Người Công Giáo với việc tôn kính ảnh tượng
10/7/2022
Một trong những luận điệu
người Tin Lành đả kích Đạo Công giáo là việc tôn kính ảnh tượng:“ Loraine
Boettner, một nhà văn chuyên đả kích Công giáo trong quyển Roman Catholicisme (
Công giáo La mã ). Ông cho rằng có ảnh tượng đã là một tội bởi vì Thiên Chúa cấm
dùng hình ảnh trong việc thờ phượng. Nhiều người nắm lấy luận điệu này để kết
án người Công giáo. Tuy nhiên nếu họ tìm kiếm trong Phúc Âm họ sẽ thấy sự thật
trái ngược. Thiên Chúa không những không kết án việc xử dụng ảnh tượng trong sự
thờ phượng mà thực sự Ngài còn ra lệnh xử dụng” (Nguồn Conggiao.Info 29/6/2013
– James Akim – Người Công giáo thờ tượng ảnh?).
Ở đây có hai điều cần lưu
ý. Một, người ta không phải do căn cứ vào nhà văn nọ để kết án người Công giáo
trong việc thờ ảnh tượng nhưng chính là
Kinh Thánh. Hai, các tượng được tạc ấy không phải là Thiên Chúa mà là
các thiên thần Cherubin dùng để
trang trí nơi đền thờ chứ không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa chỉ cấm
không được…tạc hình ảnh Ngài để thờ lạy: “Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình,
cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp này
hoặc trong nước, dưới lòng đất. Ngươi chớ quỳ lạy trước các hình tượng đó và
cũng đừng hầu việc chúng nó. Vì Ta là Giehova ĐCT ngươi, tức là ĐCT kỵ tà. Hễ
ai ghét Ta, Ta sẽ nhơn tội tổ phụ các ngươi phạt lại con cháu đến ba, bốn đời
và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta” (Xh
20, 4 -5). (Theo bản dịch của Tin Lành – United Bible Societies).
Chẳng những người Tin
Lành mà cả Hồi giáo cũng không có việc tạo tượng vì cho đó là lệnh cấm của
Thiên Chúa. Thế nhưng họ hoàn toàn không biết
lệnh cấm ấy chỉ cấm tạo hình tượng
Thiên Chúa mà thôi. Tại sao lại cấm? Bởi vì Thiên Chúa là đấng vô hình, vô tướng.
Thánh Phao Lô khi đến giảng đạo tại thành Athen (Hy Lạp), ngài đã trích thơ của
họ và nói về thần tính Thiên Chúa: “ Vì trong Ngài chúng ta sống động và tồn tại
như một vài thi nhân của các ông đã vịnh rằng:
…Chúng ta cũng là dòng
dõi của Ngài. Vậy chúng ta đã là dòng dõi của ĐCT thì chớ nên tưởng rằng thần
tánh ĐCT giống như vàng bạc hay là đá. Bởi nghệ thuật và tưởng tượng của người ta chạm trổ nên” (Cv 17, 28 -29).
Tính chất vô hình vô tướng của Thiên Chúa đã được thể hiện cách sinh động qua việc tiên tri đến gặp Thiên Chúa trên núi
Si Nai: “ Đức Chúa Giehova phán: Ngươi sẽ chẳng thấy được Mặt Ta vì không ai thấy Mặt Ta mà còn sống. Đức
Chúa Giehova lại phán: Đây có một chỗ gần Ta, ngươi hãy đứng trên mỏm đá. Khi sự
vinh hiển Ta đi ngang qua sẽ để ngươi trong bộng đá, lấy tay Ta che ngươi cho đến
chừng nào Ta đã đi qua rồi, Ta sẽ rút tay lại và ngươi thấy phía sau Ta nhưng
không thấy được Mặt Ta” (Xh 33, 20 -23).
Chính Moise, người lãnh đạo Cuộc Vượt Qua đưa dân Do Thái ra khỏi đất nô
lệ Ai Cập mà cũng chẳng thể thấy…Mặt Thiên Chúa thế nên đối với Dân Chúa thời ấy
người ta tỏ ra sợ hãi không dám…nghe cả Tiếng Chúa: “ Moise nói với dân chúng:
Vả trong khi quả núi phát lửa, các ngươi vừa nghe tiếng từ giữa nơi tối tăm phát ra thì quan trưởng của các chi phái và những trưởng lão các
ngươi đến gần ta mà nói rằng: Kìa
Giehova ĐCT chúng tôi đã tỏ ra sự vinh
hiển và sự oai nghiêm Ngài cho chúng
ta và chúng ta có nghe Tiếng Ngài từ giữa
lửa phán ra. Ngày nay chúng tôi thấy rằng ĐCT có phán cùng loài người và loài
người vẫn còn sống. Nhưng bây giờ cớ sao chúng tôi lại phải chết ? Vì đám lửa lớn
này sẽ tiêu diệt chúng tôi hết. Vì trong
loài người có ai đã nghe tiếng của ĐCT
sanh hoạt từ giữa lửa phát ra như chúng tôi mà vẫn còn sống ? ( Đnl 5, 23 -26
).
Đối với dân Do Thái trong
thời Cựu Ước xa xăm ấy, Thiên Chúa đối với họ là một vị Thần vô cùng đáng sợ,
chẳng những không thể đến gần mà còn không dám…nghe cả Tiếng Ngài. Thế nhưng
con người bất kể ở nơi đâu, thời nào
cũng cần có những…vị thần để họ có thể cầu cứu, nương tựa. Bởi lẽ đó khi
Moise lên núi Si Nai để nhận lãnh Bia Mười Điều Răn đã khá lâu vẫn chưa về, họ
rất nóng lòng nói với Aron: “Hãy làm các thần để đi trước chúng tôi. Về phần
Moise này là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ai Cập chúng tôi chẳng biết điều
chi đã xảy đến cho người rồi…
…Aron bèn ra lệnh gom góp
vàng bạc để đúc nên một con bò vàng rồi cùng nhau xì xụp lạy và tuyên bố: Hỡi
Itsraen, này là thần của các ngươi đã đem chúng ta ra khỏi xứ Ai Cập” (Xh 32, 1-4).
Giống như dân Do Thái
trong Cuộc Vượt Qua, đời sống con người là một cuộc hành trình đầy dẫy gian
nguy, hiểm nạn, bởi vậy con người dù ở bất cứ nơi đâu, thời nào cũng cần phải
có những thần tượng. Trong lãnh vực hữu thần (Tín ngưỡng) thì các thần ấy dĩ
nhiên phải có hình tượng hoặc gỗ, đá, xi
măng v.v… để người ta có thể đến để cầu khấn, van lơn này nọ. Chẳng hạn khắp ba
miền Bắc, Trung, Nam đều có các thần gọi là Mẫu Hậu. Miền Bắc có bà chúa Liễu Hạnh
gọi là Bà Chúa Kho. Miền Trung có Thiên Y Ana của người Chàm. Miền Nam có Linh
Sơn Thánh Mẫu ( Núi Bà Đen ) v.v…Hàng năm vào các kỳ lễ hội, hoặc Tết người ta
ùn ùn kéo đến để xin xỏ khấn vái một cách tin tưởng nồng nhiệt nhưng rồi tất cả
chỉ chuốc thêm mê mờ phiền não !!!
Trong lãnh vực duy vật vô
thần người ta cũng rất cần đến thần tượng để có thể giúp quy tụ những người đồng
chí hướng hoặc để lôi kéo quần chúng đặt lòng tin nơi lãnh tụ tối cao…Chính bởi
cái nhu cầu ấy, Tập Cận Bình, nhà độc tài của chế độ CS Bắc Kinh hiện nay đã bắt
các nhà thờ Công giáo phải treo ảnh của hắn ta trên gian cung thánh hòng thay
cho ảnh tượng Chúa !!!
Nhu cầu của con người rất
cần có những thần tượng đủ loại như thế, tuy nhiên với người Tin Lành do không
hiểu được ý nghĩa cũng như mục đích của ảnh tượng thế nên trong các nhà thờ hay
tư gia, họ không treo hay đặt bất cứ một tượng Chúa nào mà chỉ thay vào đó
là hình
cuốn Kinh Thánh hoặc các câu Lời Chúa
dán trên tường.
Cũng bởi người Tin Lành
không tôn thờ ảnh tượng, thế nên họ không sao thấy được giá trị đó như là đối tượng của sự quy hướng tâm linh và vì
không có nơi để quy hướng là Hình Tượng
Chúa Giê Su, Đức Mẹ Maria, các Thánh thế nên đời sống tâm linh của họ rất
chi nghèo nàn chỉ quanh quẩn, nhai đi
nhai lại những đoạn những câu Kinh Thánh mà thực chất chỉ là những khái niệm vô
bổ, chết khô vì đã không đi vào thực hành.
Tôn kính ảnh tượng tôn
giáo là hết sức cần thiết bởi vì nó giúp
cho con người dễ dàng trong việc quy hướng và trong việc quy hướng ấy cũng
chính là việc…Nhớ. Nhớ cái gì sẽ có cái ấy, năng nhớ đến Chúa thì có Chúa mà
có…nhớ đến Chúa thì Chúa mới nhớ và ban ơn cho ta. Trong việc…nhớ này con người
thể hiện qua hai giác quan là mắt thấy
và tai nghe.
Việc Thấy, Nghe đó
có ảnh hưởng quyết định ở nơi Tâm. Nghe
một câu chửi rủa, nhiếc mắng, Tâm sẽ bất an, khó chịu. Trái lại nghe một lời
kinh, lời kệ đem đến cho Tâm ta được
hoan hỉ, hướng thượng …Cũng vậy, thấy một hình tượng dữ dằn chẳng hạn như con beo, con cọp
dù chỉ là con thú nhồi bông nhe nanh nhe vuốt cũng khiến ta có cảm giác sờ sợ, bất an…Ngược
lại thấy ảnh tượng Đức Mẹ hay Quan Âm Bồ Tát…như thấy mình được vỗ về, an ủi…
Mặt khác, các hình tượng
trong tôn giáo, đặc biệt là Công giáo và Phật giáo đó là một thứ “ Đức dụng tưởng” tức những nhân đức cao cả để nhờ đó con người
có thể noi gương bắt chước thực hành.
Nhìn lên ảnh tượng Chúa Giê Su chịu đóng đinh trên Thánh Giá, người Công giáo
nhớ đến công ơn lớn lao của Ngài đã chịu
nạn chịu chết để cứu độ nhân loại. Có tưởng
nhớ đến công ơn của Ngài chúng ta mới cố
gắng thực thi lời dạy của Ngài.
Nhìn thấy tượng ảnh Đức Mẹ Maria chúng ta thêm lòng yêu mến Ngài như một người
Mẹ Tâm Linh, nhờ Ngài mà Chúa Giê Su ở trong ta mới được dưỡng nuôi và lớn lên
từng ngày…
Với ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ,
các Thánh được tôn kính nơi Thánh Đường
cũng như trong gia đình. Người Công giáo như được sống dưới sự bảo bọc che chở
một cách hữu hình. Mặc dầu vậy việc tôn kính ảnh tượng của người Công giáo hiện
nay đang sa sút và…có vấn đề?
Nói đang sa sút bởi vì
nhiều nơi trên thế giới nhất là tại Âu châu nơi mà nạn Tục Hóa đang hoành hành
dữ dội thì không những người ta không còn sống đạo mà còn muốn bãi bỏ Lễ Giáng
Sinh, có nơi còn có sắc lệnh cấm không được trưng bày Thánh Giá nơi các lớp học như trước đây vẫn
làm. Như thế còn nói chi đến việc tôn thờ ảnh tượng???
Lại nữa tại Việt Nam,
trong các gia đình của những cặp vợ chồng trẻ, nhất là trong giới trí thức họ cũng không lập bàn thờ và nếu có thì cũng chỉ
là những ảnh trang trí ở phòng khách mà thôi?
Một vấn đề khác cũng cần
nêu lên đó là việc tôn kính Ảnh Chúa Cha. Cách đây khá lâu tại bàn thờ của nhiều
gia đình Công giáo có đặt bức hình Chúa Cha, có râu dài trắng xóa, mặc phẩm phục
màu đỏ, tay cầm quyền trượng. Ảnh…Chúa Cha này còn được tôn kính cách đặc biệt
tại Nhà Chúa Cha nơi sinh hoạt của
nhóm Nhân Điện và Trừ Quỷ Bảo Lộc.
Việc cấm tạo hình tượng
Thiên Chúa thời Cựu Ước ( Sách Xuất Hành 20, 4 -5 ) đó phải chăng là dành cho
những trường hợp này ? Không được vẽ, tạo hình tượng Chúa Cha bởi vì đó là Đấng
Vô hình vô tướng. Tuy không được vẽ, tạo tượng Chúa Cha nhưng luật Chúa lại đòi
hỏi con người phải hết lòng yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa thì được Ngài ban
ơn, trái lại sẽ bị nguyền rủa.
Đấng Cha cần được yêu mến
ấy chính là Đấng Cha…nội tại đã được Đức
Ki Tô mạc khải: “ Ngoài Cha không ai biết Con. Ngoài Con và người nào Con muốn
mạc khải cũng không ai biết Cha” ( Lc 10, 22 ). Đức Ki Tô nói Ngài…biết Cha thì
cái biết ấy không phải bằng tri thức phân biệt
nhưng là bằng Tình Yêu vô phân biệt. Sự sai lầm của thần học đưa đến khủng hoảng sâu sắc
trong giáo hội trong bao thế kỷ nay
chính vì cho rằng người ta có thể….biết Thiên Chúa nhờ vào lý
trí.
Một khi lý trí đã không
thể…biết được Thiên Chúa như là Đấng Cha thì làm sao có thể…vẽ, tạo hình ảnh
Chúa Cha như vậy được ? Có thể nói chính cái việc…vẽ, tạo hình tượng Chúa Cha ấy đã làm cho cơn khủng
khoảng mãi thêm trầm trọng và điều này càng khiến con người không thể yêu mến và trở về với
Ngài!
Con người chỉ có thể yêu
mến và trở về với Đấng Cha qua trung gian của Đức Giê Su Ki Tô bởi vì Ngài
đã...thấy biết về Cha: “ Các ngươi chẳng từng biết Ngài. Song Ta biết Ngài, nếu
Ta nói rằng Ta không biết Ngài thì Ta cũng sẽ nói dối như các ngươi vậy. Song
Ta biết Ngài cũng giữ Đạo Ngài” (Ga 8, 55).
Cũng chính vì Đức Ki Tô
đã…biết Cha nên Ngài khẳng định: “ Ta với Cha là một” ( Ga 10, 30 ). Chúa Giê
Su với Đấng Cha là một nhưng cũng là…hai bởi vì Đấng Cha thì vô hình vô tướng
còn Đức Giê Su Ki Tô thì có hình có tướng ( trạng ): “ Đạo đã trở nên xác thịt, đóng trại giữa chúng ta,
đầy ơn sủng và lẽ thật” ( Ga 1, 14 ).
Bởi Chúa Giê Su có hình
có tướng như thế nên người Công giáo có thể vẽ, tạo tượng để phụng thờ Ngài. Sự
thờ phụng ấy dĩ nhiên không phải là…thờ cái hình vẽ hay tượng nhưng qua hình vẽ
hoặc tượng ấy chúng ta tưởng nhớ đến Ngài. Việc tưởng nhớ cả trong đời sống thường
nhật cũng như đời tâm linh là vô cùng quan trọng. Người đời chỉ…tưởng nhớ đến những
chuyện thế gian nên đã bị thế gian lôi kéo vào những sự phiền não trói buộc.
Trái lại người sống đời tâm linh thì luôn…tưởng nhớ đến Chúa và nhớ đến Chúa sẽ
được Ngài dẫn đưa trên con đường giải thoát.
Việc tưởng nhớ đến Chúa Đấng
là nguồn ơn sủng và giải thoát quan hệ
như thế nhưng như M. Heidegger, triết gia đương đại của thế kỷ 20 nói: Thời này
là thời nhân loại đã…quên mất Thiên Chúa ( Oublie’ de L’ Être ). Cũng vì
đã…Quên Chúa thế nên con người đã xô đẩy nhau vào con đường diệt vong là điều
khó tránh khỏi cùng với những hậu quả thảm khốc của nó, thế chiến thứ ba với
chiến tranh hạt nhân mà bạo chúa Pu Tin đã và đang đe dọa là điều không phải
là… không thể ???
Chính trong tình thế cực
kỳ nguy cấp ấy, Chúa Giê Su đã truyền cho Thánh Faustina vẽ Bức Hình Chúa
Thương Xót cùng với lời ghi “ Lạy Chúa Giê Su, con tín thác vào Chúa”. Sau nhiều
trở ngại và chống đối ngay tại nhà dòng và các bề trên. Bức Ảnh cùng với Chuỗi
Kinh Lòng Thương Xót đã được phổ biến
trên toàn thế giới. Nếu Thánh Faustina vì nghe theo lệnh truyền của Chúa đặt vẽ
Bức Ảnh mà đã chịu đau khổ và sỉ nhục thì ngày nay chúng con mỗi khi nhìn lên Bức Ảnh và thầm thĩ đọc câu
“ Lạy Chúa Giê Su, con tín thác vào Chúa” thì cũng được Chúa nói lời an ủi: “ Đừng
sợ, Cha ở với con” ( NK 129 )./.
Phùng văn
Hóa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét