Ki-tô hữu và việc tạ ơn Chúa
10/9/2022
Hồng ân thiên chúa bao
la, / Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn người...
📷 freepik.com
Có thể nói, suốt cả cuộc
đời Ki-tô hữu chúng ta là một lời kinh tạ ơn và ngợi khen. “Hãy tạ ơn Chúa vì
Chúa nhân từ, / muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136, 1); “Suốt cuộc
đời, tôi xin hát mừng Chúa, / sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời” (Tv
146, 2).
Hằng ngày, ít nhất cũng
có một vài dịp chúng ta nhớ đến và thực hành việc tạ ơn Chúa. Chẳng hạn, sau giấc
ngủ ban sáng, trước/ sau các bữa ăn, sau những lúc hoàn thành công việc bổn phận.
Đặc biệt, trong thánh lễ, chúng ta có dịp cùng cộng đoàn lên tiếng tạ ơn, đó là
lúc nghe xong hai bài đọc và sau câu chúc “Lễ xong chúc anh chị em đi bình an”
của vị chủ tế...
Thực ra, việc tạ ơn Chúa
của Ki-tô hữu không chỉ diễn ra khi làm một vài việc nào đó, trong một thời khắc
nào đó, mà hơn thế, đó phải là một nếp sống đạo đức thường xuyên trong tâm tình
vui mừng, sốt mến và khiêm nhu... “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa / và
ca ngợi Thánh Danh muôn thủa muôn đời” (Tv 144, 2). Riêng thánh Phao-lô cũng đã
khuyên nhủ các tín hữu: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng.
Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn
trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5, 16-18).
Đối với Ki-tô hữu, việc tạ
ơn Chúa chẳng những là một hành vi biết ơn thông thường của kẻ chịu ơn, mà còn
là một bổn phận tôn giáo có liên quan đến đức tin và lòng mến của chúng ta đối
với Thiên Chúa. Thực vậy, “Khám phá việc tạ ơn trong Thánh Kinh cũng là tìm thấy
niềm vui mừng (Tv 33, 1-3. 21), sự ca ngợi và hân hoan (Esđ 3, 11; Tv 69, 31),
sự tôn vinh Thiên Chúa (Tv 50, 23; 86, 12). Nói rõ hơn, tạ ơn là công khai
tuyên xưng các kỳ công hiển nhiên của Thiên Chúa. Ngợi khen Chúa, tức là cao
rao các vẻ cao siêu của Ngài; cảm tạ Chúa, tức là công bố những việc diệu kỳ
Ngài thực hiện, và làm chứng cho các công trình của Ngài” (x. Mục từ “Tạ ơn”,
Điển ngữ THTK GHHV Pi-ô X Đalat).
* KI-TÔ HỮU TẠ
ƠN CHÚA VỀ NHỮNG ĐIỀU GÌ?
Bình thường Ki-tô hữu
chúng ta có thói quen tạ ơn về những điều mình đã nhận được qua việc cầu xin.
Đây đó, tại những khu vực thích hợp, trong hoặc ngoài nhà thờ, người ta dễ dàng
nhìn thấy những tấm bia đá ghi khắc mấy chữ “Tạ ơn Chúa”, “Tạ ơn Đức Mẹ”, “Tạ
ơn ông thánh...bà thánh...”. Người ta cũng thấy đặt để đây đó những hòm/ thùng
tiền tạ ơn hoặc nghe những lời thông báo tạ ơn trước hoặc sau thánh lễ. Tất cả
những việc đó nói lên điều gì? Nói lên điều này là chúng ta thường chỉ quan tâm
đến việc cám ơn khi đã được những ơn cầu xin. Và sự đền ơn đáp nghĩa của chúng
ta thường đơn giản chỉ tính bằng tiền bạc, vật chất như một bó hoa, một hai cây
nến, một vài đóng góp nào đó cho việc đạo vv...
Thực ra, việc tạ ơn của
chúng ta phải liên quan đến những ơn huệ cao cả vĩ đại hơn mà Thiên Chúa đã ban
cho chúng ta qua Đức Giê-su Ki-tô và trong Hội thánh của Người. Chúng ta thử đọc
và phân tích kinh Cám Ơn mà chúng ta đọc hằng ngày để xem nội dung tạ ơn gồm những
gì:
“Con cám ơn Đức Chúa Trời
là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh
ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con hằng che chở con, lại cho
Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá vì con, lại
cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời cũng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội thánh nữa,
và đã cho phần xác con (ngày / đêm) hôm nay được mọi sự lành, lại cứu lấy con
kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Vậy các thánh ở trên nước thiên
đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào thì con cùng hợp cùng các thánh mà dâng chúa
con cùng cám ơn như vậy. Amen”.
Dựa vào nội dung kinh
trên, chúng ta có thể kể ra 4 ơn huệ cao trọng nhất mà Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta, đó là: Ơn làm người, ơn cứu chuộc, ơn làm Ki-tô hữu và ơn quan phòng.
- Ơn huệ làm người
Ơn đầu tiên mà con người
phải luôn ghi khắc trong lòng, đó là ơn được làm người. Từ hư vô, Thiên Chúa đã
“kéo” con người ra và ban cho họ sự sống. Thánh Kinh đã ghi lại: “Thiên Chúa
phán: ‘Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng
ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất
và mọi giống vật bò dưới đất.’ Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo
con người có nam có nữ” (St 1, 26-27).
Quả vậy, “Ơn gọi đầu tiên
và là nền tảng của mọi ơn gọi tự nhiên là ơn gọi làm người. Từ hư vô con người
trở thành hiện hữu do ý muốn của Thiên Chúa và mang trong mình một định hướng
siêu việt. Mỗi con người là một công trình tác tạo phát xuất từ chính sự sống của
Thiên Chúa và nằm trong kế hoạch tình yêu muôn đời của Ngài. Vì thế sự sống của
mỗi con người gắn liền với chính sự sống của Thiên Chúa, và tình yêu nơi mỗi
người là dấu ấn khắc ghi tình yêu bao la của Ngài...” (LM Thái Nguyên, bài “Ơn
gọi hiện diện”, nguồn simonhoadalat.com).
Ơn huệ được làm người là
một ơn nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Vì yêu thương con người,
Thiên Chúa đã muốn chia sẻ sự sống và tình yêu cho họ để họ được hưởng sự vinh
quang đời đời như Người. Giáo lý HTCG đã diễn giải như sau: “Mỗi con người đều
mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh ấy rực sáng trong sự hiệp thông nhân vị, giống
sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa” (Số 1702); “Được ban cho một linh hồn bất
tử, con người là ‘thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì
chính họ’. Ngay từ lúc tượng thai, con người được Thiên Chúa tiền định để hưởng
hạnh phúc đời đời ” (Số 1703).
- Ơn cứu chuộ
Ơn huệ kế tiếp là ơn mà tất
cả mọi tín hữu chúng ta không ngừng cảm tạ. Đó là ơn cứu chuộc.
Lịch sử cứu độ cho ta biết
con người đã phạm tội. Tội kiêu ngạo, tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, tội chống
lại Đấng Sáng Tạo. Đây là khởi nguồn của tội nguyên tổ mà tất cả loài người đều
chịu liên lụy. Thực vậy, “Con người bị ma quỷ cám dỗ, đã đánh mất lòng tín thác
vào Đấng Sáng Tạo, và khi lạm dụng sự tự do, con người đã bất tuân mệnh lệnh của
Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người. Từ đó mọi tội lỗi đều là do bất
tuân Thiên Chúa và thiếu tín thác vào lòng nhân hậu của Người” (GLHTCG số 397);
“Ngay từ đầu lịch sử, con người bị thần Dữ cám dỗ nên đã lạm dụng tự do của
mình. Họ đã sa chước cám dỗ và làm điều ác. Dù vẫn con ước muốn điều thiện,
nhưng bản tính họ đã bị thương tổn vì nguyên tội. Con người nghiêng chiều về sự
dữ và có thể sai lầm” (GLHTCG số 1706).
Vậy rõ ràng là con người
đã phạm tội và hậu quả khốc liệt của tội là đau khổ, chết chóc, hư vô. “Ngươi sẽ
phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất,
ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19).
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhở các tín hữu thế này: “Vì một người duy nhất, mà tội
lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan
tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5, 12).
Chính Đức Giê-su, Con Một
yêu dấu của Chúa Cha, đã vâng phục đảm nhận vai trò Đấng Cứu Thế thực hiện công
cuộc cứu chuộc nhân loại. Nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, Thiên Chúa đã
cứu chúng ta khỏi tội và sự chết, đồng thời cũng chuộc chúng ta lại trong ân
nghĩa với Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Thật vậy, mọi người đã phạm
tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do
ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô
Giê-su” (Rm 3, 24). Bên cạnh đó, GLHTCG cũng nhấn mạnh: “Nhờ cuộc khổ nạn, Đức
Ki-tô giải thoát chúng ta khỏi Xa-tan và tội lỗi; nhờ đó, chúng ta đáng được hưởng
đời sống mới trong Chúa Thánh Thần. Ân sủng của người phục hồi những gì tội lỗi
đã làm hư hỏng nơi chúng ta” (Số 1708).
Để thực hiện công cuộc cứu
chuộc nhân loại, Đức Kitô đã phải trả một giá rất đắt để chuộc những người
Kitô-hữu chúng ta, như thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Thiên Chúa đã trả giá đắt
mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”
(1Cr 6, 20; x. 7, 23). Nếu trong công cuộc sáng tạo, con người là sản phẩm ưu
việt của Thiên Chúa, thì trong công trình cứu chuộc, phẩm giá con người đã được
phục hồi một cách lạ lùng hơn gấp bội lần. Vì lí do đó, thánh Gioan Kim Khẩu đã
nói: “Thiên Chúa đã làm người để cho con người được làm Thiên Chúa”. Còn thánh
I-rê-nê thì đã thốt lên: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống”.
- Ơn làm Ki-tô hữu
Thành quả của ơn cứu chuộc
đã thể hiện cụ thể nơi mỗi người chúng ta khi ta lãnh nhận bí tích Thánh tẩy.
Nhờ ơn sủng của bí tích này mà chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người
mới, một Ki-tô hữu thực thụ. Từ đây, chúng ta được tái sinh làm con cái Thiên
Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô, được trở nên chi thể của Hội thánh Chúa, được gọi
là công dân của Nước Trời. Như thánh Gio-an đã khẳng định: “Không ai có thể vào
Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3, 5).
Bí tích Thánh tẩy là một
biến cố siêu nhiên nhờ đó Thiên Chúa ban cho ta các ơn sau (x. bài “Bí tích
Thánh tẩy”, nguồn simonhoadalat.com):
- Ơn tha tội, gồm tội
chung (nguyên tổ) và tội riêng (cá nhân) để chúng ta được trở nên trong sạch
trước khi được tháp nhập vào Thiên Chúa là Đấng thánh.
- Ơn làm con Thiên Chúa với
tên gọi là Kitô hữu, bởi lẽ chúng ta tự bản chất chỉ là loài thụ tạo chứ không
do Thiên Chúa sinh ra. Thiên Chúa chỉ có một người Con là Chúa Giêsu Kitô, nên
chúng ta chỉ có thể là con cái của Thiên Chúa nhờ việc trở nên giống Chúa Kitô
với tên gọi của Ngài.
- Ơn gia nhập Hội thánh,
nghĩa là trở thành chi thể trong thân thể nhiệm mầu của Chúa Kitô. Chính Hội
thánh sinh chúng ta ra làm con Thiên Chúa, nên chúng ta cũng là con cái Hội
Thánh.
- Ơn huynh kết với các
Kitô hữu, nghĩa là các Kitô hữu trở nên anh chị em với nhau vì cùng là con của
một Cha trên trời.
- Ơn thiêng liêng không
thể tẩy xóa, nghĩa là ghi một dấu ấn đã tái sinh làm con Thiên Chúa thì mãi mãi
là con Thiên Chúa, cho dù có phản bội Người thì cũng không phải chịu lại bí
tích Rửa Tội lần thứ hai.
Như vậy ơn huệ được gọi
và chọn làm Ki-tô hữu được coi là đỉnh điểm của mọi ơn huệ mà Thiên Chúa có thể
ban cho chúng ta. Đó được coi là nền tảng cho mọi ơn siêu nhiên, bởi vì: “Từ cuộc
sống bình đẳng với nhau con người được nâng lên để sống bình đẳng với Thiên
Chúa trong Đức Kitô: ‘Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh, nếu
ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị’ (Rm 6, 8). Trong giao ước mới
này mỗi người trở nên đồng hàng với Đức Kitô. Và còn hơn thế nữa, mỗi người trở
nên một với Đức Kitô, đồng hình đồng dạng với Ngài, mang chung một tính cách,
chung một sự sống, chung một tình yêu, để cùng tác tạo và tái tạo với Thiên
Chúa trong Đức Kitô, dưới sự tác động của Thánh Thần. Sự sống của người Kitô hữu
mang một chiều kích vô biên trong chính mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi Thiên
Chúa” (LM Thái Nguyên, bài và nguồn đd).
- Ơn quan phòng
Ơn quan phòng là những ơn
huệ tự nhiên, hữu hình cũng như vô hình, mà qua đức tin và kinh nghiệm thực tế,
ta có thể cảm nhận được. Đó là những ơn như cơm bánh hằng ngày, không khí, nguồn
nước, khí hậu, mùa màng, sự sống thể lý, sự sống tinh thần, sức khỏe, sự bình
an, tình yêu, tình bạn, gia đình, các liên đới xã hội vv... Hết thảy đều là ơn
Chúa ban. Như thánh Phao-lô đã nói: “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa”
(1Cr 15, 10). Còn thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su thì đã khẳng định: “Tất cả
đều là hồng ân”.
Chúa Giê-su cũng đã nhắc
nhở các môn đệ nhiều về ơn quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đã nhấn mạnh: “Hãy
xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha
anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ?...
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không
làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua
Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu
hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho
như thế, thì huống hồ là anh em...” (Mt 6, 26 - 30).
Mầu nhiệm Chúa quan phòng
soi sáng ta hiểu rằng Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc ta như người mẹ lo cho
con cái. Người quan tâm đến từng việc nhỏ của chúng ta. Chúa Giê-su đã nói:
“Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn
quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Lc 12, 7), và “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo
cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng
sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc...Phần anh em, đừng lo tìm cho
có gì để ăn, có gì để uống, và đừng băn khoăn. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại
trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ
đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12,
22-31).
* KI-TÔ HỮU
TẠ ƠN CHÚA NHƯ THẾ NÀO?
Việc tạ ơn của người
Ki-tô hữu không được hiểu như là một hành động trả ơn theo kiểu “Có qua có lại”,
vì Thiên Chúa không cần bất cứ thứ gì từ con người, trừ niềm tin, sự tín thác
và lòng yêu mến. Thực vậy, “Tạ ơn không phải là hoàn lại ân huệ đã nhận hay
dâng một điều gì đó để đền đáp, theo kiểu ‘Hòn đất ném đi hòn chì ném lại’. Ai
có thể đền bù lại cho Thiên Chúa? Và có thể lấy gì mà bù lại cơ chứ? Tạ ơn,
đúng hơn, là nhìn nhận ơn Chúa ban, và đón nhận ân sủng nhưng không của Ngài,
không dám mong tự chuộc mình hay trả giá thục hồi cho Ngài (Tv 49,8). Tạ ơn
không khác gì nhìn nhận mình là người chịu ơn, là kẻ tuỳ thuộc, để cho Thiên
Chúa là Thiên Chúa.” (LM Micae Trần Đình Quảng, bài “Tạ ơn Chúa”, nguồn
simonhoadalat.com).
Trước hết, đối với Ki-tô
hữu, việc tạ ơn là một hành vi tôn giáo thường xuyên, liên lỉ luôn kèm theo lời
cầu nguyện trong tâm tình vui sướng, hân hoan.
. Tạ ơn trong mọi
hoàn cảnh
Người Ki-tô hữu không chọn
thời điểm hay hoàn cảnh để tạ ơn, mà phải nuôi dưỡng và thực hành việc tạ ơn suốt
cả đời, ở mọi nơi mọi chỗ. Thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Anh em hãy vui mừng
luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy
làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5, 16-18).
Trong kinh nguyện của Ki-tô hữu luôn bao hàm tâm tình tạ ơn như thánh nữ
Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã nói: “Đối với tôi, cầu nguyện là sự hứng khởi của
tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa
cơn thử thách cũng như lúc hân hoan ” (Sách Tự Truyện).
Ngay cả khi gặp những điều
không vừa ý xảy đến, ta cũng phải vui vẻ đón nhận. Thực sự, cám ơn Chúa vì những
điều may lành như ý thì dễ, nhưng cám ơn về những điều rủi ro trái ý lại không
dễ chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho ta:
vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành khỏe mạnh cũng như rủi
ro tật bệnh...Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta,
như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã xác quyết: "Tất cả đều là hồng
ân". Thánh Phao-lô cũng nhắn nhủ các tín hữu: “Chúng ta biết rằng: Thiên
Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ
được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8, 28).
. Tạ ơn bằng đời sống
Ki-tô hữu chân chính
Hội thánh luôn thúc giục
chúng ta sống tâm tình tạ ơn và biến cuộc đời của mình thành lễ tế tạ ơn liên lỉ.
Thực vậy, “Ý thức ân huệ mình đã lãnh nhận và noi gương Thầy Giê-su, các Ki-tô
hữu đầu tiên đã biến cả cuộc sống mới của mình thành một lời tạ ơn” (x. Mục từ
“Tạ ơn”, sách đd). Thánh Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu: “Để tỏ lòng biết
ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh,
thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy
làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,
16-17).
Trong khi sống trong tâm
tình tạ ơn Chúa, chúng ta không bỏ qua bổn phận yêu thương và giúp đỡ anh em đồng
đạo và đồng loại mình. Nếu chúng ta tạ ơn Chúa vì lòng mến thì cũng phải thi ân
vì tình bác ái tha nhân. Thánh Phao-lô đã nhắc bảo các tín hữu Cô-lô-xê về đời
sống trong tình yêu và lời tạ ơn, như sau: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải
có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức
Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được
kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy anh em hãy hết dạ tri ân” (Cl 3,
14-15)./.
Aug. Trần Cao Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét