Wed, 19/10/2022 -Trầm
Thiên Thu
TRẬN CHIẾN LEPANTO SAU 450
NĂM
Trong suốt một thiên niên
kỷ, các Kitô hữu đã sống trong sự tấn công của Hồi giáo. Từ cuộc xâm chiếm của
người Ả Rập vào thế kỷ thứ 7, nơi cho đến nay vẫn là trung tâm của Kitô giáo
(Israel, Syria và Bắc Phi) cho đến cuộc bao vây Vienna cuối cùng của Ottoman
vào năm 1683, các cộng đồng Kitô giáo đã phải đối mặt với sự kiên quyết của các
vương quốc Hồi giáo theo luật Hồi giáo và tiến hành thánh chiến chống lại người
không theo Hồi giáo. Sự thật hiển nhiên và không thể phủ nhận này thiếu lương
tâm lịch sử của chúng ta, cũng như những đánh giá về thành tựu trí tuệ và nghệ
thuật của nền văn minh của chúng ta trong những điều kiện bất hạnh như vậy.
Mối đe dọa Hồi giáo không
phải lúc nào cũng giống nhau, nhưng nó thường xuyên xuất hiện trở lại. Các cuộc
Thập Tự Chinh, khi quan sát từ góc độ rộng hơn, chỉ đơn thuần là một dấu ngoặc
đơn ngắn gọn, một cuộc phản công cô lập sau một chiến thắng quan trọng của Hồi
giáo (ở Anatolia) và thể hiện các nguyên tắc mới của một chế độ giáo hoàng táo
bạo mà sau Cuộc Cải Cách Grêgôriô đã tự coi mình là người lãnh đạo thực sự của
Kitô giáo.
1. KHAI CHIẾN
Tiền đề này rất quan trọng
khi tiếp cận Trận Chiến Lepanto. Những gì đã xảy ra trong cuộc đối đầu đẫm máu
kéo dài nhiều giờ vào ngày 7-10-1571, tại vùng biển Ionian gần cảng Nafpaktos,
là một phần của cuộc chiến Cyprus. Cuộc xung đột này do các quốc vương Habsburg
lãnh đạo, là một phần của một giai đoạn dài hơn trong cuộc đối đầu giữa Đế Chế
Ottoman và Liên Minh Công Giáo. Giai đoạn này là hậu quả do sự suy sụp của
Constantinople năm 1453, khi theo sự chỉ đạo của các vua Mehmed và Bayezid II,
người Ottoman lần đầu tiên xây dựng một hạm đội khổng lồ, có thể thực hiện một
cuộc tấn công bất ngờ năm 1480 vào Otranto, miền Nam nước Ý, nơi phụ nữ và trẻ
em bị bắt làm nô lệ, và toàn bộ đàn ông bị tàn sát.
Năm 1499, hạm đội này lần
đầu tiên đánh bại các chiến thuyền ở Venice, báo hiệu sự trỗi dậy của quyền lực
Ottoman ở vùng biển Đông Địa Trung Hải. Trong khi đó, các lực lượng hải quân Hồi
giáo khác có căn cứ tại Bắc Phi – được khuyến khích và tăng cường bởi những người
Hồi giáo lưu vong rời Tây Ban Nha sau cuộc chiến Reconquista – đã cải tiến truyền
thống Hồi giáo về các cuộc đột kích tập trung ở Tây Địa Trung Hải. Robert Davis
ước tính từ 1530 đến 1800, hơn một triệu Kitô hữu Âu châu đã bị người Hồi giáo
bắt làm nô lệ ở bờ biển Barbary.
Nếu bây giờ chúng ta thu
hẹp sự tập trung vào các sự kiện gần Lepanto hơn, thì rõ ràng là năm 1570, người
Ottoman đã thành công trong việc thống nhất các lãnh thổ Hồi giáo ở Địa Trung Hải
– một mục tiêu có thể thấy trước ít nhất kể từ năm 1517, khi người Ottoman áp đảo
Mamluk Hồi giáo và chiếm giữ Ai Cập. Với mong muốn lãnh đạo toàn thế giới Hồi
giáo này, quốc vương đã phong cho Barbarossa làm đô đốc hạm đội năm 1534. Vào
những năm 1570, Tây Ban Nha hầu như mất tất cả các tiền đồn ở Barbary, nếu
không có việc phòng thủ hiệu quả Tây Địa Trung Hải khỏi các cuộc đột kích cướp
biển thì không thể.
Trong khi đó, ngay cả
Malta cũng bị hạm đội Ottoman vây hãm. Ở Đông Địa Trung Hải, Venice ngày càng
chịu nhiều áp lực. Quan trọng hơn, hạm đội chính của quốc vương không phải chịu
thất bại trong một thời gian rất dài, và điều này tạo cảm giác chung về sự diệt
vong và u ám giữa các thuyền trưởng và binh sĩ Kitô giáo. Chắc chắn, một phần
lý do cho sự thành công của Ottoman là cuộc nổi dậy của người theo đạo Tin
Lành, đã đánh lạc hướng nguồn lực và năng lượng của Habsburg khỏi mặt trận Địa
Trung Hải, và sự đào tẩu từ lâu của một quốc gia Công giáo lớn là Pháp, từ những
năm 1520 đã có quan hệ hữu nghị với Istanbul và thậm chí khuyến khích người Hồi
giáo tấn công các lãnh địa của Habsburg ở Đông Âu và Trung Âu.
2. ĐGH PIÔ V VÀ LIÊN MINH
Nhưng ở Rôma, chắc chắn
ĐGH Piô V không nằm trong số những người dễ nản lòng. Ngài già nua, yếu ớt
nhưng cương quyết này sẽ hợp lực với một người khác, trẻ tuổi và bảnh bao là hiệp
sĩ John của Áo, con trai ngoài giá thú của vua Charles V và là anh trai cùng
cha khác mẹ với vua Philip II của Tây Ban Nha. Nhờ sự kiên nhẫn, chăm chỉ của Đức
Piô V, một Liên Minh Thánh được thành lập, tập hợp hầu hết tất cả các Kitô hữu.
Vào những ngày đầu của tháng 9-1571, một hạm đội bao gồm quân đội Tây Ban Nha
và Genova, tàu của giáo hoàng và hiệp sĩ của Malta, đoàn tàu Venice và quân tiếp
viện Tuscan, đã gặp nhau tại cảng Messina, Sicily. Những cuộc trò chuyện không
hồi kết và những bất đồng gay gắt xảy ra sau đó. Sự thúc giục liên tục của giáo
hoàng, người không thể hiểu được lý do chính đáng tại sao hạm đội sẽ không tiến
về phía kẻ thù, và sự thiếu kiên nhẫn của John, người đã bỏ qua những lời đề
nghị thận trọng của các sĩ quan Tây Ban Nha, cuối cùng đã thuyết phục các thuyền
trưởng lên đường tới biển Ionian, tìm kiếm hải quân Ottoman.
Một lần nữa sự quyết đoán
của John lại có ý nghĩa quan trọng trong buổi tối ngày 6 tháng 10, khi ông ra lệnh
tiến vào bờ biển các đảo Echinades và tiếp cận Vịnh Patras, bất chấp một cơn gió
bất lợi. Sáng ngày 7 tháng 10, hạm đội Ottoman được nhìn thấy, và John bố trí
các chiến thuyền của mình trong một trận tuyến được sắp xếp cẩn thận, với các
tàu chiến của người Venice ở phía trước cánh trái, trong khi các tàu thuyền
Genova của gia đình Doria ở bên phải. Bộ binh Tây Ban Nha, một trong những binh
chủng giỏi nhất thế giới, ở lại các chiến thuyền lớn hơn, biết rằng trong cuộc
đối đầu toàn diện giữa các hạm đội, thời khắc của họ đã đến.
Trong một giờ trước khi
có những phát súng đầu tiên, trên các con tàu của Kitô giáo, hàng ngàn binh sĩ
và thủy thủ đã lãnh nhận các bí tích và quỳ gối xuống, trong khi các linh mục
Dòng Capuchin và Dòng Tên thay phiên nhau giải tội và dẫn dắt các nhóm cầu nguyện.
Sau đó, các linh mục ban ơn tha tội cuối cùng, trong khi biểu ngữ khổng lồ của
Liên Minh Thánh với hình ảnh của Chúa Kitô chịu đóng đinh được kéo lên trên tàu
đô đốc. Gió thay đổi, mặt trời chiếu qua mặt nước mau chóng chuyển sang màu đỏ
như máu. Dưới bầu trời không có mây và biểu ngữ màu tím của họ với tên Allah được
dệt bằng chữ vàng, người Ottoman tiến lên. Họ được chỉ huy bởi đô đốc Ali Pasha
và Uluç Ali, con trai của một nông dân miền Nam nước Ý, bị hải tặc Berber bắt
làm nô lệ, sau đó chuyển sang đạo Hồi.
3. TRẬN CHIẾN BẮT
ĐẦU
Trận chiến bắt đầu với một
bước đi đầy hứa hẹn cho người Ottoman, những người lần đầu tiên cố gắng đi vòng
quanh Liên Minh ở bên trái của họ. Khi Doria kéo căng hàng rào của mình để ngăn
chặn điều này, ông thấy mình đã đi xa về phía bên phải, một khoảng trống đã mở
ra giữa người Genova với các tàu của Tây Ban Nha và của giáo hoàng. Thật vậy,
vào thời điểm đó, người Thổ Nhĩ Kỳ đã cố ép Doria ra khơi, tránh xa cuộc giao
tranh. Tuy nhiên, ở cánh trái của phòng tuyến Kitô giáo, quân Venice do
Francesco Duodo chỉ huy, có pháo binh tối tân được trang bị trên 6 tàu lớn. Người
Ottoman ban đầu có thể nhầm lẫn những tàu chiến lớn này với các tàu lưu trữ đi
cùng hạm đội Kitô giáo. Thay vào đó, như được thể hiện trong bản thảo tại Kho
Lưu Trữ Simancas, John đã nghe đề xuất của các đồng minh Venice và triển khai
những tàu mới này, lớn hơn và được trang bị vũ khí nặng nề ngay trước phần còn
lại của quân Kitô giáo ở cánh trái.
Khi Duodo ra lệnh nổ
súng, không chỉ các sĩ quan từ giới quý tộc Venice và thủy thủ của Venice, mà
còn cả Antonio Surian Armeno, một nhân vật hấp dẫn, nửa khoa học gia và nửa thợ
thủ công, với Zaccaria Schiavina là người đứng đầu Người bắn phá Venice. Armeno
và Schiavina có lẽ đã tận dụng thời gian của họ ở Messina rất tốt, hoàn thiện
việc đào tạo nhiều người hơn về cách sử dụng các loại pháo trên những con tàu mới.
Ngay cả sau khi trận oanh
tạc nặng nề của Venice đã phá hủy hoàn toàn hàng chục chiến thuyền của Thổ Nhĩ
Kỳ, người Ottoman vẫn có thể tiếp cận các tàu của Venice và bắt đầu giao tranh
tay đôi. Tại đây, thủy thủ đoàn người Ý dễ dàng bị đánh bại bởi quân Hồi giáo,
nếu không có sự can thiệp của những người nô lệ Kitô giáo được giải thoát khỏi
một số căn hầm của Thổ Nhĩ Kỳ và được người Venice vũ trang kịp thời. Cánh phải
của hạm đội Ottoman đã được hoàn tác.
Trong khi đó, ở giữa trận
chiến, hai chiến hạm đã chạm trán, và các thủy thủ đoàn đã tham gia vào một trận
chiến đẫm máu, tranh giành các bến cảng. Bộ binh Tây Ban Nha do John chỉ huy gần
như bị áp đảo bởi quân Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng vào thời điểm quan trọng không bên nào
có thể nhận được quân tiếp viện từ đầu phía nam của trận chiến (đầu bên phải của
chiến tuyến Kitô giáo), trong khi John nhận được sự giúp đỡ quyết định của
Marcantonio Colonna, quý tộc La Mã phụ trách cờ hiệu của giáo hoàng, được bao
phủ bởi sự thành công của người Venice ở bên trái. Trong giai đoạn cuối của trận
chiến, đô đốc Ottoman vĩ đại Ali đã bị giết, và lá cờ của ông đã bị tước đoạt.
Các cuộc giao tranh vẫn tiếp tục, nhưng hầu hết các chiến thuyền khác của
Ottoman đều rút lui, trong khi những người Kitô giáo chỉ theo đuổi nửa vời do
thời tiết thay đổi theo chiều hướng xấu.
4. KINH MÂN
CÔI VÀ CHAY TỊNH
Nghe
có vẻ kỳ lạ đối với đôi tai hiện đại, nhưng một trong những yếu tố quyết định đạt
kết quả của trận chiến là sự lãnh đạo tinh thần của Đức Piô V ở Rôma. Theo
Ludwig von Pastor, trong những ngày trước và sau chiến thắng lịch sử của Kitô
giáo, Đức Piô V đã hướng dẫn dân Rôma trong việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí.
Ngày 27 tháng 8, Đức Piô V đã yêu cầu tất cả các Hồng Y của mình kiêng ăn ít nhất
một ngày mỗi tuần và chia cho người nghèo từ phần tài sản của họ. Một tháng
sau, vào ngày 27 tháng 9, đại sứ Tây Ban Nha tại Rôma chứng kiến rằng giáo
hoàng ăn chay ba ngày một tuần, ngay cả khi sức khỏe yếu ớt, ngài vẫn cầu nguyện
không ngừng.
Một hình thức cầu nguyện
mà Đức Piô V đặc biệt khuyến khích là Kinh Mân Côi, vì ngài tin tưởng chắc chắn
vào các ân sủng đến với chúng ta từ Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria. Khi thức
dậy vào nửa đêm ngày 21 tháng 10 và lần đầu tiên nghe tin về trận chiến, Đức
Piô V đã thốt lên lời của ông già Simêôn: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài
đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.” (Lc 2:29) Trong những ngày tiếp
theo, ngài cử hành các thánh lễ trọng thể và mời gọi đoàn chiên của mình bố thí
để tổ chức nhiều thánh lễ hơn, vì lợi ích của những người đã qua đời, thay vì
lãng phí tiền bạc vào các buổi lễ và tiệc tùng thế tục. Sau đó, nhận ra rằng
chiến thắng đã diễn ra vào cùng một tuần khi các hội đồng của Hội Mân Côi truyền
thống đi rước khắp thành phố, Đức Piô V đã thiết lập lễ “Đức Mẹ Chiến thắng” –
sau đó được người kế vị là ĐGH Grêgôriô XIII đổi thành “Lễ Đức Mẹ Mân Côi.”
5. ĐỨC MẸ CHIẾN
THẮNG
Thành công quân sự tại
Lepanto mang tính chất phòng thủ. Liên minh đã ngăn chặn sự mở rộng hơn nữa quyền
lực của Ottoman trên khắp Địa Trung Hải, nhưng nó không thể tận dụng chiến thắng
để đặt câu hỏi về việc giành được lãnh thổ của người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc thậm chí
chỉ đơn giản là để hạn chế sức mạnh và phạm vi tiếp cận của Hồi giáo. Chỉ mất
ba năm để nhà vua xây dựng lại một hạm đội có cùng kích thước với hạm đội mà
ông đã mất ở ngoài khơi biển Hy Lạp vào tháng 10-1571. Cuối năm 1696, ĐHY
Corsi, người đại diện giáo hoàng, đã bị bao vây ở Rimini bởi “một đám đông phụ
nữ nghèo, có chồng là nô lệ” do người Thổ Nhĩ Kỳ bắt. Do đó, trận Lepanto không
phải là bước ngoặt trong lịch sử quân sự của Địa Trung Hải. Nó không làm gián
đoạn thiên niên kỷ của cuộc tấn công Hồi giáo chống lại Kitô giáo mà tôi đã
phác thảo ở phần mở đầu của bài này. Tuy nhiên, trận Lepanto đã đánh dấu một sự
thay đổi tâm lý quan trọng, vì nó chứng minh rằng sức mạnh Hồi giáo trên biển
có thể bị thách thức và hạm đội chính của quốc vương Ottoman không phải là bất
khả chiến bại.
Hơn nữa, Lepanto xác nhận
rằng Giáo hội nổi lên từ cuộc Phản Cải Cách đã hồi sinh vai trò lãnh đạo tinh
thần của mình đối với các dân tộc Kitô giáo. Điều này không chỉ đúng khi người
ta nhìn vào tấm gương cảm động và hành động không mệt mỏi của một vị giáo hoàng
thánh thiện như Đức Piô V, mà còn đúng khi xem xét sự giúp đỡ của Nữ Vương
Thiên Đàng, người có vai trò trong lịch sử cứu độ và trong nền kinh tế tâm linh
của thế giới mà gần đây đã bị phủ nhận bởi những người cải cách theo đạo Tin
Lành.
MATTEO SALONIA
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
Tháng 10-2022
Trong suốt một thiên niên
kỷ, các Kitô hữu đã sống trong sự tấn công của Hồi giáo. Từ cuộc xâm chiếm của
người Ả Rập vào thế kỷ thứ 7, nơi cho đến nay vẫn là trung tâm của Kitô giáo
(Israel, Syria và Bắc Phi) cho đến cuộc bao vây Vienna cuối cùng của Ottoman
vào năm 1683, các cộng đồng Kitô giáo đã phải đối mặt với sự kiên quyết của các
vương quốc Hồi giáo theo luật Hồi giáo và tiến hành thánh chiến chống lại người
không theo Hồi giáo. Sự thật hiển nhiên và không thể phủ nhận này thiếu lương
tâm lịch sử của chúng ta, cũng như những đánh giá về thành tựu trí tuệ và nghệ
thuật của nền văn minh của chúng ta trong những điều kiện bất hạnh như vậy.
Mối đe dọa Hồi giáo không
phải lúc nào cũng giống nhau, nhưng nó thường xuyên xuất hiện trở lại. Các cuộc
Thập Tự Chinh, khi quan sát từ góc độ rộng hơn, chỉ đơn thuần là một dấu ngoặc
đơn ngắn gọn, một cuộc phản công cô lập sau một chiến thắng quan trọng của Hồi
giáo (ở Anatolia) và thể hiện các nguyên tắc mới của một chế độ giáo hoàng táo
bạo mà sau Cuộc Cải Cách Grêgôriô đã tự coi mình là người lãnh đạo thực sự của
Kitô giáo.
1. KHAI CHIẾN
Tiền đề này rất quan trọng
khi tiếp cận Trận Chiến Lepanto. Những gì đã xảy ra trong cuộc đối đầu đẫm máu
kéo dài nhiều giờ vào ngày 7-10-1571, tại vùng biển Ionian gần cảng Nafpaktos,
là một phần của cuộc chiến Cyprus. Cuộc xung đột này do các quốc vương Habsburg
lãnh đạo, là một phần của một giai đoạn dài hơn trong cuộc đối đầu giữa Đế Chế
Ottoman và Liên Minh Công Giáo. Giai đoạn này là hậu quả do sự suy sụp của
Constantinople năm 1453, khi theo sự chỉ đạo của các vua Mehmed và Bayezid II,
người Ottoman lần đầu tiên xây dựng một hạm đội khổng lồ, có thể thực hiện một
cuộc tấn công bất ngờ năm 1480 vào Otranto, miền Nam nước Ý, nơi phụ nữ và trẻ
em bị bắt làm nô lệ, và toàn bộ đàn ông bị tàn sát.
Năm 1499, hạm đội này lần
đầu tiên đánh bại các chiến thuyền ở Venice, báo hiệu sự trỗi dậy của quyền lực
Ottoman ở vùng biển Đông Địa Trung Hải. Trong khi đó, các lực lượng hải quân Hồi
giáo khác có căn cứ tại Bắc Phi – được khuyến khích và tăng cường bởi những người
Hồi giáo lưu vong rời Tây Ban Nha sau cuộc chiến Reconquista – đã cải tiến truyền
thống Hồi giáo về các cuộc đột kích tập trung ở Tây Địa Trung Hải. Robert Davis
ước tính từ 1530 đến 1800, hơn một triệu Kitô hữu Âu châu đã bị người Hồi giáo
bắt làm nô lệ ở bờ biển Barbary.
Nếu bây giờ chúng ta thu
hẹp sự tập trung vào các sự kiện gần Lepanto hơn, thì rõ ràng là năm 1570, người
Ottoman đã thành công trong việc thống nhất các lãnh thổ Hồi giáo ở Địa Trung Hải
– một mục tiêu có thể thấy trước ít nhất kể từ năm 1517, khi người Ottoman áp đảo
Mamluk Hồi giáo và chiếm giữ Ai Cập. Với mong muốn lãnh đạo toàn thế giới Hồi
giáo này, quốc vương đã phong cho Barbarossa làm đô đốc hạm đội năm 1534. Vào
những năm 1570, Tây Ban Nha hầu như mất tất cả các tiền đồn ở Barbary, nếu
không có việc phòng thủ hiệu quả Tây Địa Trung Hải khỏi các cuộc đột kích cướp
biển thì không thể.
Trong khi đó, ngay cả
Malta cũng bị hạm đội Ottoman vây hãm. Ở Đông Địa Trung Hải, Venice ngày càng
chịu nhiều áp lực. Quan trọng hơn, hạm đội chính của quốc vương không phải chịu
thất bại trong một thời gian rất dài, và điều này tạo cảm giác chung về sự diệt
vong và u ám giữa các thuyền trưởng và binh sĩ Kitô giáo. Chắc chắn, một phần
lý do cho sự thành công của Ottoman là cuộc nổi dậy của người theo đạo Tin
Lành, đã đánh lạc hướng nguồn lực và năng lượng của Habsburg khỏi mặt trận Địa
Trung Hải, và sự đào tẩu từ lâu của một quốc gia Công giáo lớn là Pháp, từ những
năm 1520 đã có quan hệ hữu nghị với Istanbul và thậm chí khuyến khích người Hồi
giáo tấn công các lãnh địa của Habsburg ở Đông Âu và Trung Âu.
2. ĐGH PIÔ V VÀ LIÊN MINH
Nhưng ở Rôma, chắc chắn
ĐGH Piô V không nằm trong số những người dễ nản lòng. Ngài già nua, yếu ớt
nhưng cương quyết này sẽ hợp lực với một người khác, trẻ tuổi và bảnh bao là hiệp
sĩ John của Áo, con trai ngoài giá thú của vua Charles V và là anh trai cùng
cha khác mẹ với vua Philip II của Tây Ban Nha. Nhờ sự kiên nhẫn, chăm chỉ của Đức
Piô V, một Liên Minh Thánh được thành lập, tập hợp hầu hết tất cả các Kitô hữu.
Vào những ngày đầu của tháng 9-1571, một hạm đội bao gồm quân đội Tây Ban Nha
và Genova, tàu của giáo hoàng và hiệp sĩ của Malta, đoàn tàu Venice và quân tiếp
viện Tuscan, đã gặp nhau tại cảng Messina, Sicily. Những cuộc trò chuyện không
hồi kết và những bất đồng gay gắt xảy ra sau đó. Sự thúc giục liên tục của giáo
hoàng, người không thể hiểu được lý do chính đáng tại sao hạm đội sẽ không tiến
về phía kẻ thù, và sự thiếu kiên nhẫn của John, người đã bỏ qua những lời đề
nghị thận trọng của các sĩ quan Tây Ban Nha, cuối cùng đã thuyết phục các thuyền
trưởng lên đường tới biển Ionian, tìm kiếm hải quân Ottoman.
Một lần nữa sự quyết đoán
của John lại có ý nghĩa quan trọng trong buổi tối ngày 6 tháng 10, khi ông ra lệnh
tiến vào bờ biển các đảo Echinades và tiếp cận Vịnh Patras, bất chấp một cơn gió
bất lợi. Sáng ngày 7 tháng 10, hạm đội Ottoman được nhìn thấy, và John bố trí
các chiến thuyền của mình trong một trận tuyến được sắp xếp cẩn thận, với các
tàu chiến của người Venice ở phía trước cánh trái, trong khi các tàu thuyền
Genova của gia đình Doria ở bên phải. Bộ binh Tây Ban Nha, một trong những binh
chủng giỏi nhất thế giới, ở lại các chiến thuyền lớn hơn, biết rằng trong cuộc
đối đầu toàn diện giữa các hạm đội, thời khắc của họ đã đến.
Trong một giờ trước khi
có những phát súng đầu tiên, trên các con tàu của Kitô giáo, hàng ngàn binh sĩ
và thủy thủ đã lãnh nhận các bí tích và quỳ gối xuống, trong khi các linh mục
Dòng Capuchin và Dòng Tên thay phiên nhau giải tội và dẫn dắt các nhóm cầu nguyện.
Sau đó, các linh mục ban ơn tha tội cuối cùng, trong khi biểu ngữ khổng lồ của
Liên Minh Thánh với hình ảnh của Chúa Kitô chịu đóng đinh được kéo lên trên tàu
đô đốc. Gió thay đổi, mặt trời chiếu qua mặt nước mau chóng chuyển sang màu đỏ
như máu. Dưới bầu trời không có mây và biểu ngữ màu tím của họ với tên Allah được
dệt bằng chữ vàng, người Ottoman tiến lên. Họ được chỉ huy bởi đô đốc Ali Pasha
và Uluç Ali, con trai của một nông dân miền Nam nước Ý, bị hải tặc Berber bắt
làm nô lệ, sau đó chuyển sang đạo Hồi.
3. TRẬN CHIẾN BẮT
ĐẦU
Trận chiến bắt đầu với một
bước đi đầy hứa hẹn cho người Ottoman, những người lần đầu tiên cố gắng đi vòng
quanh Liên Minh ở bên trái của họ. Khi Doria kéo căng hàng rào của mình để ngăn
chặn điều này, ông thấy mình đã đi xa về phía bên phải, một khoảng trống đã mở
ra giữa người Genova với các tàu của Tây Ban Nha và của giáo hoàng. Thật vậy,
vào thời điểm đó, người Thổ Nhĩ Kỳ đã cố ép Doria ra khơi, tránh xa cuộc giao
tranh. Tuy nhiên, ở cánh trái của phòng tuyến Kitô giáo, quân Venice do
Francesco Duodo chỉ huy, có pháo binh tối tân được trang bị trên 6 tàu lớn. Người
Ottoman ban đầu có thể nhầm lẫn những tàu chiến lớn này với các tàu lưu trữ đi
cùng hạm đội Kitô giáo. Thay vào đó, như được thể hiện trong bản thảo tại Kho
Lưu Trữ Simancas, John đã nghe đề xuất của các đồng minh Venice và triển khai
những tàu mới này, lớn hơn và được trang bị vũ khí nặng nề ngay trước phần còn
lại của quân Kitô giáo ở cánh trái.
Khi Duodo ra lệnh nổ
súng, không chỉ các sĩ quan từ giới quý tộc Venice và thủy thủ của Venice, mà
còn cả Antonio Surian Armeno, một nhân vật hấp dẫn, nửa khoa học gia và nửa thợ
thủ công, với Zaccaria Schiavina là người đứng đầu Người bắn phá Venice. Armeno
và Schiavina có lẽ đã tận dụng thời gian của họ ở Messina rất tốt, hoàn thiện
việc đào tạo nhiều người hơn về cách sử dụng các loại pháo trên những con tàu mới.
Ngay cả sau khi trận oanh
tạc nặng nề của Venice đã phá hủy hoàn toàn hàng chục chiến thuyền của Thổ Nhĩ
Kỳ, người Ottoman vẫn có thể tiếp cận các tàu của Venice và bắt đầu giao tranh
tay đôi. Tại đây, thủy thủ đoàn người Ý dễ dàng bị đánh bại bởi quân Hồi giáo,
nếu không có sự can thiệp của những người nô lệ Kitô giáo được giải thoát khỏi
một số căn hầm của Thổ Nhĩ Kỳ và được người Venice vũ trang kịp thời. Cánh phải
của hạm đội Ottoman đã được hoàn tác.
Trong khi đó, ở giữa trận
chiến, hai chiến hạm đã chạm trán, và các thủy thủ đoàn đã tham gia vào một trận
chiến đẫm máu, tranh giành các bến cảng. Bộ binh Tây Ban Nha do John chỉ huy gần
như bị áp đảo bởi quân Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng vào thời điểm quan trọng không bên nào
có thể nhận được quân tiếp viện từ đầu phía nam của trận chiến (đầu bên phải của
chiến tuyến Kitô giáo), trong khi John nhận được sự giúp đỡ quyết định của
Marcantonio Colonna, quý tộc La Mã phụ trách cờ hiệu của giáo hoàng, được bao
phủ bởi sự thành công của người Venice ở bên trái. Trong giai đoạn cuối của trận
chiến, đô đốc Ottoman vĩ đại Ali đã bị giết, và lá cờ của ông đã bị tước đoạt.
Các cuộc giao tranh vẫn tiếp tục, nhưng hầu hết các chiến thuyền khác của
Ottoman đều rút lui, trong khi những người Kitô giáo chỉ theo đuổi nửa vời do
thời tiết thay đổi theo chiều hướng xấu.
4. KINH MÂN
CÔI VÀ CHAY TỊNH
Nghe
có vẻ kỳ lạ đối với đôi tai hiện đại, nhưng một trong những yếu tố quyết định đạt
kết quả của trận chiến là sự lãnh đạo tinh thần của Đức Piô V ở Rôma. Theo
Ludwig von Pastor, trong những ngày trước và sau chiến thắng lịch sử của Kitô
giáo, Đức Piô V đã hướng dẫn dân Rôma trong việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí.
Ngày 27 tháng 8, Đức Piô V đã yêu cầu tất cả các Hồng Y của mình kiêng ăn ít nhất
một ngày mỗi tuần và chia cho người nghèo từ phần tài sản của họ. Một tháng
sau, vào ngày 27 tháng 9, đại sứ Tây Ban Nha tại Rôma chứng kiến rằng giáo
hoàng ăn chay ba ngày một tuần, ngay cả khi sức khỏe yếu ớt, ngài vẫn cầu nguyện
không ngừng.
Một hình thức cầu nguyện
mà Đức Piô V đặc biệt khuyến khích là Kinh Mân Côi, vì ngài tin tưởng chắc chắn
vào các ân sủng đến với chúng ta từ Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria. Khi thức
dậy vào nửa đêm ngày 21 tháng 10 và lần đầu tiên nghe tin về trận chiến, Đức
Piô V đã thốt lên lời của ông già Simêôn: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài
đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.” (Lc 2:29) Trong những ngày tiếp
theo, ngài cử hành các thánh lễ trọng thể và mời gọi đoàn chiên của mình bố thí
để tổ chức nhiều thánh lễ hơn, vì lợi ích của những người đã qua đời, thay vì
lãng phí tiền bạc vào các buổi lễ và tiệc tùng thế tục. Sau đó, nhận ra rằng
chiến thắng đã diễn ra vào cùng một tuần khi các hội đồng của Hội Mân Côi truyền
thống đi rước khắp thành phố, Đức Piô V đã thiết lập lễ “Đức Mẹ Chiến thắng” –
sau đó được người kế vị là ĐGH Grêgôriô XIII đổi thành “Lễ Đức Mẹ Mân Côi.”
5. ĐỨC MẸ CHIẾN
THẮNG
Thành công quân sự tại
Lepanto mang tính chất phòng thủ. Liên minh đã ngăn chặn sự mở rộng hơn nữa quyền
lực của Ottoman trên khắp Địa Trung Hải, nhưng nó không thể tận dụng chiến thắng
để đặt câu hỏi về việc giành được lãnh thổ của người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc thậm chí
chỉ đơn giản là để hạn chế sức mạnh và phạm vi tiếp cận của Hồi giáo. Chỉ mất
ba năm để nhà vua xây dựng lại một hạm đội có cùng kích thước với hạm đội mà
ông đã mất ở ngoài khơi biển Hy Lạp vào tháng 10-1571. Cuối năm 1696, ĐHY
Corsi, người đại diện giáo hoàng, đã bị bao vây ở Rimini bởi “một đám đông phụ
nữ nghèo, có chồng là nô lệ” do người Thổ Nhĩ Kỳ bắt. Do đó, trận Lepanto không
phải là bước ngoặt trong lịch sử quân sự của Địa Trung Hải. Nó không làm gián
đoạn thiên niên kỷ của cuộc tấn công Hồi giáo chống lại Kitô giáo mà tôi đã
phác thảo ở phần mở đầu của bài này. Tuy nhiên, trận Lepanto đã đánh dấu một sự
thay đổi tâm lý quan trọng, vì nó chứng minh rằng sức mạnh Hồi giáo trên biển
có thể bị thách thức và hạm đội chính của quốc vương Ottoman không phải là bất
khả chiến bại.
Hơn nữa, Lepanto xác nhận
rằng Giáo hội nổi lên từ cuộc Phản Cải Cách đã hồi sinh vai trò lãnh đạo tinh
thần của mình đối với các dân tộc Kitô giáo. Điều này không chỉ đúng khi người
ta nhìn vào tấm gương cảm động và hành động không mệt mỏi của một vị giáo hoàng
thánh thiện như Đức Piô V, mà còn đúng khi xem xét sự giúp đỡ của Nữ Vương
Thiên Đàng, người có vai trò trong lịch sử cứu độ và trong nền kinh tế tâm linh
của thế giới mà gần đây đã bị phủ nhận bởi những người cải cách theo đạo Tin
Lành.
MATTEO SALONIA
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)
Tháng 10-2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét