể chối bỏ, thế nên không thể không nói ra để chia sẻ với người
khác.
Tất nhiên không chỉ có vậy,
bất cứ những ai cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa thì chắc chắn
không thể thụ động, nghĩa là bằng cách nào đó, họ sẽ tích cực kêu gọi: “Hãy
cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm
Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên
Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:4-6). Yêu nhiều
thì lợi nhiều, cụ thể là được tha thứ nhiều (x. Lc 7:36-50). Tình yêu mạnh hơn
mọi thứ, bất chấp cả tử thần. Thánh Antôn Maria Claret đã tha thiết ước muốn:
“Lạy Chúa Giêsu, con muốn yêu mến Ngài hết lòng, hết con người và hết sức con.
Con xin tận hiến cho Ngài mọi tư tưởng, ước muốn, lời nói và hành động của con,
những gì con có và những gì có thể. Con xin sử dụng những gì con có để vinh
danh Ngài, theo Thánh Ý Ngài”.
Thiên Chúa là Đấng thương
xót, luôn chạnh lòng thương xót, chỉ muốn cứu người ta thoát khỏi đau khổ. Thế
nên Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu mọi nỗi niềm. Thánh Vịnh gia khiêm nhường
và chân thành tâm sự: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi
cơn nguy khốn” (Tv 34:7). Cầu xin là một dạng cầu nguyện, và cầu nguyện là sức
mạnh phi thường. Thánh Louis De Montfort: “Hãy cầu nguyện với lòng tin tưởng
sâu sắc, lòng tin tưởng dựa trên sự thiện và sự đại lượng vô hạn của Thiên
Chúa, dựa vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là nguồn mạch nước hằng sống
không ngừng tuôn chảy vào tâm hồn những người cầu nguyện”.
Ai chuyên cần cầu nguyện
thì được nhiều ơn thánh và đủ sức biến đổi. Thánh Phaolô xác định: “Ai ở trong
Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr
5:17). Đó là cách canh tân, càng ngày càng mới hơn. Nhưng không phải do công sức
của chúng ta, mà “mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà
cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải”
(2 Cr 5:18). Thánh nhân giải thích: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian
được hoà giải với Người. Người KHÔNG CÒN CHẤP TỘI nhân loại nữa, và giao cho
chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô,
như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô,
chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2 Cr 5:19-20). Hòa giải với
Thiên Chúa thì tất nhiên cũng phải hòa giải với tha nhân, đó là một cách để “giặt
sạch” chiếc áo đời đầy vết bẩn tội lỗi của mình.
Chúng ta biết rằng Thánh
Phaolô là một học giả của nhóm Pharisêu, chữ nghĩa đầy mình, nhưng ông không
văn hoa bóng bẩy mà lại viết rất rõ ràng và thực tế: “Đấng chẳng hề biết tội là
gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để
làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Tình yêu Thiên Chúa
quá kỳ diệu, quá cao siêu, chúng ta không thể nào lý giải được, mà chỉ có thể
cúi đầu kính tin, chúc tụng và cảm tạ không ngừng.
Thời đó, các người thu
thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng điều hay
lẽ phải, dạy lời thiêng ý thánh, nhờ đó mà có thêm ý lực sống. Thấy thế, nhóm
người Pharisêu và kinh sư tỏ vẻ khó chịu – vì tự nhận mình thông suốt và đạo đức
hơn người, và họ xầm xì với nhau về Chúa Giêsu: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi
và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Lưỡi không xương đủ đường lắt léo. Tình trạng
này rất thường thấy trong cộng đồng: Xét người hơn xét mình. Đó là một dạng
kiêu ngạo được che đậy khá tinh vi dưới nhiều dạng thức, không khác gì người
Pharisêu dám chê trách người thu thuế ngay khi cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Đó
là dạng “phạm tội ngay khi làm việc đạo đức”. Ôi chao, người ta sai mười mươi
mà vẫn cho mình là đúng, là hay. Kẻ vỗ ngực tự làm kềm kẹp chính mình, người đấm
ngực tự giải thoát chính mình.
Chúa Giêsu biết rõ họ
đang thầm nghĩ và toan tính điều gì, nên Ngài kể cho họ nghe dụ ngôn “Người Cha
Nhân Hậu” (Lc 15:11-32) – cũng gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”. Ngài ôn tồn:
Một người kia có hai cậu con trai. Có lẽ do vọng ngoại và bị bạn bè xấu rủ rê
nên cậu nhỏ nói với cha: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”.
Chắc là người cha cũng ngạc nhiên, nhưng ông vẫn chiều theo ý nó mà phân chia của
cải cho hai cậu. Ít ngày sau, cậu nhỏ thu góp tất cả rồi ra đi, không hẹn ngày
về. Ở nơi nào đó, cậu ta sống phóng đãng, ăn chơi sa đọa, phung phí hết tài sản
của mình, bất cần tương lai.
Miệng ăn, núi lở. Chẳng
bao lâu, cậu ta tiêu xài hết sạch, nhưng không may trong vùng ấy lại xảy ra một
nạn đói khủng khiếp. Cậu ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở đợ cho một
người dân trong vùng, và người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Trong cơn bĩ cực,
cái đói nhói cái khổ, cậu ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng
mà cũng không dám, bởi vì chẳng ai cho. Thật thê thảm! Bấy giờ cậu ta hồi tâm
và nhớ nhà. Cậu ta biết rằng có nhiều người làm công cho cha mà vẫn được cơm dư
gạo thừa, còn cậu ta ở đây lại đói meo, chỉ có nước chờ chết thôi. Cậu ta quyết
định trở về và sẽ thú tội với cha, rồi xin cha nhận mình như người làm công
thôi, chứ chẳng dám hy vọng gì hơn. Sau quá trình giằng co tư tưởng, cậu ta dứt
khoát đoạn tuyệt với quá khứ, lấy hết can đảm đi về ngay, không dám nán lại
giây phút nào nữa. Và nước mắt bao giờ cũng chẳng xuống...
Rất quan trọng đối với động
thái dứt khoát. Đó là từ bỏ chính mình, dám “chết” cho tội lỗi, “chết” cho những
gì bất chính nơi mình. Đau khổ, thất bại, thua cuộc, lâm bước đường cùng, bệnh
tật, tai bay vạ gió,… đó là những lúc tiếng Chúa đang thẳng thắn nói thật với
chúng ta. Tài sản cá nhân của chúng ta không là tiền bạc, của cải, vàng bạc, vật
chất… mà là tính tự phụ, tính ích kỷ, thói kiêu căng, thói lọc lừa, gian dối,
mưu thâm kế độc,… Và rồi một lúc nào đó, chúng ta cũng “trắng tay” và không dám
“đứng thẳng” mà ngước nhìn đời. Khi bị “triệt buộc”, người ta lâm cảnh tiến
thoái lưỡng nan, nhưng nếu can đảm dứt khoát với quá khứ thì thật phúc thay, bởi
vì Thiên Chúa nhân từ vẫn luôn dành cho chúng ta lòng thương xót nguyên vẹn:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb
7:3 và 6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv
136:1-26).
Mới về gần đến nhà, cậu
nhỏ đã được cha ra đón. Cậu biết thân biết phận mình khốn nạn nên cậu bật khóc
và nói với cha: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng
gọi là con cha nữa”. Cậu xấu hổ lắm. Nhưng người cha vẫn chờ giây phút này từ
ngày cậu dứt tình ra đi. Thế là nó đã biết lỗi, người cha vui mừng liền bảo các
đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép
vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Tiệc mừng
làm ngay, ăn ngay, không thể trì hoãn sự sung sướng như thế, mặc dù lúc đó vắng
mặt cậu lớn. Ôi, Lòng Thương Xót của Chúa quá bao la và vô cùng kỳ diệu!
Trong khi đang tiệc mừng
rôm rả, người con cả của ông vẫn ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe
thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện
gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp
lại cậu ấy mạnh khoẻ”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người
cha ra năn nỉ, nhưng anh ta tỏ vẻ khó chịu và so đo: “Cha coi, đã bao nhiêu năm
trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy
được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau
khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê
béo ăn mừng!”.
Rõ ràng cháy nhà mới ra mặt
chuột. Đâu hẳn là con ngoan khi vẫn ở nhà và làm việc cho cha, chứ không chơi bời
lêu lổng, không hoang đáng chi địa, cũng chẳng cờ bạc hoặc rượu chè. Lúc có “sự
cố” mới biết, lâu nay cậu lớn có vẻ ngoan ngoãn đấy, nhưng trong lòng chẳng tốt
lành gì đối với cha mình. Thái độ ngang ngạnh và lời nói xấc xược bây giờ chứng
tỏ cậu ta thực sự nổi loạn: không bằng lòng người cha và chẳng ưa thằng em.
Chúng ta cũng thế thôi, bằng mặt mà chẳng bằng lòng, cũng chỉ là những đứa con
bất hiếu, vẫn thường so đo và tính toán như cậu lớn trong dụ ngôn này. Tính
kiêu ngạo luôn chờ cơ hội, từ manh nha biến thành manh động chỉ trong tích tắc.
Cái tôi ích kỷ cũng chỉ chực vùng lên bất cứ lúc nào, với nhiều cách biện hộ
cho sự tồi tệ của mình. Thật chí lý với nhận xét của Benjamin Franklin
(1706-1790, tổng thống Mỹ): “Half a truth is often a great lie – Một nửa sự thật
thường là điều dối trá to lớn”.
Rất có thể lúc nghe cậu lớn
nói vậy, người cha đã bật khóc vì quá đau lòng, thế nhưng ông vẫn chịu đựng, nhẫn
nhịn, điềm đạm và ôn tồn nói với nó: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả
những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì
em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha lý
luận tuyệt vời quá. Tình yêu thương khỏa lấp mọi khoảng trống và thắng vượt mọi
thứ.
Quả thật, Thiên Chúa vô
cùng nhân từ và kiên nhẫn, Ngài đã chấp nhận bỏ 99 người đạo đức để đi tìm chỉ
một người lầm đường lạc lối, vì Ngài “không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn
này phải hư mất” (Mt 18:14). Ôi, Thiên Chúa “ngược đời” quá mà cũng kỳ diệu
quá! Nếu Ngài không “khác người” như vậy thì chúng ta hết đường “về nhà” như cậu
nhỏ và cũng hết lý luận kiêu căng như cậu lớn. Vì thế, chúng ta phải dứt khoát
bỏ ngay thói bạc tình của cậu lớn và thói hoang tưởng như cậu nhỏ. Nói chung,
thằng nào cũng bất nhân, chẳng thằng nào có hiếu với cha mình!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, chúng con thật là khốn nạn, thế mà vẫn
mạo nhận là “chiên ngoan”. Chúng con biết tội rồi, xin Ngài thương xót và biến
đổi chúng con nên khí cụ của Ngài, xin dập tắt thói kiêu sa, tính hợm mình nơi
chúng con, xin giúp chúng con nhận biết mình là tội nhân ngu xuẩn để có thể đoạn
tuyệt với quá khứ đen tối mà kịp trở về trong thời gian còn được cậy nhờ lòng
thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu
Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét