Thứ Tư, 28 Tháng Chín,
2022
Cầu nguyện hay cầu xin?
Một thực tế trong đời Kitô hữu, đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy rẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Cầu xin là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh, dẫu cho theo cái nhìn tu đức truyền thống thì việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.
Lần kia một môn đệ nói với
Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy
các môn đệ của ông”. Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu nguyện, anh em
hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển…; xin tha tội cho chúng
con…” (x.Lc 11,1-4). Tin Mừng Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu
nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những lời cầu xin (x. Mt 6,9-13). Qua những lời
cầu xin, chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng
vừa rất “dễ thương” như sau:
1.
Tâm tình tin tưởng, cậy
trông vào tình yêu và quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin: Đã cất lời cầu xin
với ai thì dĩ nhiên ít nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào người ấy. Xin
với ai điều gì thì giả thiết đã tin tưởng người ấy có khả năng thực hiện điều
chúng ta xin. Dưới một góc độ nào đó, lời cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức
tin.
2.
Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu điều cầu xin
là ơn tha thứ thì người cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung của
người mình xin, mà còn bày tỏ sự ăn năn thống hối về lỗi lầm mình đã phạm. Theo
cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là lời xưng thú tội lỗi.
3.
Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn chế, bất
toàn và cả bất lực của mình: “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ…” (x. Lc 11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời
cầu xin trên đây quả là một lời thú nhận sự bất toàn, bất lực của người xin.
Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp. Nếu Chúa không
nâng đỡ thì chúng ta không thể đứng vững trước mãnh lực của thần dữ, như “sư tử
luôn rảo quanh chúng ta để rình chờ cắn xé, phân thây” (x.1P 5,8).
4.
Tâm tình thảo hiếu: “Nguyện cho danh Cha cả
sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (x. Mt
6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời của Cha
là một người con sống đạo thảo hiếu đúng phận.
5.
Sự liên đới, tương thân tương ái trong nghĩa
tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra sự thật này qua hai từ “chúng con” của lời kinh
“Lạy Cha”. Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn nhận Thiên Chúa là Cha thì một cách
nào đó đã nhìn nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự tương thân tương ái được
biểu hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên đới.
Câu chuyện Abraham cò kè
bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra
là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người
sống có tình với mẹ cha thì hẳn có lòng với anh chị em. Ngược lại, khi đã biết
sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Các đấng bậc sinh thành
vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất
mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha
ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình hiếu đễ”.
Mối tình của Abraham dành
cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra, một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã
dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ
tha cho họ, nhưng Abraham đã không vượt qua con số “mười”. Điều này cho thấy rằng,
mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn
chế cách nào đó. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người,
ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả
như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần xuống chỉ còn một người công
chính. Quả vậy, “cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên
Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người
cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
Tuy nhiên, có thể nói rằng,
cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người
đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi con người cất lời khẩn xin (x.Mt
6,8). Đã là người Cha trên các người cha và là nguồn gốc của mọi tình phụ tử,
Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Như thế cần phải khẳng định
rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp nhận biết những gì cần, và để sẵn
sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi.
“Xin cho danh Cha cả
sáng”. Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người, mà
xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi
cuộc đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng con”. Chúng ta chưa xin
thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch.
Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một
trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại
tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).
Cầu nguyện là nâng tâm hồn
lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến
Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải
là để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình
thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những
gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng
được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.
Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa, GP Ban Mê Thuột
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét