Nữ trạng nguyên duy nhất trong sử Việt
Trần
Hưng • Thứ Tư, 24/11/2021
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, báo Bình Phước Online)
Thời xưa “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được xem là việc của đàn ông, vì thế mà cảnh đèn sách đi thi của các sĩ tử thì tuyệt chỉ có nam giới, không hề có bóng nữ nhi nào. Chính vì thế nếu có bậc nữ nhi nào thông tỏ Tứ thư Ngũ kinh, có chí dùi mài kinh sử thì chỉ có nước đóng giả nam mới có cơ hội lọt vào trường thi. Lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một bậc nhi nữ phải cải trang thành nam để thi tài, kết quả đã vượt qua tất cả các sĩ tử khác, trở thành trạng nguyên đứng đầu khoa thi.
Nữ trạng nguyên duy nhất
sử Việt
Nguyễn Thị Duệ sinh ngày
14/3/1574 ở Kiệt Đặc, nay là phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Thuở nhỏ bà có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn. Tương truyền rằng khi lên 4 tuổi bà
đã biết viết chữ, đọc văn thơ, nức tiếng gần xa.
Trong dân gian còn lưu
truyền câu chuyện rằng, thuở nhỏ, khi bị một cậu ấm trong vùng đến chọc ghẹo,
bà đã làm hai câu thơ như sau:
Xá chi vàng đá hỗn hào
Thoảng đem cánh phượng
bay cao thạch thành.
Năm 10 tuổi, Nguyễn Thị
Duệ đã nổi tiếng là vừa đẹp người, lại đẹp nết, khiến nhiều gia đình quyền quý
đến xin cưới hỏi, nhưng gia đình bà đều không ưng thuận.
Theo sách “Đại Nam nhất
thống chí” thì “bà thông minh hơn người, học rộng hay chữ, hơn 10 tuổi giả
trai, theo thầy học tập”.
Cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ
17, cuộc chiến Trịnh – Mạc nổ ra. Năm 1592, Trịnh Tùng đưa quân tiến đánh Hạ Hồng,
Nam Sách, Kinh Môn, chính là gần với quê hương của Nguyễn Thị Duệ. Trận này Mạc
Mậu Hợp thất thế và bị bắt, vùng đất Hải Dương bị chiến tranh tàn phá, nhiều
người chết. Để tìm đường sống, nhiều người dân trong vùng theo chân nhà Mạc chạy
lên Cao Bằng, gia đình Nguyễn Thị Duệ cũng nằm trong số đó.
Tại Cao Bằng, bà tìm học
người thầy họ Cao. Khi nhà Mạc mở khoa thi năm 1594, dù có phần sa sút so với
trước kia nhưng vẫn có nhiều sĩ tử các nơi đăng ký tham gia. Nguyễn Thị Duệ
cùng người thầy của mình cũng đăng ký.
Nguyễn Thị Duệ năm ấy 20
tuổi, cải trang nam nhi mang tên là Nguyễn Du, vượt vào trường thi. Kết quả
bất ngờ là bà đã đứng đầu cuộc thi này, còn thầy của bà đứng thứ hai. Sau cuộc
thi, người thầy cảm động nói với bà rằng: “Màu xanh từ màu lam mà ra, ấy vậy mà
lại đẹp hơn màu lam”.
Hiền tài khiến vua chúa
triều nào cũng mến phục
Đến buổi yến tiệc dành cho các sĩ tử, nhiều ánh mắt đổ về người đỗ đầu với sự ngưỡng mộ. Vua Mạc Kính Cung thấy chàng trai đỗ đầu này dáng người mảnh mai, nét mặt thanh tú, bèn tìm cách dò hỏi mà biết rõ mọi chuyện của Nguyễn Thị Duệ. Thế nhưng khi biết thân thế thật sự của bà, vua Mạc không trách cứ mà còn khen ngợi.
Nguyễn Thị Duệ được mời
vào cung để làm thầy dạy cho các phi tần của vua, ban hiệu là “Lễ nghi cố vấn”,
rồi sau đó được tuyển làm Tinh phi. Vì thế người đời quen gọi bà là “bà chúa
Sao”.
Năm 1625, quân Trịnh tiến
đánh Cao Bằng diệt nhà Mạc, Nguyễn Thị Duệ phải chạy vào ẩn náu trong rừng
nhưng bị quân Trịnh đổi theo bắt được. Tướng nhà Trịnh là Nguyễn Quý Nhạ vốn
cùng quê với bà, từ lâu đã nghe danh tiếng của bà, bèn thảo một tờ biểu cho
chúa Trịnh xem xét.
Chúa Trịnh Tráng sau khi
tìm hiểu, biết bà là người có học thức bèn giao cho bà giảng dạy cho các phi tần
ở phủ chúa, cung vua.
Với học vấn uyên thâm,
Nguyễn Thị Duệ ở trong cung dạy lễ nghĩa, văn thơ. Tại phủ chúa mỗi khi được hỏi
han, bà đều viện dẫn kinh sử cùng các tích cổ nhằm khéo khuyên chúa nghe theo lời
răn dạy của các bậc
Thánh hiền,
lấy dân làm gốc.
Thời gian này Nguyễn Thị
Duệ có được mối giao hảo thâm tình với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc (vợ vua Lê Thần
Tông). Hai bà hàng ngày cùng lễ chùa, vãn cảnh. Nhờ các cuộc đàm đạo với sư sãi
cũng như giao tiếp bên ngoài mà bà biết thêm tình hình đất nước cũng như sự cơ
cực lầm than của người dân, để khi cần có thể lên tiếng giúp triều đình có được
các chính sách hợp lòng dân.
Có công lớn
trong nền giáo dục nước nhà
Cả vua Lê và chúa Trịnh đều
coi trọng bà, phong bà là Nghi Ái Quan, cho phép bà được chấm các bài thi Hội,
thi Đình. Nhiều câu chuyện về bà được lưu truyền trong dân gian.
Năm Đức Long thứ 3 thời
vua Lê Thần Tông (1631), bà làm giám khảo kỳ thi tiến sĩ được tổ chức ở làng
Mao Điền, Hải Dương, có rất nhiều sĩ tử dự thi.
Khi chấm bài, các quan
giám khảo thấy có một quyển làm 4 mục rất tốt, nhưng lại bỏ qua không làm 8 mục.
Nhưng vì bài làm rất tốt nên các quan không nỡ đánh trượt, bèn trình lên cho
Chúa xem. Chúa đọc thấy rất tâm đắc nhưng còn vài chỗ chưa hiểu nên hỏi Nguyễn
Thị Duệ. Bà liền giải nghĩa theo điển tích, nói ra hàm ý sâu xa, khiến Chúa
cùng các quan phải khâm phục cả người làm lẫn người diễn giải.
Bà còn bình rằng: “Bài
văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần
người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ”. Thế là các quan cùng đồng ý chấm cho
người làm bài đậu tiến sĩ khoa thi năm đó. Đến lúc tra ra mới biết sĩ tử làm
bài thi đó là Nguyễn Minh Triết, em họ của bà.
Nhằm khuyến khích việc học
tập khắp nơi để có được hiền tài cho đất nước, Nguyễn Thị Duệ đã gửi đề thi đến
từng địa phương, rồi tập trung bài lại để chấm.
Theo văn bia và một số
tài liệu, mỗi tháng 2 kỳ, bà cho họp các sĩ tử hàng huyện lại cho đề văn do bà
đặt, bài làm xong giao hội “Tư Văn Chí Linh” để nộp lại cho bà. Đúng hạn bà trả
bài, cho đăng tên, điểm trên văn chỉ. Phương pháp này của bà giúp người ở những
làng quê xa cũng có tinh thần hiếu học, nhiều người nhờ bà rèn dũa mà thi đỗ, một
số người đỗ đại khoa.
Nguyễn Thị Duệ cũng xin
triều đình lấy nhiều mẫu ruộng tốt cho canh tác lấy hoa lợi, số tiền thu được
dùng để thưởng cho những ai có thành tích tốt trong học tập.
Tưởng nhớ
Tình hình đất nước bấy giờ
khiến bà trăn trở. Hết cuộc nội chiến Trịnh – Mạc rồi đến Trịnh – Nguyễn khiến
đất nước rối ren, người dân Bắc Hà đói khổ. Càng nghĩ càng thêm chán nên Nguyễn
Thị Duệ quyết định xin rời khỏi cung để về quê.
Vua Lê và chúa Trịnh
không khuyên được nên đành để bà về quê. Bà dựng am để có nơi đọc sách và bảo
ban các sĩ tử trong làng. Vua Lê giao cho bà số thuế hàng năm của tổng Kiệt Đặc
để làm bổng lộc an hưởng tuổi già, nhưng bà chỉ lấy một ít để dùng, còn lại chi
tiêu vào việc công ích và trợ giúp người nghèo.
Bà mất năm 1654, thọ 80
tuổi. Bên cạnh bia mộ của bà có một ngôi tháp tên là “Tinh phi cổ pháp” khắc mười
chữ Hán “Lễ sư sinh thông tuệ. Nhất kính chiếu tam vương” nghĩa là người thầy dạy
lễ này sinh thời thông tuệ, các vua chúa đều mến phục bà.
Tại Văn Miếu ở Mao Điền,
Hải Dương, có thờ 600 vị tiến sĩ, trong đó có 8 vị đại khoa của tỉnh Hải Dương.
Bà Nguyễn Thị Duệ nằm trong số 8 vị đại khoa này.
Văn Miếu ở Mao Điền chỉ đứng
sau Văn Miếu Quốc Tử Giám bởi nó đã có 500 năm tồn tại. Chính giữa Văn Miếu Mao
Điền thờ Khổng Tử, sau đó lần lượt hai bên là Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đĩnh
Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Sư Mạnh, Vũ Hữu, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Thị Duệ. Đặc biệt
bà Nguyễn Thị Duệ là nữ trạng nguyên duy nhất của nước Việt.
Vào tháng 2 âm lịch hàng
năm, lễ hội lớn sẽ diễn ra ở Văn Miếu Mao Điền để người Việt tham quan các di
tích, ôn lại truyền thống hiếu học của các bậc hiền tài nước Việt thuở xưa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét