Thứ Sáu, 5 tháng 2, 2016

Ơn Gọi





Ơn  Gọi
(Chúa  Nhật  V  TN,  năm  C)
(Sat, 30/01/2016 - Trầm Thiên Thu)

Thánh nữ Teresa Hài Đồng Giêsu (Thérèse de Lisieux) xác định: “Ơn gọi của tôi là yêu thương”. Có TIN mới YÊU. Đó là hệ lụy tất yếu. Và suốt cuộc đời, Chị Thánh Teresa đã sống trọn vẹn ơn gọi đến từng chi tiết, hoàn tất bằng những động thái nhỏ nhất, như những đường kim mũi chỉ nhỏ mà có chiếc áo đẹp.

Ơn gọi yêu thương là ơn gọi thứ nhất của mọi Kitô hữu, những người tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế – sau đó mới có các ơn gọi khác, người ơn này, người ơn nọ. Vâng, chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh “yêu thương nhau”, và Ngài gọi đó là điều răn mới (x. Ga 13:34-35; Ga 15:12; Ga 15:17). Tác giả Thánh Vịnh đã vui mừng ca tụng: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133:1). Đó là cách sống hòa thuận, sống quan tâm lẫn nhau, tức là yêu thương nhau.

Mỗi người đều có ít nhất một tặng phẩm thúc đẩy, không ai không có. Kinh Thánh cho biết rạch ròi:

[1] “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr 4:10).

[2] “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8).

Đó là bảy loại tặng phẩm thúc đẩy. Mỗi chúng ta đều nhận được một hoặc vài tặng phẩm. Có tặng phẩm không phải để khoe mẽ, vênh vang, tự đắc, mà để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Thiên Chúa đã tiền định từ đời đời: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” (Tv 139:13-16).

Ngôn sứ Isaia đã cho biết: Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay. Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6:1-2).

Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh, được Ngài kêu gọi là đại phúc cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều hoàn toàn bất xứng đối với Ngài. Ngôn sứ Isaia cho biết thêm về sức mạnh kỳ lạ của lời chúc tụng: “Tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển; khắp Đền Thờ khói toả mịt mù. Bấy giờ tôi thốt lên: Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (Is 6:4-5). Đối diện với Thiên Chúa, phàm nhân phải run rợ vì thấy mình quá xấu xa. Con mắt trần gian không thể chịu nổi ánh sáng của Thiên Chúa. Mô-sê đã phải che mặt trước ánh sáng của Thiên Chúa, Phaolô đã hóa mù khi ánh sáng của Thiên Chúa chiếu vào ông.

Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài biết chúng ta như thế nào nên Ngài không hề chấp lách, và Ngài sẵn sàng cứu chữa chúng ta. Ngôn sứ Isaia dẫn chứng cụ thể: “Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta? Tôi thưa: Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6:6-8).

Thiên Chúa kêu gọi, ngôn sứ Isaia đã mau mắn đáp lại. Đó là một cách vâng lời, không so đo, không toan tính. Thiên Chúa cũng đã và đang kêu gọi chúng ta làm chứng nhân cho Ngài ở thế gian này, nhất là trong những lúc khó khăn nhất. Ước gì chúng ta cũng sẵn sàng đáp lại Ngài với niềm vui thực sự. Mỗi người được Ngài gọi cách khác nhau, nhưng chung quy chỉ là để vinh danh Thiên Chúa và để Nước Cha trị đến – như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha.

Vói mục đích tốt đẹp đó, tác giả Thánh Vịnh đã tâm nguyện và tán tụng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:1-5).

Sống đức tin khi thanh thản và bình an thì dễ dàng, không đáng quan ngại, nhưng sống đức tin khi gặp hoạn nạn mới đáng quan ngại. Các thánh là những anh hùng đức tin vì đã sống trọn đức tin trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, và đã sống đức tin đó tới hơi thở cuối cùng. Sống đức tin là điều không dễ, sống đức tin trong nhịch cảnh lại càng khó gấp bội!

Khó không có nghĩa là không làm được. Thiên Chúa không thử thách chúng ta vì Ngài biết rõ mọi sự, nhưng Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Vì thế, hãy không ngừng cố gắng tâm nguyện như tác giả Thánh Vịnh: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:7-8).

Ai đã từng giữ vững đức tin trong những lúc khó khăn thì sẽ nhận ra “sức mạnh của sự yếu đuối nơi con người” (x. 2 Cr 12:10). Đó chính là “phép lạ” thực sự chứ không phải tìm đâu xa, như nhiều người vẫn “chạy đua” tin theo các “sự lạ” ở chỗ này hoặc nơi nọ. Rất nên cảnh giác về vấn đề này!

Chết đi và sống lại cũng là “ơn gọi” đối với phàm nhân: chết đời hữu hạn (đời tạm) để sống đời vô hạn (trường sinh). Chúa Giêsu đã trải qua cái “ngưỡng” này để làm cho chúng ta nhận thức đúng đắn về cuộc đời.

Thánh Phaolô xác định: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích” (1 Cr 15:1-2).

Sống đức tin là sống ơn gọi – ơn gọi chứng nhân, ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi yêu thương, ơn gọi nhân từ và thương xót. Thánh Phaolô trút bầu tâm sự: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15:3-8). Hành trình ơn gọi này cũng là hành trình sinh – tử, chết đi và sống lại. Một hành trình kỳ diệu, và chỉ một hành trình duy nhất chứ không là vòng luân hồi như người ta “suy bụng ta ra bụng người”. Vòng luân hồi là ảo tưởng, lệch lạc tư duy, chỉ nghĩ theo ý mình. Chắc chắn Thiên Chúa không cho vòng luân hồi tác dụng!

Thánh Phaolô tâm sự chân thành: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy” (1 Cr 15:9-11). Vô cùng kỳ diệu, vì Hồng Ân đó tuôn trào từ chính Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Trình thuật Lc 5:1-11 (tương đương Mt 4:18-22 và Mc 1:16-20) nói về việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Ghen-nê-xa-rét.

Khi đó, dân chúng chen lấn nhau đến gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Ngài xuống chiếc thuyền của ông Simôn và bảo ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi xuống và giảng dạy đám đông.

Giảng xong, Ngài bảo ông Simôn chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simôn gãi đầu và nói: “Thầy ơi, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Là ngư phủ dày dạn kinh nghiệm, Phêrô biết nước lớn, nước ròng, con nước nào có cá hay không có cá. Thế nhưng ông hành động vì “vâng lời” mà thôi. Phêrô tuyệt vời ở điểm này.

Thật kỳ lạ, họ đã làm theo và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới, họ phải làm hiệu cho các bạn chài đến giúp. Cá đầy hai thuyền, đến nỗi thuyền gần chìm. Họ chưa bao giờ đánh được nhiều cá như vậy!

Thấy vậy, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đứng trước Thiên Chúa, người ta trở nên bé nhỏ và tội lỗi, vì vậy mới thấy sợ. Rất có thể lúc đó Chúa Giêsu cười rất hiền, rồi vỗ vai Phêrô và nói: “Đừng sợ, không có gì đâu. Anh đứng dậy đi!”. Nhưng Thiên Chúa lại nhân từ và thương xót, thật hạnh phúc cho chúng ta biết bao!

Mọi người đều kinh ngạc, kinh ngạc vì mẻ cá lạ và vì Chúa Giêsu nhân hậu quá chừng. Quả thật, Chúa Giêsu bảo ông Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Chài cá là “chuyện nhỏ”, dễ ẹc, thế mà phàm nhân vẫn không thể muốn theo ý mình. Vâng, “chài người” mới là chuyện quan trọng, khó lắm. Nhưng có Thiên Chúa hướng dẫn thì không phải lo chi.

Sau đó, họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Đại Sư Giêsu suốt cả quãng đời còn lại. Cuộc đời họ hoàn toàn sang trang mới, chương mới. Thẻ căn cước của họ không còn ghi là “ngư phủ” (chài lưới cá), mà ghi là “nhân phủ” (chài lưới người). Loại thẻ căn cước này khong xã hội nào có thể cấp phát, độc nhất chỉ có Chúa Giêsu cấp phát mà thôi.

Mỗi Kitô hữu cũng đã được tái sinh và được sử dụng loại thẻ căn cước mới ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã cho con được làm con cái Ngài, xin giúp con biết trung thành với ơn gọi Kitô hữu và sống làm chứng về lòng thương xót của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.


TRẦM THIÊN THU

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét