DẤU THÁNH GIÁ
Mon,
30/05/2022 - Trầm Thiên Thu
Làm Dấu Thánh Giá là
tuyên xưng Đức Tin, tuyên xưng Chúa Ba Ngôi. Trong số kinh nguyện Công giáo phổ
biến nhất là Dấu Thánh Giá. Vào bất kỳ nhà thờ Công giáo nào trên thế giới bạn
đều thấy ai vào nhà thờ cũng làm Dấu Thánh Giá. Mỗi ngày chúng ta đều làm Dấu
Thánh Giá ngay từ khi thức dậy buổi sáng, và làm nhiều lần trong ngày.
Bước vào nhà thờ Công
Giáo ở bất cứ nơi nào trên thế giới, người ta đều thấy những người bước vào làm
Dấu Thánh Giá, cả trước và sau mỗi bữa ăn. Trong cuốn “Nói Về Các Bí tích,” Lm
Arthur Tonne kể một câu chuyện hồi thế chiến II về một ngôi làng ở Đức bị lính
Mỹ chiếm đóng. Dân làng không biết sẽ bị đối xử thế nào nên lo lắng về sự an
toàn. Nhưng người ta tin rằng sẽ bình an khi chứng kiến hai binh sĩ Mỹ đứng trước
Thánh Giá, bỏ mũ xuống, và làm Dấu Thánh Giá.
Từ khi sinh ra, trẻ em
Công Giáo để ý cha mẹ đưa tay làm Dấu Thánh Giá và đọc: “Nhân danh Cha, và Con,
và Thánh Thần.” Khi bệnh hoặc nửa mê nửa tỉnh, người Công Giáo vẫn thường cố gắng
làm Dấu Thánh Giá khi cầu nguyện. Chúng ta được đóng dấu ấn thánh này khi lãnh
nhận Bí Tích Thánh Tẩy, ấn tín này ghi đậm suốt cuộc đời, và tuyên xưng khi sắp
qua đời.
Hằng ngày, khi đi ngủ,
khi thức dậy, khi tham dự Thánh Lễ, khi đi qua nhà thờ, khi cầu nguyện, và nhiều
trường hợp khác, chúng ta đều làm Dấu Thánh Giá. Chúng ta dùng Dấu Thánh Giá để
ca tụng và kêu xin Chúa Giêsu bất cứ lúc nào trong cuộc sống. Lời cầu này không
mới lạ. Năm 211, trong cuốn The Chaplet (chuỗi hạt, tràng hạt), thần học gia và
tác giả Công Giáo Tertullian nói về việc làm Dấu Thánh Giá như nhiệm vụ hằng
ngày: “Trước khi di chuyển, đi xa hoặc đi đâu đó, khi mặc quần áo, khi tắm, khi
ngồi vào bàn ăn, khi thắp đèn, hoặc khi làm bất kỳ hành động nào trong cuộc sống
đời thường, chúng ta vẫn vẽ Dấu Thánh Giá trên trán.”
Nhiều tác phẩm của các
tác giả Kitô giáo từ thế kỷ II, III, và IV – như Thánh Cyprian, Thánh Cyril
thành Jerusalem, Thánh Hippolytus thành Rôma, và Origen, đều nói rõ rằng các
Kitô hữu thường làm Dấu Thánh Giá ở mọi nơi. Năm 287, Thánh nữ Fides (cũng gọi
là Thánh Faith hoặc Thánh Fay – theo Việt ngữ là Niềm Tin hoặc Đức Tin) chịu tử
đạo để tuyên xưng đức tin. Câu chuyện về việc bà bị hành hạ được lan truyền
trong các nhóm Kitô hữu, nói rằng bà đã làm Dấu Thánh Giá trên trán, miệng, và
ngực trước khi chết. Qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội vẫn tôn kính cho rằng không có
phép lành nào trọn vẹn nếu không làm Dấu Thánh Giá.
khi làm Dấu Thánh Giá,
các Kitô hữu tưởng nhớ chân tay Chúa Giêsu bị kéo dãn ra, chịu khổ nạn trên đồi
Golgotha vì chúng ta. Chúng ta nhớ lại cách Ngài chết để cứu độ chúng ta và
cách Ngài phục sinh, trao ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúa Ba Ngôi được
tôn kính trong Dấu Thánh Giá khi chúng ta đặt tay lên trán (Chúa Cha), ngực
(Chúa Con), và hai vai (Chúa Thánh Thần). Thánh Gioan Maria Vianney nói rằng
làm Dấu Thánh Giá là “làm cho hỏa ngục run rẩy.” Ngày nay, người Công Giáo làm
Dấu Thánh Giá bằng tay phải, các ngón tay thẳng ra, để nhận biết 5 vết thương của
Chúa Giêsu.
Trong số các Kitô hữu thời
sơ khai, Dấu Thánh Giá thường được làm trên trán và dùng một ngón tay, thường
là ngón cái như khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá trên trán, miệng, và ngực trước
khi nghe Phúc Âm (gọi là Dấu Kép). Với những người đầu tiên theo Chúa Giêsu, Dấu
Thánh Giá được làm trên đầu để nói lên rằng một người đã nhận biết sự hy sinh của
Đức Kitô trên Thánh Giá, và nhận biết người làm Dấu Thánh Giá là người đã được
rửa tội. Rồi như ngày nay, các Kitô hữu tin rằng Dấu Thánh Giá bảo vệ họ khỏi sự
dữ, ma quỷ, và những cơn cám dỗ.
Việc dùng một ngón tay vẫn
được tiếp tục cho tới thế kỷ V, khi nhóm dị giáo Monophysites tuyên bố rằng Đức
Kitô chỉ có một bản tính – nghĩa là Ngài chỉ có thần tính chứ không có nhân
tính. Để phản đối phái Monophysites, các Kitô hữu xác định Đức Kitô có hai bản
tính, thiên tính và nhân tính, và họ bắt đầu làm Dấu Thánh Giá với hai ngón
tay, ngón cái và ngón trỏ hoặc ngón trỏ và ngón giữa. Để nhấn mạnh niềm tin, họ
làm Dấu Thánh Giá lớn hơn trước, và làm với chuyển động rõ ràng từ trán xuống
ngực và hai vai.
Vài thế kỷ qua, đặc biệt
là Giáo Hội Đông Phương, người ta chú trọng việc nhận biết Chúa Ba Ngôi và hai
bản tính của Chúa Giêsu, họ dùng ba ngón tay.
Hơn 1.200 năm, đa số người
Công Giáo đều làm Dấu Thánh Giá theo cách đó – nghĩa là Giáo Hội Đông Phương và
Tây Phương đều chạm trán, ngực, và hai vai, từ phải sang trái, với ba ngón tay.
ĐGH Innocent III nói: “Dấu Thánh Giá được tạo thành bởi ba ngón tay, vì làm Dấu
Thánh Giá để cầu khẩn của Chúa Ba Ngôi… từ trên xuống dưới, và từ phải sang
trái vì Chúa Giêsu từ trời xuống thế gian và từ dân Do Thái tới dân ngoại.”
Các lý do căn bản khác về
việc chạm vai phải rồi vai trái là vì “Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha” và bên
phải biểu thị ánh sáng và điều tốt lành, còn bên trái biểu thị bóng tối.
Tuy nhiên, vào cuối thời
Trung Cổ, người Công Giáo Tây Phương làm Dấu Thánh Giá dùng ngón giữa chạm vào
vai trái rồi sang vai phải. Theo các nguồn tài liệu, cách này và các lý do căn
bản là lòng sùng kính hồi thế kỷ XV được dùng bởi các nữ tu Dòng Brigittine
Sion ở Isleworth (Anh quốc), cho rằng người ta nên bắt đầu dùng từ trán và chuyển
xuống, rồi sang trái và sang phải. Điều này nói lên rằng Chúa Giêsu đến từ Chúa
Cha (trán), sinh ra làm người (ngực), chịu khổ nạn trên Thánh Giá (vai trái),
và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (vai phải). Cách này trở thành tiêu chuẩn
trong Giáo Hội Tây Phương. Không hiểu tại sao có sự thay đổi này hoặc không biết
tại sao lại bắt nguồn từ Giáo Hội Tây Phương, tiếp tục dùng ba ngón tay để làm
Dấu Thánh Giá và từ vai phải sang vai trái.
Dấu Thánh Giá phản ánh mầu
nhiệm cứu độ, là công khai tuyên xưng Đức Tin ở các thánh, những người tín
trung và những người bình thường, cả người giàu và người nghèo. Cách đơn giản
này là hành động đạo đức và là điều người Công Giáo tin tưởng.
D. D. EMMONS
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét