Thứ Năm, 27 tháng 10, 2022

Khó chịu vì được thừa kế hàng chục triệu USD

 Thứ năm, 27/10/2022, 19:49 (GMT+7)

Khó  chịu  vì  được  thừa  kế  hàng  chục  triệu  USD

Marlene Engelhorn, 29 tuổi, xuất thân trong một trong những gia đình giàu nhất nước Áo. Được thừa kế hàng chục triệu USD, nhưng cô quyết định từ thiện 90-95%.

Marlene Engelhorn là cháu gái của bà Traudl Engelhorn-Vechiatto, 94 tuổi, chủ tập đoàn hóa chất lớn thế giới BASF và công ty sản xuất dược phẩm, thiết bị y tế, đã bán với giá 11 tỷ USD năm 1997. Khi đó, bà nhận được 2,45 tỷ USD. Đầu năm nay, bà qua đời, khối tài sản đã tăng lên 4,2 tỷ USD.

Marlene được thừa kế hàng chục triệu USD của người bà quá cố, nhưng không hứng thú với điều đó. Cô gọi khoản tiền mình nhận được là may mắn như trúng số vì không làm gì cũng được nhận.

"Tôi không muốn. Tôi khó chịu. Tất nhiên, với số tiền đó, tôi có được sự tự do bất ngờ nhưng nó không phù hợp với quan điểm sống của tôi. Không ai được phép có nhiều tiền và quyền lực mà được miễn thuế như vậy", cô gái lớn lên ở Vienna nói.

Sau khi suy nghĩ và nhận sự góp ý của nhiều người, cô quyết định đóng góp số tiền cho xã hội. ''Tôi không nên tiêu tiền của gia đình mà không làm việc. Quản lý khoản thừa kế đó cần nhiều thời gian và đó không phải kế hoạch của đời tôi'', Marlene giải thích thêm.

Marlene Engelhorn trả lời truyền thông qua Webcame. Ảnh: Vice

Marlene Engelhorn trả lời truyền thông qua Webcame. Ảnh: Vice

Trả lời truyền thông, Marlene chỉ trích giới siêu giàu khi tham gia các hoạt động từ thiện như một kỹ thuật để tránh nộp khoản thuế lớn. Cô không nghĩ hành động này đáng được tôn vinh vì nó thiếu trung thực.

Theo Marlene Elenghorn, không ai nên có số tiền lớn không tưởng trong một xã hội bất bình đẳng. Việc phân phối lại tài sản một cách công bằng hơn và đánh thuế cao hơn đối với giới siêu giàu là yếu tố quan trọng đối với hạnh phúc xã hội.

Engelhorn, hiện đang là sinh viên ĐH Vienna, thành viên của tổ chức Triệu phú vì nhân loại và là người quảng bá cho Sáng kiến Taxmenow (kêu gọi đánh thuế người giàu để giảm chênh lệch giàu nghèo).

Khi được hỏi sẽ sống sao trong tương lai khi từ bỏ 90-95% tài sản thừa kế, Marlene Elenghorn nói: "Tôi chưa biết. Nhưng tôi muốn làm việc chăm chỉ. Người khác cũng vậy".

Trào lưu chối bỏ thừa kế của người trẻ đang diễn ra ở nhiều nước. Những người này được gọi là "kẻ phản bội giai cấp" bởi họ phản đối cách thức tạo ra sự giàu có của thế hệ cha ông, coi đó là nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội. Khi nhận được thừa kế, họ lập tức tìm cách trả lại cho xã hội thông qua những tổ chức phân phối tài sản, ví dụ Poor Magazine, thành lập năm 2009 tại Mỹ. Poor Magazine đã nhận được hàng triệu USD quyên góp mỗi năm. Đến nay họ đã mua hai bất động sản ở Oakland làm nơi ở cho những người khó khăn, đồng thời tài trợ cho các hoạt động vì môi trường, công bằng chủng tộc...

"Có những người không có nhà cửa, chết trên đường phố hàng ngày. Để điều đó tiếp tục diễn ra trong khi người giàu vẫn tiếp tục tích trữ của cải là thô bạo. Chúng ta có trách nhiệm với đồng loại của mình và ở một mức độ nào đó, mọi người nên phân phối lại tài sản", Lisa Grey-Garcia, người sáng lập Poor Magazine cho biết.

Quan điểm "cho đi" không hẳn được ủng hộ. Việc làm từ thiện những khoản tiền lớn ở độ tuổi 20 và đầu 30 cũng có thể gây ra hậu quả cho người tặng ở năm tháng cuối đời, như ảnh hưởng tới khả năng mua nhà hoặc nghỉ hưu. Đồng thời, việc quyên tặng thừa kế này cũng có thể làm căng thẳng mối quan hệ với cha mẹ và ông bà - những người thường không tán thành việc cho đi của cải mà họ đã vất vả để lại.

Nhật Minh (Theo OC)

Hàng nghìn người đột quỵ thoát tàn phế nhờ trí tuệ nhân tạo

 

Hàng  nghìn  người  đột  quỵ  thoát  tàn  phế  nhờ  trí  tuệ  nhân  tạo

TP HCMSau ba năm ứng dụng phần mềm trí tuệ nhân tạo RAPID, Bệnh viện Nhân dân 115 điều trị thành công hơn 1.000 bệnh nhân đột quỵ quá thời gian vàng 6 giờ.

"Trước đây, bệnh nhân đột quỵ tắc mạch não nhập viện trong 6 giờ đầu thì can thiệp điều trị khả quan, sau 6 giờ bác sĩ không thể làm gì để cứu bệnh nhân khỏi nguy cơ tàn phế, tử vong", TS.BS Phan Văn Báu, Giám đốc Bệnh viện Nhân dân 115, nói khi làm việc với Ban Văn hóa Xã hội HĐND TP HCM về đề án Y tế thông minh giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn 2030, sáng 27/10.

Phầm mềm RAPID được đưa vào sử dụng đầu tiên Việt Nam tại Bệnh viện Nhân dân 115, từ giữa năm 2019. Trước đó, ứng dụng này của Trung tâm đột quỵ, Đại học Standford (Mỹ), được cấp phép trên thế giới. Phần mềm giúp mở rộng cửa sổ điều trị lên 24 giờ so với 6 giờ như trước đây, thêm cơ hội cứu sống bệnh nhân.

Ứng dụng RAPID, kết quả hình ảnh chụp MRI não bệnh nhân được đưa vào phần mềm giúp bác sĩ xác định những vùng não bị tổn thương. Bác sĩ nhìn thấy được vùng tranh tối tranh sáng, những vùng nhu mô não sẽ chết trong những giờ tiếp theo vốn rất khó xác định bằng các phương pháp hình ảnh học thông thường. Từ đó, bác sĩ quyết định có nên sử dụng kỹ thuật cao để tái thông, làm tan cục máu đông, hồi phục tổn thương, hạn chế di chứng yếu liệt cho bệnh nhân. Trường hợp bệnh nhân xuất huyết não, phần mềm đo thể tích khối máu tụ, bác sĩ tiên lượng được chính xác khối máu tụ, nâng cao hiệu quả điều trị.

Hiện nay, 50% bệnh nhân đột quỵ đến Bệnh viện Nhân dân 115 sau giờ vàng (trong khoảng thời gian 6-24 giờ) được can thiệp nội mạch nhờ ứng dụng này. Kết quả khảo sát ghi nhận 48% người bệnh được can thiệp thành công có thể vận động bình thường, giảm tỷ lệ di chứng hoặc tử vong. Trung bình mỗi ngày, hai bệnh nhân đến viện được ứng dụng RAPID, trong đó một ca có đủ điều kiện can thiệp.

Theo bác sĩ Báu, con số này có ý nghĩa rất lớn bởi trung tâm điều trị đột quỵ của Bệnh viện Nhân dân 115 lớn nhất cả nước, mỗi năm tiếp nhận khoảng 14.000 bệnh nhân, chiếm khoảng 8-10% số ca tại các bệnh viện Việt Nam. Nơi đây triển khai các kỹ thuật điều trị đột quỵ do tắc mạch máu não từ năm 2006 đến nay, đã chuyển giao cho nhiều đơn vị đột quỵ cả nước. Bệnh viện cũng là đơn vị đầu tiên cả nước được Hội Đột quỵ Thế giới (WSO) trao chứng nhận Vàng, Bạch kim và cao nhất là chứng nhận Kim cương, sau đó các trung tâm khác vượt qua tiêu chí gắt gao để đạt được những chứng nhận này.

"Có thể thấy đầu tư cho y tế thông minh, đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo rất quan trọng và khẩn thiết, giúp cứu sống nhiều bệnh nhân, đem lại hạnh phúc cho rất nhiều gia đình", bác sĩ Báu nói.

Triển khai đề án y tế thông minh là một trong những trọng tâm cải cách chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh viện 115. Bác sĩ Trần Văn Sóng, Phó giám đốc Bệnh viện, cho biết viện đã số hóa 100% hóa đơn điện tử, 16,5% bệnh nhân thanh toán điện tử bằng cách sử dụng mã QR, POS, chuyển khoản trực tuyến. Người bệnh có thể truy cập hóa đơn điện tử, thông tin về thanh toán sau khi khám chữa bệnh thông qua mã số do bệnh viện cung cấp trên hồ sơ khám chữa bệnh.

Bệnh viện triển khai hệ thống đầu đọc để quét thẻ bảo hiểm y tế và căn cước công dân trích lục các dữ liệu thông tin cần thiết phục vụ khám chữa bệnh; phần mềm hỗ trợ khai báo thông tin, quản lý người bệnh hoặc người nuôi bệnh, quản lý các vấn đề sai sót và báo cáo sự cố, giường bệnh, kê đơn, máy thở... Một số phần mềm trang bị cho khối khám ngoại trú để nhập liệu thông tin, tiếp nhận hồ sơ khám, trích lục dữ liệu cận lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, truy cập lịch sử khám chữa bệnh, bác sĩ chẩn đoán và toa thuốc...

Tuy nhiên, giống như nhiều bệnh viện khác, quá trình tiến tới y tế thông minh của Bệnh viện Nhân dân 115 còn gặp nhiều khăn. Trong đó, nổi bật là nguồn nhân lực công nghệ thông từ tin y tế còn thiếu, rất khó tuyển dụng và giữ chân lao động do lương thấp. Ngoài ra, hạ tầng, thiết bị thiếu đồng bộ, khó tích hợp và tương thích theo xu hướng phát triển phần mềm. Chi phí về công nghệ thông tin chưa được cơ cấu vào giá dịch vụ khám chữa bệnh, khiến bệnh viện gặp khó khi phát triển mảng này.

Bác sĩ Sóng đề xuất cơ quan quản lý hỗ trợ bệnh viện xây dựng và áp dụng các phân hệ phần mềm, có ngân sách chi cho đầu tư hạ tầng, ban hành hướng dẫn đấu thầu, chi cho các hạng mục đầu tư, nâng cấp hệ thống. Đặc biệt, cần triển khai các chính sách đãi ngộ đối với nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin.

Nhân dân 115 là bệnh viện đa khoa hạng một tuyến cuối thuộc Sở Y tế TP HCM, quy mô 1.600 giường, 43 khoa phòng, khoảng 2.000 nhân sự, là bệnh viện đa khoa hạng 1 tuyến cuối lớn nhất thuộc Sở Y tế TP HCM. Mỗi ngày, nơi đây tiếp nhận khoảng 3.700-4.000 lượt khám ngoại trú, 2.000 bệnh nhân nội trú, với 9 chuyên khoa mũi nhọn.

Bác sĩ phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân dân 115. Ảnh: Bệnh viện cung cấp


Đề án Y tế thông minh giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn 2030, do UBND TP HCM ban hành, mục tiêu triển khai chuyển đổi số hướng đến xây dựng dữ liệu lớn của ngành y tế, giúp dự báo và xây dựng chiến lược, nâng cao chất lượng quản lý và chăm sóc sức khỏe người dân. Trong đó, nổi bật là tạo lập hồ sơ sức khỏe điện tử cho mỗi người dân, ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh, quản lý dịch bệnh bằng nền tảng số, hệ thống điều hành cấp cứu thông minh...

Thời gian qua, nhiều bệnh viện TP HCM đã triển khai y tế thông minh nhưng gặp nhiều khó khăn do không có kinh phí, đội ngũ nhân lực để vận hành. Hai ngày trước, Ban Văn hóa Xã hội HĐND TP HCM làm việc với Bệnh viện Nhi đồng 1 về nội dung này.

Hồi tháng 5, lãnh đạo Sở Y tế TP HCM đặt hàng nhà khoa học, viện trường, doanh nghiệp các giải pháp ứng dụng công nghệ trong việc chăm sóc sức khỏe người dân như khám từ xa (telehealth); ứng dụng AI đọc kết quả X-quang phổi...

Lê Phương

Biệt khúc - Chuyện tháng Mười Một

 

Biệt  khúc - Chuyện  tháng  Mười  Một

Tue, 25/10/2022 - Trầm Thiên Thu



Mở đầu ca khúc “Biệt Ly,” NS Dzoãn Mẫn tâm sự: “Biệt ly nhớ nhung từ đây, chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay?” Đó là ông nói chuyện đời thường, về cuộc biệt ly bình thường của cuộc chia tay sầu não giữa hai người yêu nhau, có thể hai người sẽ có dịp tái ngộ hoặc không bao giờ gặp lại.

Cuộc chia tay đó gợi nhớ tới sự chết – cuộc biệt ly vĩnh viễn, không hẹn và không thể có dịp tái ngộ. Theo nghĩa bình thường, chết là chấm hết; nhưng theo nghĩa tâm linh, chết không là chấm hết, mà chỉ là chấm phẩy hoặc phẩy để “chuyển ý.” Người ta nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng.” Cái “tiếng” ở đây là tiếng tăm – có thể là tiếng tốt hoặc tiếng xấu. Ai cũng chỉ một lần Sinh, một lần Sống, và một lần Chết. Chắc chắn không có kiếp luân hồi, vì bế tắc nên nghĩ ra kiếp luân hồi mà thôi. Kiếp sau không thể thay đổi được gì, không thể rút kinh nghiệm hoặc sám hối. Điều đó được minh định trong dụ ngôn Phú Hộ và Ladarô Nghèo Khó. (x. Lc 16:19-31)

Kinh Thánh nói: “Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt. Hơi thở của ta là làn khói, tư tưởng lóe lên từ nhịp đập trái tim. Khi nó tắt đi, thân xác sẽ trở thành tro bụi, sinh khí biến tan như làn gió thoảng. Theo dòng thời gian, tên tuổi ta cũng chìm vào quên lãng, chẳng còn ai nhớ đến việc ta làm. Đời ta sẽ qua như một thoáng mây trôi, sẽ biến đi như màn sương sớm bị ánh nắng đẩy lùi và sức nóng mặt trời áp đảo. Cuộc đời ta vụt mất tựa bóng câu, đã qua rồi là không còn trở lại, ấn đã niêm, ai quay về được nữa!” (Kn 2:2-5)

Năm 2021, khi đại dịch Covid-19 lên tới đỉnh điểm, có rất nhiều cái chết, nỗi đau buồn trĩu nặng hơn những cái chết khi cuộc sống bình thường, bởi vì mọi thứ đều phải làm mau chóng, ngay cả người thân cũng không được thấy mặt hoặc đưa tiễn. Sự vắng lặng và lạnh lẽo khôn tả. Muốn gì cũng không thể!

Rõ ràng cái chết rất bất ngờ và người ta trở tay không kịp. Chết rồi thì có gì mà hãnh diện, khoe khoang, kiêu căng để “khoe” quan tài đắt tiền, ngôi mộ đẹp, lăng tẩm lớn? Đời người dài hay ngắn, sang hay hèn, trăm năm chỉ gom đủ một lần đưa tang mà thôi!

1. NHỮNG NGƯỜI THÂN THIẾT

Một người nọ có ba người bạn. Người bạn thứ nhất và thứ hai rất thân, còn người bạn thứ ba không thân lắm. Ngày kia, bị tòa xử án, anh liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình.

Người bạn thân thứ nhất từ chối, viện cớ mắc việc không đi được. Người bạn thân thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại sợ, không dám vào tòa án để biện hộ cho anh, nên rút lui. Chỉ có người bạn thứ ba, tuy không được anh ta yêu thích, nhưng lại tỏ ra hết sức trung thành, vào tận tòa án biện hộ cho anh, làm cho anh không những được trắng án mà còn được thưởng nữa.

Ba người bạn đó là Tiền Bạc, Thân Nhân và Thiện Cử (tức là việc lành, nói “Thiện Cử” để dễ nhớ với 3 chữ T).

Người bạn thân thứ nhất trong đời chúng ta là Tiền Bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta ngay để vào tay người khác, họa may nó chỉ để lại cho chúng ta một bộ quần áo và một chiếc quan tài. Người bạn thân thứ hai trong đời chúng ta là Thân Nhân – ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, hàng xóm,... Khi ta chết, họ tỏ ra thương tiếc, nhưng cũng chỉ đưa ta đến huyệt mộ rồi về, may ra còn nhớ đôi chút vài năm sau.

Cuối cùng, người bạn thứ ba trong đời chúng ta là Thiện Cử. Tuy chúng ta ít để ý nhưng việc lành vẫn theo đến tận Tòa Phán Xét của Thiên Chúa để biện hộ và làm cho chúng ta được Chúa trao phần thưởng Thiên Đàng.

Cuộc đời phàm nhân theo quy trình tự nhiên: Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Đó là quy luật muôn thuở và bất biến. Có thể có người “ngoại lệ” chỉ qua ba “chặng” là Sinh – Bệnh – Tử, hoặc chỉ hai “chặng” là Sinh – Tử. Bất cứ ai cũng đi qua hai “chặng” Sinh và Tử, nhưng có những trường hợp “đặc biệt” không có Sinh mà chỉ có Tử – các thai nhi bị sát hại.

Sợi dây có hai đầu, mọi việc có Khởi Đầu và Kết Thúc, nói ngắn gọn là Mở và Kết. Đời người cũng vậy, không thể khác được. Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai là ba “thời” của con người. Ba “thời” này đan quyện với quy trình Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Và bất cứ thứ gì cũng chỉ có một thời, nay có, rồi mai hư hoặc mất. Người ta mừng khi một người được sinh ra, và người ta buồn khi một người từ giã cõi trần. Tiếng Cười biến thành tiếng Khóc.

Chết là cuộc xuất hành đặc biệt, là về nguồn – sinh ra từ cái gì thì lại trở về cái đó. Và đó cũng là quy luật muôn thuở: “Mọi sự đều đi về một nơi, mọi sự đều đến từ bụi đất, mọi sự đều trở về bụi đất.” (Gv 3:20) Phàm nhân chỉ là cát bụi, (Tv 103:14) chẳng đáng gì! Thật vậy, Kinh Thánh xác định: “Con tim của bạn là tro bụi, hy vọng của bạn hèn hơn đất, cuộc đời của bạn tệ hơn bùn.” (Kn 15:10) Chẳng có gì oai phong mà dám vênh vang tự đắc!

Người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Ý nói là đừng hống hách khi có chức, có quyền, phải sống sao cho phải đạo làm người mà để đức cho con cháu. Còn dân đen thì mãi mãi là dân thường thôi. Có “thời” thì rồi cũng đến lúc “thôi” – tức là “hết.” Thời vần với Thôi, Tài vần với Tai. Chuyện đời là thế!

Sách Giảng Viên cho biết rõ về cái mà chúng ta gọi là “một thời” nay. Biết không phải để biết cho vui, cũng không phải để bi quan hoặc yếm thế, mà biết để khả dĩ chân nhận mình là ai, là gì, và tất nhiên không thể bất tử: “Phận con người là phải CHẾT một lần, rồi sau đó chịu PHÁN XÉT.” (Dt 9:27) Ông Côhelét là con của vua Đavít, tức là Salômôn, làm vua cai trị Israel và ngự tại Giêrusalem. Ông nhận xét:

“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn. Mặt trời mọc rồi lặn; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên. Gió thổi xuống phía nam, rồi xoay về phía bắc: gió xoay lui xoay tới rồi gió đi; gió trở qua trở lại lòng vòng. Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển cũng chẳng đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục. Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.” (Gv 1:2-8)

Lời ông nói về những điều rất ư là bình thường, thế nhưng lại có gì đó rất khác thường. Nhận xét có vẻ bình thường mà lại rất tinh tế: “Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra: dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ?” (Gv 1:9) Bình thường mà khác thường, nhưng lạ mà không lạ: “Nếu có điều gì đáng cho người ta nói: ‘Coi đây, cái mới đây này!’ thì điều ấy đã có trước chúng ta từ bao thế hệ rồi. Chẳng ai còn nhớ đến người xưa, và đối với những người đến sau thì cũng thế; các thế hệ mai sau sẽ chẳng còn nhớ đến họ.” (Gv 1:10-11)

Người ta có thêm kinh nghiệm khi có thêm tuổi, và nghĩ nhiều đến lúc “một đi không trở lại.” Không ai thoát “lưỡi hái” của Tử Thần, nhưng càng lo sợ thì càng đau khổ, càng đau khổ thì càng lúng túng, càng lúng túng thì càng hoảng hốt, càng hoảng hốt thì càng nguy hiểm. Bình tĩnh nhận thức rằng “cái gì cũng chỉ một thời” thì sẽ thảnh nhiên, bởi vì có lo sợ cũng chẳng làm gì được.

Trình thuật Gv 3:1-8 nói về nhưng cái “một thời” ấy có liên quan sự chết: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy; một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn; một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hòa.”

2. ĐIỂM HẸN DUY NHẤT

Là con người, ai cũng phải chết, cũng phải trình diện Thiên Chúa, thậm chí kể cả Satan, để “báo cáo” về cuộc sống và hoạt động của mình: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa.” (G 2:1) Vấn đề đáng quan ngại là không chỉ chết một lần. Cái chết thứ nhất là cái chết theo sinh học, cái chết thứ hai quan trọng hơn và đáng sợ hơn, đó là cái chết về tinh thần: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là CÁI CHẾT THỨ HAI.” (Kh 21:8) Thế nên Thánh Phaolô đã khuyến cáo: “Anh em hãy biết RUN SỢ mà GẮNG SỨC lo sao cho mình ĐƯỢC CỨU ĐỘ.” (Pl 2:12)

Khi đề cập sự chết, người ta cho là “xui xẻo” và cảm thấy lo sợ. Nhưng có ai trường sinh bất tử chưa? Chắc chắn là không. Có chăng chỉ là trong truyện cổ tích thần thoại, tự lý tưởng hóa mà an ủi nhau thôi. Cũng có người cho là bi quan hoặc yếm thế khi đề cập sự chết. Thật ra không phải vậy, mà nó có chiều kích tích cực giúp chúng ta sống tốt hơn, như Chúa Giêsu khuyến cáo: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48)

Theo lẽ thường, khi con người biết suy tư nhiều về cuộc đời là lúc người ta không còn trẻ, nghĩa là đã bắt đầu bước sang bên kia con dốc cuộc đời. Chắc chắn không ai biết mình “ra đi” cách nào và lúc nào: Có người 5 giờ sáng, có người 10 giờ sáng, có người 1 giờ chiều, có người 3 giờ chiều, có người 5 giờ chiều, có người lúc nửa đêm… Tuy nhiên, có những người lại biết nghĩ đến cái chết từ rất sớm, khi tuổi đời còn thanh xuân. Đó là một đặc ân, biết nhận thức sự chết để hướng thiện, sống tích cực, dễ buông bỏ mọi thứ cản lối tiến tới Nước Trời.

Hầu như người ta làm được mọi thứ với khoa học tiến bộ, nhưng người ta vẫn không thể nào tạo được sự sống và ngăn chặn được lưỡi hái tử thần. Người ta không muốn “bó tay” mà phải chịu “bó tay,” vì cứ phát hiện thuốc chữa bệnh này thì lại phát sinh bệnh khác, có chữa được bệnh nan y cũng chỉ là kéo dài sự sống thêm một thời gian, rồi cũng… chết. Các khoa học gia mới khám phá được vệ tinh này thì lại chợt phát hiện còn những “lỗ đen” xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng. Chắc chắn con người phải “bó tay.” Các câu hỏi cứ chồng chất lên nhau… Dự báo có bão sắp tới mà không làm gì được, chạy trước cũng không kịp. Vậy mà người ta vẫn khoe mẽ, muốn làm ngơ Thượng Đế, muốn loại bỏ Tạo Hóa, thậm chí là không muốn tin có Thiên Chúa!

Mỗi người có một nhãn quan riêng, một lối suy tư riêng, với cách cảm nhận riêng. Muôn người muôn vẻ, nhưng tất cả vẫn là suy tư về thân phận con người, nhất là cái chết, tại sao không ai tránh khỏi? Người ta muốn “cải lão hoàn đồng” mà không thể thì đừng mơ chuyện “cải tử hoàn sinh” hoặc “trường sinh bất tử.”

Tính tới tính lui, suy đi nghĩ lại, phân tích đủ kiểu, áp dụng mọi thứ, nhưng vẫn không thể có đáp án thỏa mãn. Thật kỳ lạ, có điều tưởng đơn giản mà nhiêu khê, và có điều tưởng phức tạp mà đơn giản. Chuyện kể thế này:

Có một chiếc xe chở hàng, tài xế không để ý nên bị kẹt dưới gầm cầu. Xe chạy tới không được mà lùi cũng không xong. Rất nhiều người đứng chung quanh trố mắt nhìn, bàn tán, chỉ trỏ, các xe phía sau phải dừng lại vì kẹt. Kỹ sư, cảnh sát và chủ hãng xe đến. Người này bảo đào đường cho thấp xuống, người kia nói cắt bớt mui xe,… Cách nào cũng không được, mà tình trạng kẹt xe càng lúc càng tăng, xe nối đuôi nhau như rồng rắn vậy.

Bất ngờ có một cậu bé chen vào và nói với tài xế: “Bác tài, cháu có cách. Bác xì bớt hơi mấy bánh xe thì xe sẽ thấp xuống và có thể qua được.” Ðám đông cười ồ lên. Còn những chuyên viên thì khó chịu, vì trẻ con mà tài lanh, dám dạy khôn người lớn. Bác tài cũng thế, nhưng cũng đành phải thử xem sao. Và kết quả hơn cả tuyệt vời!

Trong cuộc sống đời thường cũng tương tự. Đừng để sự đời chi phối mình thái quá. Hãy tìm cách “xì” bớt hơi bon chen, đua đòi, kiêu ngạo, ghen ghét, đố kỵ, thù hận, tranh giành, ích kỷ, tham lam, phe cánh, xét đoán, bất mãn, chống đối, chua ngoa, nóng giận,… để có thể thoát ra khỏi “đường hầm cuộc đời.” Cậu bé kia có cách giải quyết đơn giản, hợp lý và hiệu quả vì em đơn sơ và thật thà, không nghĩ cong queo hoặc cao xa như người lớn. Biết “xì hơi” cuộc sống là cách hoàn thiện từng ngày, biết “chết” dần mỗi ngày để hướng thẳng về Thiên Chúa.

Thi hào Nguyễn Du nói: “Trăm năm một nấm cỏ khâu xanh rì.” (Truyện Kiều) Nhắm mắt xuôi tay rồi thì ai cũng như ai: Trắng tay. Vậy mà người ta vẫn kèn cựa, tranh giành nhau chi li đủ thứ. Có làm đám tang lớn, dùng áo quan đắt tiền, vòng hoa đẹp chật nhà, dàn kèn hoành tráng,… chẳng qua người sống muốn khoe mình, muốn làm đẹp mặt, chứ người chết chẳng được lợi chút nào: Sống thì chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi!

Cả cuộc đời chỉ còn “nấm cỏ khâu xanh rì,” ngày nay hỏa thiêu thì chỉ còn chút tro tàn, gom lại một “bia đá” với vài chi tiết: Tên thánh, họ tên, ngày sinh, ngày mất. Chỉ thế thôi! Với ai cũng chỉ bấy nhiêu, dù giàu – nghèo, sang – hèn, dù cao – thấp, dù giỏi – dốt. Rồi theo thời gian, tất cả sẽ đi vào quên lãng!

Kẻ Chết Sang Hèn Đều Mau Tẫn Liệm

Quan Tài Đắt Rẻ Cũng Sớm Đem Thiêu

Chó chết thì hết chuyện, nhưng người chết vẫn còn nhiều chuyện. Đối với người có niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và đã phục sinh khải hoàn, “cửa tử” là ngưỡng bước vào cõi sống đời đời. Tử thần đã phải tâm phục khẩu phục và chịu thua cuộc khi Đức Kitô phục sinh khải hoàn. Đức tin của chúng ta hoàn toàn chính xác, không mơ hồ, không viển vông.

Tháng Mười Một là dịp tốt để cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, và cũng tự nhắc nhở “Memento Mori – Hãy Nhớ Mình Sẽ Chết” để tự chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình, chẳng ai “giúp” được gì đâu. Ý thức về sự chết để nhận thức đúng đắn và sống tốt, lợi cho mình và ích cho người.

Lạy Thiên Chúa là Đầu và Cuối, xin Ngài đại xá cho các linh hồn nơi Luyện Hình được hưởng Tôn Nhan Ngài muôn đời. Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 90:12) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

===============

CHUYỆN THÁNG MƯỜI MỘT

Requiescat In Pace – Xin Cho Các Linh Hồn Nghỉ Yên!

Thánh TS Tôma Aquinô cho biết: “Trong tất cả lời cầu nguyện, lời cầu nguyện xứng đáng nhất được Thiên Chúa chấp nhận là lời cầu nguyện cho người đã qua đời, bởi vì lời cầu nguyện đó hàm chứa tất cả đức ái, cả thể lý và tinh thần.” Cầu nguyện là sức mạnh của con người và là sự yếu đuối của Thiên Chúa – vì Ngài không thể không đáp lại lời cầu của người tín thành. Lời cầu nguyện vô cùng kỳ diệu!

Lời cầu nguyện của người công chính dành cho người khác càng có giá trị gấp bội. Thánh Margaret Maria Alacoque: “Một linh hồn công chính có thể xin được ơn tha thứ cho cả ngàn tội nhân.” Cầu nguyện cho người khác cũng là cầu nguyện cho chính mình.

Cố NS Trầm Tử Thiêng viết ca khúc “Tưởng Niệm” năm 1972 – Mùa Hè Đỏ Lửa kinh hoàng ở Quảng Trị, để tưởng nhớ những người ngã xuống. Ông tâm sự: “Ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời, thì hãi hùng hoàng hôn chợt tới. Ta nghiêng vai soi lại tình người, thì bóng chiều chìm xuống đôi môi. Đang đam mê cho đời nở hoa, chợt bàng hoàng đến kỳ trăn trối. Đang nâng niu cuộc tình lộng lẫy, bỗng ngỡ ngàng hụt mất trên tay.”

Vì thế, con người khắc khoải khôn nguôi: “Ta khổ đau một đời, để chết trong tình cờ; ta tìm nhau một thời, để mất nhau vài giờ. Bàn tay làm sao giữ, một đời vừa đi qua? Bàn tay làm sao giữ, một thời yêu thiết tha?” Cuối cùng, “trong cơn đau một vùng hương khói, kéo ta về, về cõi hư vô…”

Cái chết là nỗi buồn sâu thẳm nhất, to lớn nhất. Nhưng đời tín nhân vẫn tràn trề hy vọng. Tục lệ dòng Carthusian rất hay: Khi một đan sĩ qua đời, đan sĩ đó được chôn nơi huyệt do mình tự đào lúc còn sống và không để bảng tên. Điều đó không có nghĩa là đan sĩ chờ chết mà là tin tưởng vào sự sống đời đời. Thi hài đan sĩ được chôn cất trong bộ áo dòng trắng, mặt che bằng tấm vải trắng, đặc biệt là không có quan tài. Thật ý nghĩa biết bao!

1. MỘT GIẢ THUYẾT THẬT

Có nhiều cách giả sử – hoặc ví dụ. Người ta chỉ giả sử điều tốt chứ chẳng ai ví dụ điều xui xẻo. Giả sử là dạng “nếu,” một kiểu ước mơ – dĩ nhiên có thể hoặc không thể hiện thực. Đặc biệt có cách giả sử rất thực tế, chắc chắn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào: Chết. Chắc hẳn có người cho là xui xẻo, bởi như vậy là dại dột và ngu xuẩn. Thật ra không phải vậy, cách giả sử khôn ngoan đấy!

Khi đang vui sống, không ai muốn đề cập sự chết, thế nhưng chẳng ai thoát khỏi “lưỡi hái” của tử thần. Chắc chắn chết là điều thực tế, là vấn đề rất thật – thật hơn cả sự thật. Dù đó là “chuyện xui xẻo” thì cũng cứ bình tĩnh đạt vấn đề: “Nếu chỉ còn một ngày để sống.” Có bao giờ bạn nghĩ như vậy? Và tính thế nào?

Ai cũng biết một điều chắc chắn rằng lá xanh hay lá vàng vẫn có thể “rụng” bất kỳ lúc nào, dù gió to hay gió thoảng, thậm chí là không có gió; trái xanh hay trái chín thì người ta cũng có thể “hái” bất cứ lúc nào – sáng, trưa, chiều, tối, hoặc đêm khuya. Phản ứng thế nào và làm gì? Chết lúc nào tốt, lúc nào xấu? Giờ nào chết thì “hên” và lúc nào chết thì “xui”? Ai có thể cưỡng lại tử thần? Biết 9 giờ sáng hên mà không chết, lại chết vào 6 giờ tối? Tương tự, biết thời điểm nào đó “hên” và thuận tiện mà sao không sinh? Muốn có được không? Xui hay hên là do mình. Chẳng ai biết mình chết lúc nào và cách nào. Khi sắp chết mới biết mình… sắp chết. Có thể muộn mất rồi!

Mệnh đề “Nếu chỉ còn một ngày để sống” là một giả-thuyết-thực-tế, một cái “nếu” rất thật, thật đến nỗi điều đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, thậm chí là ngay bây giờ – mặc dù ai đó mới vài tuổi, ngoài đôi mươi, tứ tuần, trung niên, thất tuần, bát tuần, hoặc xấp xỉ… trăm tuổi. Con người hoàn toàn có “điểm mù” về vấn đề này.

Tuy nhiên, cái “nếu” đó rất ý nghĩa và quan trọng – dù bạn là ai, ở cương vị nào, có hay không có niềm tin tôn giáo. Chuyện kể rằng một lần nọ, khi đang giờ chơi tại Khánh Lễ Viện, Thánh Don Bosco hỏi cậu Saviô: “Nếu chỉ còn một giờ nữa con chết, con sẽ làm gì?” Cậu đáp ngay: “Con vẫn tiếp tục chơi.”

Câu trả lời Thánh “nhí” Saviô thật tuyệt vời, vì đó là thi hành Ý Chúa trong hiện tại. Giờ nào việc nấy. Dù là việc đọc sách thiêng liêng hay đọc kinh, cầu nguyện, làm từ thiện,... nếu không “đúng lúc” thì cũng vô nghĩa. Điều đó cho thấy “nhiệm vụ hiện tại” rất quan trọng qua cách thể hiện đức tin. Dù là ai thì trước tiên vẫn phải là con người, không chỉ phải giữ luật sống của một người bình thường mà còn phải lưu ý rằng mình cũng sẽ chết, dù bệnh tật hay khỏe mạnh. Đó là một thực tế vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, có sợ cũng chẳng thoát, vậy thì đừng sợ, cứ thản nhiên chờ đợi!

Người danh giá hay vô danh, người giàu hay nghèo, người lớn hay nhỏ, người giỏi hay dốt, người tài năng hay bình thường, người có tín ngưỡng hay vô thần, người xấu hay đẹp, người cao hay thấp, nam hay nữ,… cuối cùng ai cũng hoàn toàn giống nhau: “Tay trắng vẫn hoàn trắng tay.” Nhắm mắt xuôi tay là… “chấm hết” đời này! Ai cũng biết vậy, thế mà người ta vẫn cứ tranh giành nhau, chi li từng chút. Quả thật, “cái tôi” rất lớn, như Pascal xác định: “Cái TÔI là đáng ghét.” Nhưng mấy ai dám ghét mình? Chúa Giêsu nói “từ bỏ mình” theo nghĩa đen chứ chẳng cần bóng gió chi cả. (x. Mt 10:37-39; Lc 14:26-27) Khó lắm, thế nên phải cố gắng “tập chết” mỗi ngày.

Hơi thở cũng như sợi dây có hai đầu. Và ai cũng một lần trút hơi thở cuối cùng, giã biệt trần gian để hóa thành cát bụi. Giống nhau cái chết, nhưng hình thức khác nhau theo “thói đời.” Người giàu chết, tiền của và vàng bạc không thể cứu họ. Nhưng người giàu chết trên đống vàng, họ chết “sướng” chứ không chết “khổ” như người nghèo, quan tài là loại mắc tiền nhất, đám tang thật lớn, những vòng hoa tươi đủ sắc màu, không đủ chỗ đặt vòng hoa, cờ giăng rợp trời, cáo phó khắp nơi, người vào kẻ ra nườm nượp, khách toàn những “ông kia, bà nọ,” khói nghi ngút tỏa ra từ những nén nhang thơm loại mắc tiền, khoản phúng điếu tính hàng trăm triệu, kèn trống rộn ràng, thậm chí còn có cả chương trình ca múa nhạc cho thiên hạ thưởng thức; nếu người giàu là người có đạo thì gia đình tổ chức lễ đồng tế, tiệc tùng linh đình, không ai khóc, ai cũng hớn hở bắt tay nhau,...

Người giàu chết vừa “sướng” vừa “công khai.” Ngược lại, người nghèo chết âm thầm, chết trong đau khổ, chết vì không có tiền chạy chữa, chết hèn hạ, chết tủi nhục, chết đau đớn, chết thê thảm, chẳng ai thèm chú ý, không ai phúng điếu, vắng hơn Chùa Bà Đanh, bát nhang lạnh tanh, quan tài như chiếc thùng gỗ, thật đúng là đám ma!

Người giàu được nhiều người tới phúng viếng, nghĩa là được nhiều người cầu nguyện cho, họ còn có nhiều tiền để xin lễ – tiền riêng và tiền phúng điếu. Còn người nghèo không ai phúng viếng thì có ai thương mà cầu nguyện? Lấy tiền đâu mà xin lễ? Nếu xét theo “tầm nhìn” của phàm nhân, chắc chắn người giàu vào Thiên Đàng mau hơn người nghèo. Nhưng thật hạnh phúc và an ủi, vì Thiên Chúa không xét theo kiểu của loài người mà chỉ xét theo “công” và “tội.” Trong dụ ngôn “Người Giàu và Ladarô Nghèo Khổ,” Tổ phụ Ápraham nói với người giàu: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” (Lc 16:25-26)

Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh, chí công, chắc chắn Ngài sẽ đòi công lý cho người nghèo!

2. CHỈ MỘT CHUYẾN ĐỜI

Đời phàm nhân là chuyến lữ hành miệt mài. Chuyến đời có thể dài hoặc ngắn, nhưng ai cũng có hai điểm: Sinh và Tử – khởi hành từ lúc sinh ra và kết thúc vào lúc giã biệt trần thế. Sinh ra thì không đáng lo, nhưng chết rất đáng lo. Chết là chuyến định mệnh, không ai tránh khỏi!

Thánh Phaolô đã xác định: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9:27) Tiền bạc, danh vọng, sự nghiệp,… mọi thứ đều không thể đem theo. Của thế gian trả lại thế gian, chỉ có một thứ duy nhất có thể đem theo: Nhân Đức. Có truyện ngụ ngôn “Hành Trang Cuộc Đời” thế này..

Một người hấp hối thấy Chúa vừa ưu ái trao cho chiếc vali vừa nói: “Đến giờ con ra đi rồi!” Người này ngạc nhiên: “Bây giờ sao Chúa? Sớm quá, con còn nhiều việc chưa làm!” Cuộc đối thoại tiếp tục

– Rất tiếc vì tới giờ con phải ra đi thôi!

– Có gì trong vali vậy, thưa Chúa?

– Hành trang của con đó.

– Sở hữu của con, y phục, tiền bạc, phải không Ngài?

– Các vật đó không phải của con, chúng thuộc về trái đất!

– Vậy có phải ký ức của con?

– Không phải của con, của thời gian!

– Phải chăng tài năng của con?

– Không phải của con, của hoàn cảnh!

– Có phải bạn bè hay gia đình con?

– Rất tiếc cũng không phải của con, đó chỉ là tiến trình cuộc đời.

– Phải chăng vợ và con của con?

– Không phải của con, mà là tâm tư con!

– Có phải là thân xác của con?

– Cũng không phải của con, nó là cát bụi!

– Phải chăng tâm linh con?

– Không, đó là của Ta!

Người chết nhận chiếc vali Chúa trao và hồi hộp mở ra xem. Bên trong KHÔNG CÓ GÌ CẢ. Hoàn toàn trống rỗng! Trong nỗi bàng hoàng, người này nói: “Không có cái gì là của con cả!” Chúa nói: “Đúng thế, tất cả THỜI GIAN CON SỐNG mới thực sự là của riêng con.”

Hằng ngày, lúc nào cũng có người chết. Điều đó nhắc nhở chúng ta phải luôn nghĩ tới sự chết của mình, không chỉ nghĩ dịp Mùa Chay, tháng Cầu Hồn, hoặc một dịp đặc biệt nào đó. Cái chết có thể xảy đến với bất cứ ai vào bất cứ giây phút nào, đừng tưởng mình còn trẻ hoặc khỏe mạnh mà khinh suất. Mỗi người chỉ có một chuyến đời mà thôi, có điều quan trọng chắc chắn: KHÔNG CÓ KIẾP LUÂN HỒI. Đừng ảo vọng, chớ hoang tưởng!

Cuộc đời có nhiều chuyến xe, đặc biệt nhất là Xe Tang. Tuy nhiên, mỗi người chỉ có một chuyến đời duy nhất, không thể rút kinh nghiệm cho chuyến khác. Vấn đề không phải là hành trình dài hay ngắn, đi trên đường đất bụi mù hay đường nhựa trơn láng, đường hẹp hay đường rộng. Vấn đề quan trọng là “chuyên chở” những thứ gì trong chuyến đời của chúng ta.

Có mở thì có đóng. Cuộc sống có nhiều “cái cuối.” Cuối giờ. Cuối ngày. Cuối tháng. Cuối năm. Đặc biệt nhất là cuối đời. Định luật muôn thuở và bất biến. Thời gian không nhanh, không chậm, muôn thuở vẫn vậy. Cảm giác nhanh hay chậm là do cảm giác của con người tùy thuộc cảm xúc vui hay buồn. Người ta vui thì thấy thời gian trôi qua mau, người ta buồn thì thấy thời gian trôi qua chậm. Người trẻ thấy thời gian “dài” với sắc màu tươi sáng, người già thấy thời gian “ngắn” với sắc màu u ám. Chuyện đời rất ư bình thường!

Cuộc đời hay cuộc sống, được gọi là “dòng đời” vì nó cũng trôi đi như dòng sông. Sông hoặc biển đều có sóng. Cuộc sống cũng có một loại sóng đặc trưng là “sóng đời.” Sóng cứ vỗ miên man, trăm năm dài mà ngắn. Đời người qua nhanh tựa bóng câu qua song cửa sổ. Nguyễn Gia Thiều diễn tả: “Đời người như bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi.” (Cung Oán Ngâm Khúc) Đó là sự thật minh nhiên, như Thánh Vịnh gia nhận định: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, Một cơn gió thoảng là xong, Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103:15-16)

Kiếp người não nề quá! Nhưng đó là sự thật mặc nhiên và minh nhiên. Không thể làm gì, không còn cách khác. Xem chừng đành thúc thủ, nhưng người ta vẫn có thể “quản lý” những “vật dụng” trong “chuyến đời” của mình. Chẳng còn cách nào khác hơn là “sống tốt.” Có nhiều cách sống tốt, nhưng có thể tạm tóm lược qua mấy điểm chính: Nghiêm túc, tử tế, nhân bản, yêu thương, hòa nhã, và luôn sống tích cực trong mọi hoàn cảnh. Chỉ những ai biết yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người.

Tâm sự về chuyến đời, Thánh Faustina cho biết: “Tôi luôn hiện diện trước mặt Thiên Chúa trong linh hồn tôi, và tôi kết hiệp mật thiết với Ngài. Tôi làm việc với Ngài, tôi giải trí với Ngài, tôi chịu đau khổ với Ngài, tôi vui mừng với Ngài; tôi sống trong Ngài và Ngài sống trong tôi. TÔI KHÔNG BAO GIỜ CÔ ĐƠN, vì Ngài luôn đồng hành với tôi.” (Nhật Ký, số 318) Ước gì chúng ta cũng cảm nghiệm như vậy!

3. HÀNH LÝ YÊU THƯƠNG

Tháng Cầu Hồn nhắc người sống nhớ tới người đã khuất, tức là nhắc về tình yêu thương đối với cả người đã chết và người còn sống với chúng ta. Nhìn thấy nhau hằng ngày mà không thương nhau thì chẳng mong gì khi đã khuất bóng tịch liêu!

Người ta có câu: “Lúc sống thì chẳng cho ăn, đến khi đã chết làm văn tế ruồi.” Sống thì coi nhau như kẻ thù, chết thì khóc thét. Để làm gì? Vô ích! Có chăng chỉ là “che mắt” thế gian. Giả hình chính hiệu! Được thương thì xương không còn. Phũ phàng quá! Vì thế, một danh nhân đã nói: “Hãy sống như mình sắp chết, và hãy hành động như mình bất tử.”

Nhà sinh tử học Elisabeth Kübler-Ross nói: “Nếu bạn có thể coi cái chết là người bạn vô hình thân thiết trên lộ trình sự sống của bạn, nó sẽ nhắc nhở bạn một cách ôn hòa, không nên chờ đến ngày mai mới bắt tay làm những việc mà bạn phải làm thì bạn sẽ học được cách sống đúng với ý nghĩa cuộc sống mà bạn đang có, chứ không sống dật dờ cho qua ngày đoạn tháng.” Còn triết gia Heidegger nói: “Chính sự giao thiệp với cái chết của chính mình như là giới hạn tuyệt đối nên con người càng thấy rõ ý nghĩa và tính cấp thiết đích thực của việc làm người.”

Doanh nhân Steve Jobs luôn cảnh giác: “Hãy nhớ rằng bạn sẽ phải chết là cách tốt nhất để có thể tránh được cạm bẫy của ý tưởng cho rằng bạn có cái gì đó để mất. Cái chết là phát minh vĩ đại nhất của sự sống. Nó là tác nhân làm thay đổi cuộc sống, xóa cái cũ để mở đường cho cái mới.” Triết lý sống thật cao siêu!

Tắt thở. Nhắm mắt. Xuôi tay. Chẳng ai hơn ai. Cũng vẫn con người đó, sống thì gọi là “người,” chết thì gọi là “ma.” Nghe lạ mà chẳng lạ, bởi vì người ta vẫn gọi là “đám ma” chứ có ai nói là “đám người” đâu? Kiếp này có liên quan kiếp sau, không phải là “kiếp sau” theo “vòng luân hồi” hoặc “luật nhân quả,” mà là theo ý nghĩa của Kitô giáo.

Trong Truyện Kiều, câu 2997-2998, cụ thi hào Nguyễn Du nhận định: “Rõ ràng hoa rụng hương bay – Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.” Cuộc Chung Thẩm (Mt 25:31-46) cho thấy “mối liên quan” giữa kiếp này và kiếp sau, đúng là “kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.” Tư tưởng của cụ Nguyễn Du vẫn phù hợp.

Con người luôn trăn trở về thân phận của mình. Không chỉ là băn khoăn về sự chết, mà ngay cả những lúc đêm đen buông xuống, không gian tĩnh mịch, người ta không thể không trầm tư suy nghĩ. Càng trăn trở, càng băn khoăn, càng thắc mắc, càng tìm hiểu, nhưng con người vẫn chẳng có ai thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời này.

Chính tình yêu thương là chìa khóa vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa, kể cả Cửa Thiên Đàng. Yêu thương đòi hỏi phải từ bỏ mình và vác thập giá. Đó là điều không dễ, thế nên Chúa Giêsu đã khuyến cáo. Quả thật, yêu người khó lắm! Tại sao khó? Thánh LM Gioan Maria Vianney cho biết: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều.” Chính “cái tôi” cản trở mọi thứ.

Tuy nhiên, không thể không yêu thương nếu thực sự muốn vào Nước Trời. Điều quan trọng và cần thiết là yêu thương nhau ngay kiếp này, ngay lúc này, chứ không lần lữa hoặc hẹn mai hẹn mốt. Bởi vì chết rồi làm sao yêu thương? Đừng tiếp tục giả hình, dừng lại ngay kẻo muộn!

Một lần sinh, một lần sống, và một lần chết. Chết là ngưỡng sinh – tử, là hóa thân cát bụi thành bất tử: “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí.” (1 Cr 15:42-44)

Lạy Thiên Chúa, xin thương xót và tha thứ cho các linh hồn, xin cứu độ chúng con và toàn thế giới. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con bây giờ và trong giờ lâm tử. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Mùa Cầu Hồn – 2022

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2022

Ngại điều trị tâm lý

 

Thứ tư, 26/10/2022, VnExpress.net

Ngại  điều  trị  tâm  lý

HÀN QUỐCLo sợ bị gắn mác "người điên" nếu đi khám những rối loạn tâm lý khiến nhiều người phải giấu bệnh

Theo dữ liệu của cảnh sát Hàn Quốc năm 2021, trong khoảng 13.000 trường hợp tử vong do tự tử, hơn 5.000 người có tiền sử điều trị sức khỏe tâm thần. Đáng chú ý, 256 người trong độ tuổi 10-20 làm điều dại dột do sức khỏe tâm thần không ổn định. Số liệu này cho thấy ngày càng nhiều người trẻ mắc bệnh và khiến các vụ việc thương tâm tăng cao.

Khi các phương tiện truyền thông nhắc nhiều hơn đến chứng rối loạn hoảng sợ, trầm cảm, đặc biệt là sau các vụ tự tử của người nổi tiếng, nhận thức của người dân về vấn đề này đã tăng lên. Nhưng trên thực tế, xã hội Hàn Quốc vẫn tồn tại sự kỳ thị với những người gặp phải vấn đề tâm lý.

Rất nhiều người nổi tiếng đã tiết lộ việc phải đối mặt với bệnh tâm lý. Nam diễn viên Lee Byung-hun cho biết bản thân từng mắc chứng rối loạn hoảng sợ khi từng trải qua một cuộc tấn công trên chuyến bay đến Mỹ. Nam thần tượng K-pop Kang Daniel cũng phải tạm ngưng công việc khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp vì trầm cảm cách đây vài năm. Anh nói từng phải trải qua cảm giác mất hết động lực sống.

Vài năm trở lại đây, tỉ lệ mắc bệnh rối loạn hoảng sợ và trầm cảm liên tục tăng ở xứ sở kim chi. Số người đi điều trị trầm cảm tăng hơn 35% từ năm 2017 đến năm 2021. Cùng thời điểm đó, số trường hợp đến khám chứng rối loạn hoảng sợ cũng tăng từ 650.000 lên 870.000 người.

Đáng chú ý, vấn đề lớn lớn nhất của bệnh tâm lý là kéo theo các loại bệnh khác. Sự kết hợp của nhiều triệu chứng càng làm cho tình trạng của người bệnh càng trở nên trầm trọng.

Nhiều người Hàn Quốc bị mặc cảm, sợ hãi khi mắc các chứng bệnh tâm lý mà không dám đi khám. Ảnh minh họa: Korea Herald

Nghiên cứu năm 2020 của trợ lý giáo sư tâm thần học tại Trung tâm Y tế Đại học Konkuk Jeon Hong-jun chỉ ra, những bệnh nhân bị rối loạn hoảng sợ có khả năng cao mắc thêm chứng sợ hãi. Đây là tác nhân khiến người bệnh cảm thấy đau đớn, mệt mỏi và khó hồi phục hơn.

Hiện có nhiều nơi cung cấp các dịch vụ điều trị sức khỏe tâm thần tại Hàn Quốc, nhưng nhiều người vẫn cảm thấy do dự, ngại tìm kiếm sự giúp đỡ vì sợ bị kỳ thị.

Park Jee-eun, giáo sư tâm lý học tại Bệnh viện Đại học Quốc gia Seoul gần đây đã công bố kết quả nghiên cứu về lý do nhiều người e ngại chữa trị bệnh.

Qua phân tích 6 triệu tin nhắn được chia sẻ qua mạng xã hội từ năm 2016 đến 2019, gần 26% thanh thiếu niên không muốn đến gặp bác sĩ tâm thần vì sợ bị ảnh hưởng đến việc vào đại học; hơn 14% nói lo lắng vì sợ bị người khác xem như "một kẻ điên"; khoảng 22% người ở tuổi 20 lo lắng về cơ hội việc làm khi các nhà tuyển dụng thấy lịch sử khám bệnh; trong khi số còn lại sợ việc điều trị ảnh hưởng tiêu cực đến hợp đồng bảo hiểm.

Nhưng đây không phải nỗi lo thái quá mà hoàn toàn có căn cứ. Tháng 8 năm nay, Ủy ban Nhân quyền Quốc gia Hàn Quốc vừa đưa ra khuyến nghị cho hai công ty bảo hiểm địa phương cho phép những người đang điều trị chứng trầm cảm được mua bảo hiểm. Một công ty đã chấp nhận điều khoản này, kèm yêu cầu thời điểm mua bảo hiểm phải sau một năm dừng thuốc, công ty còn lại đã từ chối.

"Bạn tôi khuyên nên đi chữa bệnh mà không cần bảo hiểm y tế để không bị lưu lại trong hồ sơ, gây ảnh hưởng nếu đi xin việc. Tôi không làm điều đó, nhưng cũng không nói với người quản lý hiện tại của mình", một nhân viên khoảng 30 tuổi ở Seoul đang điều trị chứng trầm cảm và rối loạn hoảng sợ, nói.

Giáo sư Park nói rằng việc thiếu thông tin truyền thông tích cực nhằm thay đổi nhận thức cũng như cách điều trị hợp lý là một trong những lý do khiến công chúng do dự. "Các chuyên gia nên nỗ lực truyền bá thông tin liên quan và nhấn mạnh việc không cần phải giữ bí mật về liệu pháp chữa bệnh", bà nói.

Trước đó, một nghiên cứu của Hiệp hội tâm thần nước này cũng cho thấy không ít người lao động ở nước này đang có nhận thức tiêu cực về việc điều trị tâm thần, khi có tới 34% người được khảo sát không dám nói với sếp hay đồng nghiệp bản thân đang mắc bệnh, vì cho rằng đây là vấn đề nhạy cảm.

Nguy cơ cảm lạnh khi vào đông

 

Thứ tư, 26/10/2022, VnExpress.net

Nguy  cơ  cảm  lạnh  khi  vào đông


Nhiệt độ xuống thấp tạo điều kiện thuận lợi cho virus phát triển, gây suy yếu hệ miễn dịch, khiến người lớn, trẻ nhỏ dễ mắc bệnh cảm lạnh.
 
Cảm lạnh thông thường là một bệnh nhiễm trùng mũi và họng do virus gây ra. Bệnh thường nhẹ nhưng các triệu chứng có thể ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động hàng ngày.
 
Có nhiều loại virus có thể gây ra cảm lạnh thông thường, trong đó, rhinovirus là nguyên nhân phổ biến nhất với khoảng một nửa số ca cảm lạnh và các bệnh giống như cảm lạnh. Rhinovirus thường lây lan qua tiếp xúc trực tiếp giữa người với người hoặc hít phải những giọt bắn của người bệnh trong không khí. Sau khi hít phải, virus sẽ gắn vào các tế bào bên trong đường mũi. Sau đó, nó tự tái tạo, lây lan khắp đường hô hấp trên.
 
Các triệu chứng của cảm lạnh thông thường có thể bắt đầu xuất hiện từ 1-3 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh. Triệu chứng có thể bao gồm đau họng, sổ mũi, ho khan, hắt xì, nhiệt độ cao, đau cơ, đau đầu, mất vị giác hoặc khứu giác. Một số người có thể thấy các triệu chứng thuyên giảm trong khoảng một tuần, số khác có thể trở nặng hơn. Tuy nhiên, loại virus này cũng có thể gây ra các bệnh nặng hơn chẳng hạn như viêm phế quản và viêm phổi ở những người có hệ miễn dịch suy yếu.
 
Nghiên cứu của Đại học Yale (Mỹ) năm 2015 cho thấy, rhinovirus có thể phát triển ở nhiệt độ thấp hơn 37 độ C (nhiệt độ cơ thể trung bình ở người). Nhiệt độ bên trong khoang mũi xấp xỉ 33 độ C là môi trường thuận lợi để loại virus này phát triển. Hầu hết các nghiên cứu về rhinovirus tập trung vào việc xem xét sự khác biệt về nhiệt độ cơ thể ảnh hưởng thế nào đến khả năng sinh sản của virus.
 
Các nhà nghiên cứu của Đại học Oulu, Viện Y tế và Phúc lợi Quốc gia (Phần Lan) phát hiện ra, nhiệt độ và độ ẩm giảm trong 3 ngày làm tăng nguy cơ nhiễm trùng rhinovirus ở những người tham gia. Nghiên cứu cũng cho thấy, hầu hết các trường hợp nhiễm trùng xảy ra ở nhiệt độ từ 0 độ C.
 
Cảm lạnh vào triệu chứng hắt hơi, sổ mũi, sốt cao... gây khó chịu. Ảnh: Freepik
Cảm lạnh vào triệu chứng hắt hơi, sổ mũi, sốt cao... gây khó chịu. Ảnh: Freepik
 
Tiếp xúc với thời tiết lạnh có thể ảnh hưởng xấu đến phản ứng miễn dịch, khiến cơ thể khó chống lại nhiễm trùng. Dưới đây là một số lý do.
 
Giảm mức vitamin D: Trong mùa đông, nhiều người nhận được ít vitamin D hơn do giảm tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Vitamin D đóng một vai trò thiết yếu trong việc duy trì hệ thống miễn dịch.
 
Nhiệt độ thấp hơn có thể ảnh hưởng đến phản ứng miễn dịch: Một nghiên cứu năm 2015 của Đại học Yale (Mỹ) phát hiện, các tế bào đường thở được lấy từ chuột có nhiệt độ thấp hơn làm giảm phản ứng miễn dịch của tế bào chống lại virus rhinovirus.
 
Hẹp mạch máu: Hít thở không khí lạnh và khô khiến các mạch máu ở đường hô hấp trên thu hẹp để bảo toàn nhiệt. Điều này có thể ngăn các tế bào bạch cầu đến màng nhầy, khiến cơ thể khó chống lại vi trùng hơn.
 
Bất kỳ ai cũng có thể bị cảm lạnh. Hầu hết mọi người sẽ trải qua nhiều lần cảm lạnh trong đời. Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh như hệ thống miễn dịch suy yếu, dưới 5 tuổi, hút thuốc, cảm lạnh phổ biến hơn vào mùa thu và mùa đông, tiếp xúc với những người bệnh cảm lạnh. Hầu hết mọi người sẽ hồi phục mà không gặp phải bất kỳ biến chứng nào. Song cũng có trường hợp gặp các biến chứng như kích hoạt cơn hen suyễn, viêm xoang cấp tính, nhiễm trùng tai và một số bệnh nhiễm trùng khác.
 
Để phòng tránh bệnh trong mùa đông, mọi người nên đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ, cung cấp nhiều vitamin và khoáng chất từ trái cây và rau quả, ngủ nhiều, uống đủ nước, rửa tay thường xuyên, hắt hơi và ho vào khăn giấy sạch. Không dùng chung đồ ăn, thức uống với người bệnh cảm lạnh, cảm cúm để tránh lây nhiễm.

Tháng Các Linh Hồn: ‘Tương Tác’ Với Ông Bà Tổ Tiên

 

Tháng  Các  Linh  Hồn: ‘Tương  Tác’  Với  Ông  Bà  Tổ  Tiên

29 October, 2019,conggiao24h.net

 

Người Việt Nam chúng ta có truyền thống nhớ về tổ tiên rất tốt đẹp. Riêng với người Công giáo, truyền thống này lại được thể hiện cách đặc biệt trong Tháng Mười Một, tháng Giáo Hội hướng về việc cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Nhưng nhiều người hiện nay, nhất là người trẻ, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý, có thể đặt câu hỏi: tại sao tôi phải làm vậy? Liệu có ích gì khi phải thực hành một truyền thống nào đó? Vì thế, thiết tưởng việc suy tư về ý nghĩa và giá trị của hành vi kính nhớ tổ tiên là điều cần thiết. Ở đây, tôi chỉ giới hạn phần suy tư này vào một khía cạnh, với câu hỏi sau: liệu chúng ta có thể tương tác với tổ tiên đã qua đời của mình hay không?

Tại sao lại đặt ra câu hỏi đó? Vì tôi thiết nghĩ, nếu chúng ta có thể nhìn ra được khả thể rằng ông bà tổ tiên vẫn có vai trò và sự hiện diện theo nghĩa nào đó trong đời sống của mình, và chúng ta vẫn có thể có sự ‘tương tác’ với sự hiện diện đó trong những khía cạnh nhất định, thì việc kính nhớ ông bà tổ tiên sẽ mang tính chất sống động và cụ thể, thay vì chỉ là một hành vi vô thức theo tập tục hoặc truyền thống văn hoá đạo đức mơ hồ nào đó.

LỊCH CÔNG GIÁO CÁC NGÀY LỄ LỚN NĂM 2019

Để hình dung ra những mức độ và khía cạnh hiện diện của ông bà tổ tiên, điều kiện trước hết là chúng ta phải mở rộng tầm nhìn về cuộc đời mình, để thấy được tính toàn thể vốn có của nó. Lối sống thời hiện đại dường như đang thu hẹp tầm nhìn và ý thức của chúng ta về chính mình. Não trạng chung của xã hội hiện nay khiến chúng ta ‘đóng khung’ đời người trên căn bản của ‘thành công – thất bại’; và điều này lại lấy ‘tiền bạc – danh tiếng’ làm tiêu chuẩn. Mô thức này khiến cho toàn bộ cuộc sống bị cuốn vào vòng xoáy khắc nghiệt theo các yếu tố: hiệu quả, nhanh chóng, đào thải. Từ đó, đời sống con người chỉ còn được nhìn đến ở vài khía cạnh: hưởng thụ – quyền lực – sức khoẻ – và tuổi thọ. Nếu cuộc đời được hạch toán theo kiểu một ‘bản thu-chi’, nó quả là tẻ nhạt, nghèo nàn! Trong khi đó, cuộc sống tự nó lớn lao hơn nhiều so với cái khung nhỏ hẹp đó. Vì thế, nhiều người mơ hồ nhận ra rằng cuộc sống của mình đang trở nên xa lạ, vì nó đang thiếu hoặc mất dần những gì khác nên có trong cuộc đời.

Khi tự thu bé tầm nhìn về cuộc đời, chúng ta đang quên lãng hoặc đánh mất bao nhiêu khía cạnh quan trọng khác, như khía cạnh mở ra trong tương quan với người khác, khía cạnh liên hệ gần gũi với quá khứ, với văn hoá và lịch sử. Cũng vậy, chúng ta cũng đánh mất khả năng ngạc nhiên và nhạy bén trước những gì thuộc ý thức về sự siêu việt, hay niềm hy vọng về đời sống siêu nhiên, vv. Tuy nhiên, con người đâu phải chỉ là vật chất, mà còn là tinh thần nữa! Vì thế, chúng ta cần định hình tầm nhìn về đời sống con người trong tính toàn thể lớn lao của nó, với bao khía cạnh phong phú khác ngoài tiền bạc – danh vọng – quyền lực; và trong tầm nhìn đó, ta thấy rõ sự hiện diện rất cụ thể của ông bà tổ tiên trong đời sống của mình.

Trước hết, con người có lịch sử của mình. Lịch sử đó không phải chỉ là những gì đã qua, mà còn là những gì đang hiện diện nơi chính chúng ta. Ngay đến cơ thể vật lý của mỗi người cũng bao hàm sự hiện diện đó. Thật vậy, như dân gian vẫn nói, chúng ta không từ ‘lỗ nẻ’ mà có, nhưng được trao ban và tiếp nối cuộc sống thể lý từ tổ tiên mình. Vì thế, một cách rất cụ thể, có thể nói tổ tiên đang hiện diện ngay cả nơi thân thể của ta. Hơn nữa, tính cách và lối sống của ta cũng một phần được hình thành từ cội nguồn tiên tổ, với những đặc nét về văn hoá, phong tục, tôn giáo, vv., mà họ đã truyền lại cho ta.

Xét một cách sâu xa hơn, ông bà tổ tiên cũng hiện diện nơi những yếu tố định hình nên ý thức nhân bản lẫn ý thức tôn giáo của mỗi cá nhân. Thật vậy, nơi tầng ý thức của ta, thậm chí cả tầng vô thức, luôn có tiếng gọi nhắc nhở về thân phận ắt tử của đời người, và sự nhắc nhở đó gắn chặt với mối liên hệ với tổ tiên của mình. Chúng ta ‘biết’ mình sẽ không tồn tại mãi trên cuộc đời này, vì ta ý thức được rằng mọi người đi trước, nhất là các bậc tổ tiên, đều đã trải qua sự thật đó. Sự nhắc nhở này mang tầm mức quan trọng thiết yếu với con người, vì, nói theo kiểu triết gia Heidegger, chúng ta chỉ thực sự sống tư cách con người khi đảm nhận ý thức về sự ắt tử của mình. Đối diện với tính ắt tử giúp ta hiểu rõ sự ngắn ngủi của kiếp người, khiến ta biết trân trọng cuộc đời và sống chân thật với chính mình hơn. Quan trọng hơn, nó khiến ta truy vấn về ý nghĩa và cùng đích cuộc sống này, và hướng hy vọng về một đời sống mai sau, nơi ta có khả năng hiệp thông trở lại với tổ tiên mình. Vì thế, có thể nói ông bà tổ tiên hiện diện nơi ý thức hiện sinh của ta về cuộc sống.

Sự hiện diện của ông bà tổ tiên cũng không chỉ giới hạn trong đời sống cá nhân, mà còn trong đời sống cộng đồng xã hội nữa. Chết không có nghĩa là bị cắt đứt hoàn toàn ra khỏi đời sống xã hội. Thực tế, người chết đã trở thành một phần của lịch sử, của văn hoá và của bao khía cạnh khác trong một dân tộc; và do đó, họ cũng là một phần của hiện tại, và cần được nhìn đến như là một thành viên của xã hội đang sống.

Tóm lại, chúng ta có thể tương tác thật sự với tổ tiên của mình một cách rất sống động và cụ thể, đơn giản vì họ thực sự hiện diện cách năng động trong nhiều khía cạnh của đời sống chúng ta. Điều kiện cần là chúng ta phải tái ý thức về sự hiện diện đó, để thấy được sự thật rằng mình có sự liên hệ và gắn kết gần gũi với họ.

Trong truyền thống văn hoá Việt Nam, và trong các tôn giáo nói chung, chúng ta có nhiều cách thức thực hiện việc tương tác với ông bà tổ tiên của mình. Ví dụ, chúng ta có các tập tục quen thuộc như làm giỗ, niệm hương, viếng mộ, cúng bái, dâng lễ cầu siêu, lễ Vu Lan, vv.

Với Ki-tô hữu, ngoài những khía cạnh văn hoá và truyền thống, việc kính nhớ tổ tiên còn được chú trọng ở những hình thức thiêng liêng, như dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện, vv. Hơn nữa, sự tương tác này được diễn đạt một cách sinh động qua tín điều về sự hiệp thông giữa ba thành phần của Giáo hội hoàn vũ: Giáo Hội lữ hành của những người trên trần gian, Giáo Hội khải hoàn của các thánh trên thiên quốc, và cộng đoàn của những người đang chịu thanh luyện. Vì thế, như Công Đồng Vatican II dạy: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh.” Ở chiều ngược lại, “Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa […] các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha.” Có thể nói, mức tương tác đó đạt đỉnh cao ở trong phụng vụ, nhất là Thánh Lễ. Phụng vụ Thánh lễ là một thực tại thánh thiêng, là biến cố mở ra một không gian gặp gỡ đặc biệt giữa con người và Thiên Chúa, trong đó diễn ra sự hiệp thông của cộng đoàn hoàn vũ từ cả ‘ba thế giới’ nói trên. Vì thế, Thánh Lễ là không gian nơi ta có thể thực sự gặp gỡ và hiệp thông với ông bà tổ tiên của mình cách sống động, hay, nói như Đức Thánh Cha Benedictô XVI, là nơi thế giới của sự hữu hạn được tham dự vào thế giới của vĩnh cửu.

Sự tương tác nói trên có thể được diễn tả cách đặc biệt và đậm nét trong Tháng Mười Một, vốn là thời gian được Giáo hội dành riêng để kính nhớ các linh hồn ông bà tổ tiên. Trong tháng này, ngoài những hình thức tương tác kể trên, chúng ta cũng được mời gọi canh tân đời sống đạo đức và thực hiện các việc bác ái phúc đức, để lời nguyện của chúng ta dành cho ông bà tổ tiên được đẹp lòng Thiên Chúa. Thiết tưởng, đó là một cách thức báo hiếu rất cụ thể, và cũng là hình thức để làm cho cuộc sống của mình thêm phong phú và trọn vẹn.

Khắc Bá, SJ – CTV Vatican News)

Áp lực cuộc sống tàn phá trí nhớ nhiều người trẻ

 

Chủ nhật, 23/10/2022, VnExpress.net

Áp  lực  cuộc  sống  tàn  phá  trí  nhớ  nhiều  người  trẻ

HÀ NỘICăng thẳng, lo âu, ăn uống thiếu chất, kém vận động, là các nguyên nhân khiến nhiều người trẻ nguy cơ suy giảm trí nhớ, vốn là bệnh của người già.

Linh 21 tuổi, sinh viên năm ba Đại học Ngoại ngữ, gần đây bị suy giảm sức khỏe, kém tập trung, học không nhớ bài, thậm chí quên cả lịch đi dạy gia sư.

Linh là người tự lập, hoàn cảnh khó khăn nên khi đỗ đại học cô đặt mục tiêu vừa học vừa làm, tự nuôi sống bản thân, không phiền bố mẹ. Mỗi ngày, Linh học từ 7h đến 12h rồi đi làm thêm tại cửa hàng tiện lợi. Cô dạy tại trung tâm ngoại ngữ tối thứ hai và thứ tư, làm gia sư tại nhà vào thứ ba và thứ năm, để thêm thu nhập trang trải tiền sinh hoạt.

Thời gian làm việc dày đặc khiến Linh thiếu ngủ trầm trọng, mỗi ngày chỉ chợp mắt được 5 tiếng nên hôm sau mệt mỏi, khó chịu. Ngoài ra, do bận rộn, nữ sinh viên không có thời gian tập thể dục, ăn uống tạm bợ, thường xuyên tiêu thụ thực phẩm chế biến nhanh như mỳ tôm, xúc xích, bánh ngọt.

Lo lắng tình trạng mất tập trung khiến học tập và công việc kiếm tiền bị ảnh hưởng, cô đi khám, bác sĩ chẩn đoán mắc chứng suy giảm trí nhớ kèm rối loạn lo âu. Ngoài đơn thuốc, bác sĩ tư vấn Linh thay đổi lối sống, ăn uống đầy đủ, tập luyện thường xuyên, hạn chế sử dụng mạng xã hội, thường xuyên thiền hoặc đi dạo công viên để phục hồi sức khỏe não bộ.

Tương tự, Lan 38 tuổi, ở Ba Đình, bỗng dưng bị mất tập trung, hay quên, thường xuyên cáu bẳn, khó chịu sau sinh con thứ hai. Cô làm việc trong lĩnh vực xuất bản, thường xuyên biên tập, dịch sách, có khả năng đọc 4 cuốn sách một tuần và ghi nhớ nội dung chi tiết. Tuy nhiên, trở lại công việc sau 6 tháng nghỉ thai sản, Lan bỗng mắc chứng nhớ nhớ quên quên, liên tục không nhớ được nơi để chìa khóa xe, vé xe, đồ đạc; nhiều lần cô mất cả tiếng đồng hồ để tìm nơi để xe máy dưới tầng hầm.

Ở nhà, cô quên không tắt bếp, khiến thực phẩm bị đốt cháy, khói bốc mù mịt, ban quản lý chung cư nhiều lần lập biên bản vì nguy cơ gây cháy nổ. Tệ hơn, có lần Lan lơ đãng nghĩ đến công việc, bật nước nóng bỏng rồi đặt con vào tắm, khiến em bé 8 tháng bị bỏng. Sau lần đó, cô được chồng đưa vào Bệnh viện Đại học Y thăm khám, được chẩn đoán rối loạn lo âu, suy giảm trí nhớ sau sinh, phải uống thuốc chống trầm cảm.

Tình trạng suy giảm trí nhớ, stress kéo dài như Linh hay Lan không hiếm. PGS.TS Nguyễn Trọng Lưu, Phó chủ tịch Hội Phục hồi chức năng Việt Nam, cho biết theo guồng quay cuộc sống, suy giảm trí nhớ không còn là hội chứng của riêng người già mà nhiều người trẻ và trung niên đang nguy cơ cao mắc phải.

Theo thời gian, nếu không kiểm soát tốt, chứng suy giảm trí nhớ có thể tiến triển thành sa sút trí tuệ và Alzheimer - bệnh lý về thần kinh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt, đời sống. Theo đó, sa sút trí tuệ ảnh hưởng đến trí nhớ, suy nghĩ, định hướng, năng lực học tập, ngôn ngữ, khả năng hiểu, tính toán và phán đoán, điều hành... Hội chứng còn khiến người bệnh không thể thực hiện hành vi hoặc tự sinh hoạt, suy nhược cơ thể, nhiễm trùng và thậm chí tử vong.

Thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy khoảng 7% người trên 60 tuổi bị sa sút trí tuệ, năm 2030 dự báo con số này khoảng 82 triệu người. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Neurology vào tháng 9/2022 cho thấy cứ 100.000 người từ 30 đến 64 tuổi thì có 119 người mắc chứng sa sút trí tuệ sớm. Tại Việt Nam, ước tính có hơn 500.000 người bị hội chứng này.

 


Sa sút trí tuệ khiến người trẻ suy giảm trí nhớ, không hoàn thành tốt công việc. Ảnh:Freepik

Nguyên nhân của chứng suy giảm trí nhớ xuất phát từ áp lực cuộc sống, việc lười vận động, không giao tiếp và cuộc sống gắn bó quá nhiều với công nghệ. "Chúng ta thường xuyên giao tiếp nhưng đó là sự tương tác tĩnh với môi trường không có thực, có thể tiếp nhận mà không diễn đạt bằng lời", PGS Lưu giải thích và dẫn chứng nhiều người trẻ vừa ăn uống, vừa cúi xuống lướt điện thoại, xem phim, nghe nhạc, chạy xe trên đường cũng tranh thủ cắm tai nghe học. Việc đa nhiệm này dẫn đến khả năng kém tập trung, kém ghi nhớ ở người trẻ.

Bên cạnh đó, những yếu tố nguy cơ gây suy giảm trí nhớ còn có thể do đột quỵ ngày càng trẻ hóa, tình trạng béo phì và tăng huyết áp; gia tăng mắc đái tháo đường, tăng mỡ máu; thói quen uống rượu hoặc và dùng chất kích thích, tiền sử gia đình có người mắc hội chứng sa sút trí tuệ, trầm cảm; thiếu hụt dinh dưỡng trong chế độ ăn uống đặc biệt là sắt và vitamin B...

Theo chuyên gia tâm lý Nguyễn Thị Tâm, Trung tâm đào tạo và ứng dụng khoa học tâm lý Hồn Việt, người trẻ bị stress, căng thẳng mạn tính khiến tình trạng suy giảm trí nhớ nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, giới trẻ hiện nay thức khuya, thiếu ngủ trầm trọng, khiến não bộ không đủ phục hồi nên bị suy giảm trí nhớ, lâu dài dẫn đến sa sút trí tuệ.

Mặc khác, họ thường chủ quan nghĩ mình còn trẻ nên chế độ sinh hoạt và dinh dưỡng không điều độ khiến bệnh trầm trọng hơn, kéo theo nhiều hệ lụy khác như máu khó lưu thông, gan không đào thải được độc tố. Khả năng chịu áp lực và kỹ năng sinh tồn của người trẻ chưa tốt, dễ sa đà và mất phương hướng trước áp lực.

Chuyên gia khuyến cáo người trẻ nên sống thực tế, tránh tham vọng quá mức, xác định mục tiêu vừa sức, biết cái gì là quan trọng đối với mình, với lứa tuổi của mình. Thường xuyên luyện tập thể dục đều đặn, nhẹ nhàng, giữ tinh thần luôn lạc quan, vui vẻ. Tránh sử dụng các chất kích thích như rượu bia, ma túy. Khi sử dụng các thuốc bổ não, dưỡng não cần có sự chỉ định và tư vấn của các chuyên gia y tế. Thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ và cần được thăm khám sớm khi có bất thường về thể chất và tinh thần.

"Không nên chủ quan khi có biểu hiện sớm của việc suy giảm trí nhớ. Nên đi thăm khám, tầm soát để phát hiện và điều trị kịp thời, tránh để tình trạng rối loạn giấc ngủ, căng thẳng kéo dài quá lâu dẫn đến hậu quả khó lường", bà Tâm cho biết.

Minh An