Bài suy niệm thứ ba của Đức Phanxicô cho các linh mục, nhân Năm Thánh LTX:
Mùi Thơm của Chúa Kitô
và ánh sáng lòng thương xót của Người
và ánh sáng lòng thương xót của Người
Mấy ngày trước chúng tôi
đã lần lượt đăng tải các bài giảng của Đức Phanxicô cho các linh mục và chủng
sinh nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nhưng bản văn chúng tôi dựa vào để dịch do
Hãng Tin Zenit cung cấp, và không hiểu vì lý do gì, họ đã cắt xén nhiều ý tưởng
của Đức Giáo Hoàng. Nay đọc lại bản văn do Tòa Thánh công bố trên trang mạng
chính thức, chúng tôi đã bổ túc những chỗ thiếu và thêm phần dẫn nhập của chính
Đức Phanxicô. Xin thành thực cáo lỗi cùng độc giả. Và xin qúy vị thay bài này
cho các bài đã đăng lẻ tẻ trước đây.
Nhân dịp Năm Thánh Thương
Xót dành cho các linh mục và chủng sinh, kéo dài 3 ngày từ ngày 1 tới ngày 3
tháng Sáu, với chủ đề “Người Chăn Chiên Nhân Lành: Linh Mục trong tư các Thừa
Tác Viên của Thương Xót và Cảm Thương, Gần Gũi Dân Mình và Tôi Tớ Mọi Người”, Đức
Thánh Cha đã đích thân lần lượt giảng cho các linh mục và chủng sinh ba bài giảng
cùng trong ngày 2 tháng Sáu. Bài đầu tiên tại Vương Cung Thánh Đường Gioan
Latêranô vào buổi sáng, bài thứ hai tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả vào buổi
trưa, và bài thứ ba tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành vào lúc
4 giờ chiều.
Dẫn Nhập
Trước ba bài giảng, Đức
Thánh Cha đã có lời dẫn nhập như sau:
Chào các linh mục thân
yêu,
Chúng ta hãy bắt đầu ngày
tĩnh tâm thiêng liêng này. Tôi nghĩ điều hữu ích cho chúng ta là cầu nguyện cho
nhau, trong tình hiệp thông. Tĩnh tâm đã đành, nhưng mọi người chúng ta trong
tình hiệp thông! Tôi đã chọn chủ đề lòng thương xót. Trước hết, là một dẫn nhập
ngắn vào toàn bộ buổi tĩnh tâm.
Lòng thương xót, nhìn
theo cái nhìn nữ giới, là tình yêu dịu dàng của một người mẹ, xúc động trước sự
mảnh mai yếu đuối của đứa con mới sinh, bèn ôm lấy con vào lòng và cung cấp mọi
điều con cần để sống và lớn lên (rahamim). Nhìn theo cái nhìn nam giới, lòng
thương xót là lòng trung tín vững bền của một người cha luôn nâng đỡ, tha thứ
và khích lệ con cái lớn lên. Lòng thương xót là kết quả của một giao ước; chính
vì thế ta mới nói Thiên Chúa nhớ tới giao ước thương xót của Người (hesed). Đồng
thời, nó là một hành vi hoàn toàn tự do của lòng nhân và lòng tốt (eleos) phát
xuất từ thẳm sâu hữu thể ta và tìm cách phát biểu ra ngoài trong đức ái. Đặc
tính bao hàm mọi sự này có nghĩa: mọi người đều biết đánh giá ý nghĩa của việc
có lòng thương xót, của việc cảm thấy xót thương những người đang đau khổ, của
viêc có thiện cảm với những người thiếu thốn, bất bình một cách tự nhiên trước
những bất công tỏ tường và ước nguyện đáp ứng bằng một lòng kính trọng yêu
thương qua việc cố gắng chỉnh đốn mọi sự. Chịu suy nghĩ về các cảm xúc thương
xót tự nhiên này, ta sẽ bắt đầu hiểu được tại sao ta cũng có thể hiểu chính
Thiên Chúa theo thuộc tính có tính định tính này qua đó Chúa Giêsu muốn mặc khải
Người cho ta. Tên Thiên Chúa chính là lòng thương xót.
Khi ta suy niệm về lòng
thương xót, một điều đặc biệt sẽ diễn ra. Tính năng động của Linh Thao sẽ nhận
được một sức mạnh mới. Lòng thương xót giúp ta thấy điều này: ba cách của thần
nghiệm (mysticism) cổ điển: thanh tẩy, soi sáng và kết hợp, không phải là ba
giai đoạn nối tiếp nhau mà khi đã cảm nghiệm được rồi, ta sẽ vứt chúng lại phía
sau. Chúng ta không bao giờ ngưng cần đến việc hồi tâm đổi mới, chiêm niệm sâu
xa hơn và yêu thương lớn lao hơn. Ba giai đoạn này chồng chéo lên nhau và liên
tiếp tái hiện. Không gì kết hợp ta với Thiên Chúa nhiều hơn một hành vi thương
xót, và đây không phải là một điều nói quá: không gì kết hợp ta với Thiên Chúa
nhiều hơn một hành vi thương xót, vì chính vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã
tha thứ tội lỗi ta và ban ơn thánh để ta thực hành các hành vi thương xót nhân
danh Người. Không gì củng cố đức tin ta nhiều hơn việc được tẩy sạch mọi tội lỗi.
Không gì có thể rõ ràng hơn giáo huấn của tin mừng Mátthêu chương 25 và các mối
phúc thật, “phúc thay người có lòng thương xót, vì họ sẽ được thương xót” (Mt
5:7), đối với cái hiểu của ta về thánh ý Thiên Chúa và sứ vụ Người ủy thác cho
ta. Ta có thể áp dụng vào lòng thương xót câu Chúa phán rằng “đong đấu nào các
con sẽ được đấu đó” (Mt 7:2). Nếu anh em cho phép, tôi xin nghĩ tới tất cả các
cha giải tội thiếu kiên nhẫn luôn “mạnh tay” với các hối nhân, la mắng họ.
Nhưng đó là cách Thiên Chúa sẽ cư xử với các ngài! Nếu chỉ vì lý do này, xin
anh em đừng hành động như thế. Lòng thương xót giúp chúng ta nhận ra rằng sở dĩ
chúng ta nhận được lòng thương xót là để muốn được tỏ lòng thương xót cho người
khác. Chúng ta có thể cảm nhận ngay trong chúng ta một sự căng thẳng lành mạnh
giữa việc hối hận vì tội lỗi mình và phẩm giá mà Chúa đã ban cho chúng ta.
Không chần chừ gì thêm nữa, chúng ta có thể từ ghẻ lạnh bước qua ôm ấp, như dụ
ngôn người con trai hoang đàng, và thấy được Thiên Chúa đã dùng tội lệ của ta
làm bình chứa lòng thương xót của Người như thế nào. Tôi muốn lặp lại điều này,
nó vốn là chìa khóa dẫn vào bài suy niệm thứ nhất: dùng tội lệ của ta như bình
chứa lòng thương xót của Người. Lòng thương xót thúc giục ta từ bản thân bước
sang cộng đoàn. Ta thấy điều này trong phép lạ hóa bánh, một phép lạ phát sinh
từ lòng cảm thương của Chúa Giêsu đối với dân Người và đối với nhiều người
khác. Một điều tương tự cũng diễn ra khi ta hành động một cách có lòng thương
xót: bánh thương xót luôn hóa nhiều khi được chia sẻ.
Ba Gợi Ý
Tôi có ba gợi ý cho ngày
tĩnh tâm này. Sự thân mật tự do và hân hoan phát sinh ở mọi bình diện giữa những
người đối xử với nhau bằng lòng thương xót, sự thân mật của Nước Thiên Chúa
theo lời mô tả của Chúa Giêsu trong các dụ ngôn của Người, khiến tôi đưa ra ba
gợi ý để anh em đích thân cầu nguyện hôm nay.
Gợi ý thứ nhất liên quan
tới hai lời khuyên thực tế được Thánh Inhaxiô đưa ra và tôi xin lỗi đã quảng
cáo cho “gà nhà”. Ngài nói với chúng ta rằng “Không phải nhận thức lớn làm đầy
và thỏa mãn linh hồn, mà là khả năng biết cảm nhận và thưởng thức những điều
thuộc về Chúa ở bên trong” (Linh Thao, 2). Thánh Inhaxiô viết thêm rằng bất cứ
khi nào gặp được và thưởng thức được điều mình ước muốn, ta đều nên cầu nguyện
trong bình an, “không cần lo lắng tiến thêm bao lâu mình đã thỏa mãn” (cùng chỗ,
76). Cũng thế, trong các bài suy niệm này về lòng thương xót, ta có thể bắt đầu
với điều ta thưởng thức nhiều nhất và dừng lại ở đấy, vì điều chắc chắn là việc
thương xót này sẽ dẫn chúng ta tới việc thương xót kia. Nếu chúng ta bắt đầu cảm
thấy thương cảm đối với người nghèo và người bị xua đuổi, chắc chắn ta sẽ tiến
tới chỗ hiểu ra rằng chính chúng ta cũng cần lòng thương xót.
Gợi ý thứ hai của tôi
giúp anh em cầu nguyện liên quan tới cung cách chúng ta nói tới lòng thương
xót. Cho tới nay, anh em đã hiểu ra rằng trong tiếng Tây Ban Nha, tôi thích
dùng chữ “thương xót” như một động từ: chúng ta phải “tỏ lòng thương xót”
[misericordiar trong tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa như thương xót hóa: chúng ta
phải mở rộng nghĩa của ngôn từ đôi chút] để “nhận được lòng thương xót [ser
misericordiados – để được thương xót hóa]”. “Nhưng thưa cha, đấy đâu phải chữ
trên thực tế!’ – “Đúng, nhưng nó là hình thức tôi thấy hữu ích để nắm được thực
tại này: tỏ lòng thương xót, misericordiar và nhận lòng thương xót ser
misericordiados”. Lòng thương xót nối kết nhu cầu con người với trái tim Thiên
Chúa và việc này dẫn tới hành động tức khắc. Chúng ta không thể suy niệm về
lòng thương xót mà không biến nó thành hành động. Trong cầu nguyện, chẳng ích
chi khi chỉ trí thức hóa sự việc. Với trợ lực của ơn thánh, cuộc đối thoại của
ta với Chúa phải tập chú ngay lập tức vào thứ tội mà vì nó tôi cần lòng thương
xót của Chúa hơn cả, thứ tội mà tôi cảm thấy xấu hổ hơn hết, thứ tội mà tôi muốn
tu sửa hơn cả. Ngay từ đầu, ta cũng phải nói tới điều làm chúng ta xúc động hơn
hết, mọi khuôn mặt khiến ta muốn làm một điều gì đó để thỏa mãn cơn đói cơn
khát Thiên Chúa, công lý và tình âu yếm của họ. Lòng thương xót được chiêm niệm
bằng hành động, nhưng là loại hành động bao trùm mọi người. Lòng thương xót
liên hệ tới trọn con người ta, cả các cảm xúc lẫn tinh thần ta, và mọi con người
khác nữa.
Gợi ý sau cùng của tôi
cho buổi tĩnh tâm hôm nay liên quan tới hoa trái của Các Thao Tác này, tức ơn
thánh chúng ta cầu xin nhận được. Tóm một lời, là ơn thánh trở thành các linh mục
sẵn sàng hơn bao giờ hết “tiếp nhận lòng thương xót” (misericordiados) và “tỏ bầy
lòng thương xót” (misericordiosos). Một trong những điều đẹp đẽ nhất, và là những
điều làm tôi xúc động, là việc xưng tội của một linh mục: việc này vĩ đại, đẹp
đẽ, vì con người tới xưng thú tội lỗi của chính mình này cũng là một với con
người lắng nghe trái tim của các hối nhân khác tới xưng thú tội lỗi của họ. Ta
có thể tập trung vào lòng thương xót vì nó là điều chủ yếu và dứt khoát nhất.
Nhờ chiếc thang thương xót (Xem Laudato Si’, 77), ta có thể leo xuống tận thẳm
sâu thân phận con người, kể cả sự yếu đuối và tội lỗi của ta, và leo lên tận đỉnh
cao sự hoàn thiện của Thiên Chúa: “hãy thương xót (hoàn thiện) như Cha các con
là Đấng thương xót”. Nhưng luôn để “hái” được lòng thương xót lớn lao hơn. Hoa
trái này cũng nên được thấy trong việc hoán cải tâm thức thích định chế của ta:
nếu các cơ cấu của ta không sinh động và nhắm làm cho chúng ta cởi mở hơn với
lòng thương xót của Thiên Chúa và có lòng thương xót đối với người khác hơn,
thì chúng có thể biến thành một điều gì đó rất kỳ quặc và cuối cùng phản tác dụng.
Phạm vi này thường được bàn tới trong một số văn kiện của Giáo Hội và các bài
diễn văn của một số vị giáo hoàng: hoán cải định chế, hoán cải mục vụ.
Như thế, buổi tĩnh tâm
này sẽ đi theo con đường “đơn sơ của Tin Mừng”, một con đường nhìn và làm mọi sự
bằng chìa khóa thương xót. Lòng thương xót này năng động, không hẳn là một danh
từ với một ý nghĩa nhất định và dứt khoát, hay một tĩnh từ dùng để mô tả, mà
đúng hơn là một động từ - “tỏ lòng thương xót” và “tiếp nhận lòng thương xót”
[misericordiar và ser misericordiados]. Điều này thúc đẩy chúng ta hành động
trong thế giới này. Hơn thế nữa, đây là một lòng thương xót “lớn hơn mãi”
(magis), một lòng thương xót lớn lên và trải rộng, tiến từ tốt tới tốt hơn và từ
kém tới hơn. Vì mẫu mực được Chúa Giêsu thiết lập trước mặt ta là mẫu mực của
Chúa Cha, Đấng luôn lớn hơn mãi – Deus semper maior – và, theo một nghĩa nào
đó, lòng thương xót vô lượng của Người không ngừng “lớn mạnh”. Lòng thương xót
của Người không có mái hoặc tường vì nó phát sinh từ tự do tối thượng của Người.
Bài suy niệm thứ ba: Mùi
Thơm của Chúa Kitô và ánh sáng lòng thương xót của Người
Chúng ta hãy hy vọng rằng
Chúa sẽ ban cho ta điều ta tìm trong lời cầu nguyện: noi gương kiên nhẫn của
Chúa Giêsu, và với sự kiên nhẫn này, sẽ vượt qua mọi khó khăn.
Bài suy niệm thứ ba này của
chúng ta có tựa đề là: Mùi thơm của Chúa Kitô và ánh sáng lòng thương xót của
Người.
Trong buổi gặp gỡ thứ ba
của chúng ta này, tôi đề nghị chúng ta suy niệm về các việc thương xót, bằng
cách tiếp nhận bất cứ việc nào ta cảm thấy có liên hệ mật thiết nhất với đặc sủng
của chúng ta, và bằng cách nhìn vào các việc này như một toàn thể. Chúng ta có
thể chiêm ngắm chúng qua con mắt thương xót của Đức Mẹ, đấng giúp ta tìm ra
"rượu đang thiếu" và khuyến khích chúng ta "làm bất cứ điều gì
Chúa Giêsu nói với chúng ta" (Ga 2: 1-12), ngõ hầu lòng thương xót của Người
có thể làm các phép lạ mà người của chúng ta cần.
Các việc thương xót được
liên kết chặt chẽ với các "giác quan tâm linh". Trong lời cầu nguyện
của chúng ta, chúng ta xin ơn biết "cảm nhận và thưởng thức" Tin Mừng
đến nỗi nó có thể làm chúng ta "nhạy cảm" hơn trong cuộc sống của
chúng ta. Được Chúa Thánh Thần đánh động và được Chúa Giêsu dẫn dắt, chúng ta
có thể, bằng con mắt của lòng thương xót, nhìn thấy từ xa những người gục ngã dọc
bên đường. Chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của Bartimêô và cùng với Chúa
Giêsu, cảm thấy cái đụng tay nhút nhát nhưng cương quyết của người phụ nữ bị
băng huyết, khi bà nắm lấy áo choàng của Người. Chúng ta có thể xin ơn cùng với
Chúa Giêsu chịu đóng đinh biết nếm mật đắng của tất cả những người đang chia sẻ
thập giá của Người, và ngửi thấy mùi hôi của khốn khổ - trong các bệnh viện dã
chiến, trong xe lửa và trong các tàu thuyền chật ních người. Dầu của lòng
thương xót không che đây được mùi hôi này. Đúng hơn, khi xức dầu này, nó nức
lên niềm hy vọng mới.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội
Công Giáo, khi thảo luận về các việc thương xót, cho chúng ta biết rằng
"khi mẹ ngài trách cứ ngài đã chăm sóc người nghèo và người bệnh tại nhà,
Thánh Rose thành Lima nói với bà rằng: ‘Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người
bệnh, chúng ta là mùi thơm của Chúa Kitô’"(số 2449, Latinh). Mùi thơm của
Chúa Kitô đó - tức việc chăm sóc người nghèo - vốn là, và luôn luôn đã là, dấu ấn
của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã làm cho nó trở thành trọng tâm của cuộc họp giữa
ngài với các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, vốn là "các cột trụ" của
Giáo Hội. Ngài nói với chúng ta rằng các ngài "chỉ xin một điều, đó là
chúng ta nhớ đến người nghèo" (Gl 2:10). Điều này nhắc nhớ một câu truyện
tôi đã từng kể. Ngay sau khi tôi vừa được bầu làm giáo hoàng, trong lúc vẫn còn
đang đọc tiếp các lá phiếu, một hiền huynh hồng y đến với tôi, ôm tôi và nói:
“Đừng quên người nghèo!”. Đó chính là sứ điệp đầu tiên Chúa gửi cho tôi lúc ấy.
Sách Giáo Lý nói tiếp một
cách đáng kể rằng "những người bị áp bức bởi nghèo khó là đối tượng của một
tình yêu ưu tiên đối với Giáo Hội, một tình yêu mà từ những ngày đầu của Giáo Hội,
và bất chấp các thiếu sót của nhiều chi thể của Giáo Hội, vẫn không ngừng làm
việc để cứu trợ, bảo vệ và giải phóng họ"(số 2448). Không cần các ý thức hệ,
chỉ cần sức mạnh của Tin Mừng mà thôi.
Trong Giáo Hội, chúng ta
phạm, và đã luôn luôn phạm, nhiều tội lỗi và thiếu sót. Nhưng khi nói đến việc
phục vụ người nghèo bằng các việc thương xót, trong tư cách một Giáo Hội, chúng
ta đã luôn luôn đi theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Các thánh của chúng ta
đã làm điều này theo những cách khá sáng tạo và hữu hiệu. Tình yêu đối với người
nghèo đã là dấu hiệu, là ánh sáng thu hút mọi người để làm vinh danh Chúa Cha.
Giáo dân ta đánh giá cao điều này nơi một linh mục biết quan tâm tới người
nghèo và người bệnh, tới những người có tội được ngài tha thứ và tới những người
được ngài kiên nhẫn dạy dỗ và sửa chữa ... Giáo dân ta tha thứ cho các linh mục
chúng ta nhiều sai phạm, ngoại trừ sai phạm quá dính bén với tiền bạc. Điều
này, thì họ không tha thứ. Nhưng nó không liên quan nhiều tới chính tiền bạc
cho bằng sự kiện này: tiền bạc làm chúng ta quên lãng kho tàng của lòng thương
xót. Giáo dân ta có thể đánh hơi được tội lỗi nào thực sự nghiêm trọng đối với
một linh mục, những tội nào giết chết thừa tác vụ của ngài vì chúng biến ngài
thành một quan chức hoặc còn tệ hơn nữa, thành một kẻ làm thuê. Họ cũng có thể
nhận ra những tội lỗi nào, tôi sẽ không nói là phụ thuộc (tôi không dám chắc liệu
anh em có thể nói thế về phương diện thần học hay không!), nhưng là thứ tội cần
được mang giống như một thánh giá, cho đến khi, cuối cùng, Chúa sẽ đốt chúng đi
như đốt trấu. Nhưng sự thất bại, không có lòng thương xót, nơi một linh mục là
một mâu thuẫn trắng trợn. Nó đánh ngay vào tâm điểm của ơn cứu rỗi, chống lại
chính Chúa Kitô, Đấng "đã trở thành nghèo để nhờ cái nghèo của Người,
chúng ta có thể trở nên giàu có" (xem 2Cr 8: 9). Vì lòng thương xót chữa
lành "nhờ mất đi một điều gì tự nó". Chúng ta cảm thấy nhói đau hối
tiếc và chúng ta mất đi một phần cuộc sống của chúng ta, bởi vì, thay vì làm những
gì chúng ta muốn làm, chúng ta đã vươn tay ra với một người nào khác.
Như thế, đây không phải
là việc Thiên Chúa tỏ cho tôi thấy lòng thương xót đối với tội này hay tội nọ,
như thể tôi là người tự túc, hoặc là việc chúng ta thực hiện một số hành vi
thương xót đối với người này hoặc người nọ có nhu cầu. Ân sủng chúng ta tìm kiếm
trong lời cầu nguyện này là để cho mình được Thiên Chúa tỏ lòng thương xót
trong mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta và đến lượt ta, ta tỏ lòng thương
xót với nhiều người khác trong mọi việc chúng ta làm. Là linh mục và giám mục,
chúng ta làm các bí tích, rửa tội, giải tội, cử hành Thánh Lễ ... Lòng thương
xót là cách chúng ta biến toàn bộ cuộc sống của dân Chúa thành một bí tích. Có
lòng thương xót không những là "một lối sống", mà là "lối sống"
duy nhất. Không có cách nào khác để làm một linh mục. Cha Brochero, sẽ được
phong thánh nay mai, đã nói điều này: "linh mục nào ít có lòng thương xót
đối với các tội nhân thì chỉ là linh mục một nửa. Những lễ phục tôi mặc không
làm tôi thành một linh mục; nếu tôi không có lòng bác ái trong tâm hồn, tôi
không là ngay cả một Kitô hữu".
Nhìn thấy nhu cầu và cứu
trợ ngay lập tức, và còn hơn thế nữa, dự đoán các nhu cầu đó: đấy chính là dấu
chỉ cái nhìn của một người cha. Ánh mắt linh mục này – một ánh mắt chiếm vị trí
của người cha giữa lòng Mẹ Giáo Hội - làm chúng ta nhìn người ta bằng con mắt của
lòng thương xót. Nó cần được học ngay từ trong chủng viện, và nó phải làm giàu
cho tất cả các kế hoạch và dự án mục vụ của chúng ta. Chúng ta mong muốn, và
chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta, một cái nhìn có khả năng biện phân được
các dấu chỉ thời đại, biết "những việc thương xót nào dân chúng của ta
ngày hôm nay cần đến" ngõ hầu cảm nhận được và thưởng thức được vị Thiên
Chúa của lịch sử, Đấng đang đồng hành với họ. Vì, như Văn Kiện Aparecida đã
nói, qua câu trích dẫn Thánh Alberto Hurtado: "Trong các việc làm của
chúng ta, người dân chúng ta biết rằng chúng ta hiểu được nỗi khổ của họ"
(số 386). Trong các việc làm của chúng ta ...
Bằng chứng mà chúng ta hiểu
là các việc thương xót của ta được Chúa chúc lành và gặp được sự giúp đỡ và hợp
tác của người dân chúng ta. Một số kế hoạch và dự án không diễn tiến tốt, mà
không ai hiểu lý do tại sao bao giờ. Họ nặn óc, cố gắng moi ra một kế hoạch mục
vụ, khi một ai đó chỉ biết nói: "Nó không tiến hành được đâu vì thiếu lòng
thương xót", không cần cố gắng thêm làm gì. Nếu nó không được chúc phúc,
thì là vì nó thiếu lòng thương xót. Thiếu lòng thương xót vẫn thấy nơi một bệnh
viện dã chiến, chứ không phải nơi một bệnh xá đắt tiền; thiếu lòng thương xót vốn
trân quí lòng tốt và mở cửa cho cuộc cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, chứ không phải
làm một ai đó phải quay gót trước những lời chỉ trích gay gắt ...
Tôi đề nghị một lời cầu
nguyện dựa trên việc người phụ nữ được tha thứ tội lỗi (Ga 8: 3-11), để xin ơn
thương xót nơi tòa giải tội, và một lời cầu nguyện khác dựa trên chiều kích xã
hội của các việc thương xót.
Tôi luôn luôn bỡ ngỡ bởi
đoạn văn nói về cuộc gặp gỡ của Chúa với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại
tình, và, khi từ chối lên án nàng, Người "đã vi phạm" Lề Luật ra sao.
Để trả lời câu họ hỏi dùng để thử thách Người - "có nên ném đá cô ta hay
không?" - Người đã không ra luật, Người đã không áp dụng lề luật. Người giả
bộ câm, và rồi quay sang một điều khác. Nhờ thế, Người đã khởi diễn một quá
trình trong trái tim người phụ nữ đang cần được nghe những lời này: "tôi
cũng không kết tội chị". Người vươn tay ra và giúp nàng đứng dậy, cho nàng
nhìn thấy ánh mắt dịu dàng làm thay đổi trái tim nàng. Chúa đã cầm tay con gái
ông Giairô và nói: “Hãy cho cháu ăn thứ gì đi”. Người cho người con trai bà góa
Thành Naim sống lại và trao anh cho mẹ anh. Còn ở đây, Người nói với người đàn
bà tội lỗi đứng lên. Người đặt ta đúng vào chỗ Thiên Chúa muốn chúng ta có mặt:
đứng thẳng trên đôi chân, không bao giờ nằm dưới đất.
Đôi khi tôi cảm thấy một
chút buồn và khó chịu khi người ta đi thẳng tới những lời cuối cùng của Chúa
Giêsu nói với người phụ nữ này: "Hãy đi và đừng phạm tội nữa". Họ sử
dụng những chữ này để "bênh vực" Chúa Giêsu khỏi tội bỏ qua luật
pháp. Tôi tin những lời của Chúa Kitô liền mảnh làm một với hành động của Người.
Người cúi xuống viết trên mặt đất như một khúc dạo đầu cho những gì Người muốn
nói với những người muốn ném đá người phụ nữ, và Người làm như vậy một lần nữa
trước khi nói với nàng. Điều này cho chúng ta biết một điều gì đó về "thời
gian" Chúa sẽ dùng để phán xử và tha thứ.
Thời gian Người cho mỗi
người để họ nhìn vào trái tim của mình và rồi bước đi. Khi nói với người phụ nữ,
Chúa đã mở ra nhiều không gian khác: một là không gian không kết án. Tin Mừng
nêu rõ không gian rộng mở này. Nó làm chúng ta nhìn sự việc qua đôi mắt của
Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta: "Tôi không thấy ai khác, ngoài người phụ
nữ này".
Rồi, Chúa Giêsu làm cho
người phụ nữ nhìn quanh. Người hỏi nàng: "những người lên án chị đâu cả rồi?"
(chữ "lên án" tự nó rất quan trọng, vì nó nói tới điều ta thấy không
thể chấp nhận được liên quan tới những người phán xét hay biếm họa chúng ta
...). Sau khi đã mở ra trước mắt nàng cái không gian không có sự phán xét người
khác này, Người nói với nàng rằng Người cũng sẽ không ném một hòn đá nào ở đó:
"Tôi cũng không lên án chị". Rồi Người mở ra một không gian tự do nữa
trước mắt nàng: "Hãy đi và đừng phạm tội nữa". Mệnh lệnh của Người có
liên quan với tương lai, để giúp nàng thực hiện một khởi đầu mới và "bước
đi trong tình yêu". Sự nhạy cảm của lòng thương xót là đây: nó cảm thương
ngoái nhìn dĩ vãng và đưa ra lời khích lệ tương lai.
Những lời "Hãy đi và
đừng phạm tội nữa" không dễ dàng. Chúa nói chúng ra "với nàng".
Người giúp nàng đặt thành lời những gì chính bản thân nàng đã cảm nhận, một chữ
"không" đầy tự do đối với tội
lỗi giống chữ "vâng" của Đức
Maria đối với ân sủng. Chữ "không" này cần được nói cho thứ tội lỗi bắt
rễ sâu vốn hiện diện trong tất cả mọi người. Nơi người đàn bà này, nó là một tội
xã hội; người ta đến gần nàng, hoặc để ngủ với nàng hoặc để ném đá nàng. Đó là
lý do tại sao Chúa không những khai quang đường đi trước mặt nàng, Người còn đặt
nàng lên con đường này, để nàng có thể chặn đứng việc trở thành "đối tượng"
cho người khác nhìn và thay vào đó nhận lấy quyền kiểm soát cuộc sống của mình.
Những lời "đừng phạm tội nữa"
không những ám chỉ luân lý tính, nhưng, tôi tin, còn ám chỉ thứ tội vốn cản
ngăn nàng sống cuộc sống của nàng. Chúa Giêsu cũng nói với người bại liệt ở
Bethzatha đừng phạm tội nữa (Ga 5:14). Nhưng người đàn ông đó đã tự biện minh bằng
tất cả những điều đáng buồn đã "xảy
ra với anh"; anh ta bị chứng mặc cảm nạn nhân. Do đó, Chúa Giêsu đã
thách thức anh ta cách khá nhẹ nhàng chưa từng có bằng cách nói: "... kẻo một điều gì đó tệ hơn có thể xảy
đến với ngươi". Chúa đã tận dụng lối suy nghĩ của anh ta, nỗi sợ của
anh ta, để kéo anh ta ra khỏi cảnh tê liệt của mình. Tôi dám nói, Người đã đem
tới cho anh ta một chút e sợ. Trọng điểm là mỗi người chúng ta phải nghe những
lời "đừng phạm tội nữa"
theo phương thức sâu sắc của chính bản thân mình.
Hình ảnh về Chúa, Đấng đặt
người ta lên đường đi của họ, là hình ảnh hết sức đặc trưng. Người là Đấng
Thiên Chúa bước đi bên cạnh dân của Người, Đấng dẫn họ về phía trước, Người đồng
hành với lịch sử của chúng ta. Do đó, đối tượng của lòng thương xót của Người
khá rõ ràng: nó là tất cả mọi điều giữ cho một người đàn ông hoặc một người đàn
bà tiếp tục bước trên nẻo đường chính, cùng với dân của họ, theo tốc độ của
riêng họ, tới nơi Thiên Chúa yêu cầu họ tới. Điều làm Người lo phiền là người
ta đi lạc, hoặc rơi lại phía sau, hoặc cố gắng theo lối riêng của họ. Là kết cục
sẽ không đi tới đâu. Là họ không ở đó chờ Chúa, sẵn sàng đi tới bất cứ nơi nào
Người muốn sai họ tới. Là họ không đi một cách khiêm nhường trước mặt Người
(xem Mk 6: 8), là họ không bước đi trong tình yêu (xem Ep 5: 2).
Không gian của tòa giải tội, nơi sự thật làm chúng ta tự do
Bây giờ, ta hãy tới tòa
giải tội, nơi sự thật làm chúng ta tự do. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo
trình bày tòa giải tội như là nơi sự thật làm chúng ta được tự do để gặp gỡ. "Khi cử hành bí tích giải tội, linh mục
hoàn thành thừa tác vụ của Đấng Chăn Chiên
Lành trên đường tìm con chiên lạc, của người Samaria Nhân Hậu đang băng bó các
vết thương, của Người Cha đang chờ đợi đứa con trai hoang đàng và chào đón anh
trên đường trở về, và của Thẩm Phán công minh và vô tư phán xử vừa công chính vừa
thương xót. Linh mục là dấu chỉ và khí cụ của tình yêu thương xót của Thiên
Chúa đối với tội nhân "(số 1465). Sách Giáo Lý cũng nhắc nhở chúng ta
rằng "cha giải tội không phải làm chủ
sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng làm tôi tớ của nó. Thừa tác viên của bí tích
này nên kết hợp với ý định và đức ái của Chúa Kitô "(số 1466).
Các dấu chỉ và công cụ của
gặp gỡ. Đó là những gì chúng ta là. Một lời mời hấp dẫn để gặp gỡ. Là các dấu
chỉ, chúng ta phải có thái độ chào đón, đưa ra một thông điệp có thể thu hút sự
chú ý của người ta. Các dấu chỉ này cần phải nhất quán và rõ ràng, nhưng trên hết
phải dễ hiểu. Một số dấu hiệu chỉ rõ ràng dễ hiểu đối với các chuyên gia, không
ích lợi bao nhiêu. Dấu chỉ và các công cụ. Công cụ phải hữu hiệu, có sẵn đó,
chính xác và phù hợp với công việc. Chúng hoặc hữu dụng hoặc không hữu dụng.
Chúng ta là những công cụ nếu mọi người có được cuộc gặp gỡ chân chính với
Thiên Chúa của lòng thương xót. Nhiệm vụ của chúng ta là "làm cho cuộc gặp gỡ này khả hữu", mặt đối mặt. Những gì
người ta làm sau đó là việc của họ. Có đứa con trai hoang đàng giữa bầy heo và
người cha mỗi chiều ra ngoài để xem xem liệu anh ta có trở về nhà hay không. Có
con chiên lạc và một mục tử ra đi để tìm kiếm nó. Có người bị thương bị bỏ lại
bên đường và người Samaria nhân hậu. Thừa tác vụ của chúng ta là gì? Là làm dấu
chỉ và dụng cụ giúp cuộc gặp gỡ này thành khả hữu. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng
chúng ta không phải là người cha, người chăn chiên hoặc Samaria. Đúng hơn, bao
lâu còn là các tội nhân, chúng ta vẫn chỉ đang ở phía bên kia của ba vị này. Thừa
tác vụ của chúng ta phải là dấu chỉ và khí cụ của cuộc gặp gỡ này. Chúng ta là
thành phần của mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, Đấng tạo ra Giáo Hội, xây dựng sự hiệp
nhất, và không ngừng mời ta vào cuộc gặp gỡ.
Một đặc điểm khác của dấu
chỉ và khí cụ là nó không qui chiếu về chính mình. Nói đơn giản hơn, nó không
phải là một cùng đích trong chính nó. Không ai dính kết với một dấu hiệu, khi
đã hiểu rõ thực tại của nó. Không ai tiếp tục nhìn vào cái tuốc nơ vít hay cái
búa, nhưng nhìn vào bức tranh treo ngay ngắn. Chúng ta là những đầy tớ vô dụng.
Là dụng cụ và dấu hiệu giúp hai con người kết hợp với nhau trong một cái ôm, giống
như người cha và đứa con trai của ông.
Đặc điểm thứ ba của dấu
chỉ và khí cụ là sự sẵn sàng có đó. Dụng cụ cần phải sẵn sàng có đó để được sử
dụng; dấu hiệu phải được nhìn thấy. Làm một dấu chỉ và khí cụ là làm một người
trung gian, là sẵn có đó. Có lẽ đây là chìa khóa thực sự dẫn vào sứ vụ của
chúng ta trong cuộc gặp gỡ đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và con người. Thậm
chí, chúng ta còn có thể diễn tả nó bằng những từ ngữ tiêu cực. Thánh Inhaxiô
nói tới việc "không vào được đường".
Người trung gian tốt làm cho mọi thứ ra dễ dàng, chứ không thiết lập ra chướng
ngại vật. Ở nước tôi, có một cha giải tội nổi tiếng, Cha Cullen. Ngài thường ngồi
ở tòa giải tội và, khi không có ai tới, ngài thường làm một trong hai việc: sửa
những trái banh túc cầu đã mòn cho những đứa trẻ địa phương, hoặc dùng ngón tay
cái lật một cuốn từ điển lớn bằng tiếng Trung Quốc. Ngài đã ở Trung Quốc nhiều
năm và muốn duy trì ngôn ngữ của họ. Ngài thường nói rằng khi người ta thấy
ngài làm những việc hoàn toàn vô dụng như sửa trái banh cũ hoặc cố gắng thông
thạo tiếng Trung Quốc như thế, họ thường nghĩ: "Tôi phải tới và nói chuyện với vị linh mục này mới được, vì ngài
rõ ràng không có mấy việc để làm!" Ngài sẵn sàng có đó cho những gì
thiết yếu. Ngài đã dành nhiều giờ thường xuyên để nghe người ta xưng tội, nhưng
ngài luôn ở đó. Ngài đã phá bỏ các trở ngại luôn coi mình có vẻ bận rộn và
nghiêm trọng. Vấn đề là ở chỗ này: người ta không đến với các linh mục khi họ
thấy các ngài luôn bận bịu và chạy đôn chạy đáo.
Mọi người đều đã biết các
cha giải tội tốt lành. Chúng ta phải học hỏi từ các cha giải tội tốt lành của
chúng ta, những vị được mọi người tìm kiếm, những vị không làm cho họ sợ mà còn
giúp họ nói chuyện thành thực, như Chúa Giêsu đã làm với Nicôđêmô. Điều quan trọng
là hiểu ngôn ngữ thân xác, đừng hỏi những điều đã hiển nhiên qua ngôn ngữ thân
xác. Nếu có người nào đến xưng tội thì họ chính là hối nhân; sự ăn năn đã hiển
hiện. Họ đến xưng tội vì họ muốn thay đổi. Hoặc ít nhất họ muốn được muốn thay
đổi, nếu họ nghĩ rằng tình huống của họ không thể thay đổi. Ad impossibilia
nemo tenetur, như câu châm ngôn cũ vốn nói: không ai bị buộc phải làm những điều
không thể làm được.
Ngôn ngữ thân xác. Tôi có
đọc trong tiểu sử của một trong các vị thánh gần đây của chúng ta: vị thánh tội
nghiệp này chịu nhiều đau khổ thời chiến tranh. Ngài phải giải tội cho một người
lính sắp sửa đối diện với đội xử bắn. Người đàn ông này rõ ràng là một thứ hay
tán gái, nên vị thánh của chúng ta hỏi anh ta: “anh có hối hận về việc này không?”. Người đàn ông trả lời: “Thưa cha, không! Nó tuyệt lắm!” Vị
thánh của chúng ta không biết phải làm gì. Đội xử bắn đang chờ để xử tử anh ta,
nên anh ta nói: “ít nhất, cha cũng hãy
cho con biết cha có hối hận vì đã không hối hận hay không?”… “Chắc chăn có!”… “Vậy thì tốt!” Vị giải
tội luôn tìm cách hành động và ăn nói đúng thời đúng lúc để chiếm được tâm điểm
sự vật.
Chúng ta phải học hỏi từ
các cha giải tội tốt, những cha dịu dàng với người tội lỗi, những cha sau một
vài lời, đã hiểu mọi sự, như Chúa Giêsu đã hiểu với người phụ nữ bị xuất huyết,
và ngay lập tức, sức mạnh tha thứ đã từ các ngài tuôn ra. Tôi luôn được xây dựng
bởi một vị hồng y trong giáo triều, người tôi nghĩ khá nghiêm ngặt. Nhưng khi
ngài gặp một hối nhân tỏ ra bối rối rõ ràng về việc xưng thú tội lỗi, chỉ sau một
vài lời, ngài sẽ ngắt ngang để nói với họ rằng ngài đã hiểu và để họ tiếp tục.
Ngài ngắt ngang vì ngài đã hiểu. Đó là tài ứng biến. Nhưng có những vị giải tội
khác, xin lỗi, cứ thế mà dò với xét. “Nói
cho cha điều này, nói cho cha điều nọ”. Anh em có thực sự cần mọi chi tiết ấy
để giải tội không hay anh em muốn “làm
phim”? Vị hồng y kia xây dựng tôi rất nhiều.
Sự toàn vẹn của phép xưng
tội không phải là một vấn đề toán học. Bao nhiêu lần? Cách nào? Khi nào? Đôi
khi người ta cảm thấy ít xấu hổ khi xưng thú một tội hơn là phải nêu rõ số lần
họ vi phạm tội đó. Chúng ta phải để mình được đánh động bởi tình huống của người
ta, một tình huống có khi hỗn tạp, gồm cả việc làm riêng của họ, lẫn sự yếu đuối
của con người, tội lỗi và những giới hạn không thể nào vượt qua được. Chúng ta
phải giống như Chúa Giêsu, Đấng đã xúc động sâu xa khi thấy người ta và các vấn
đề của họ, và cứ liên tục chữa bệnh cho họ, cả khi họ "không yêu cầu thích đáng", như người phung cùi kia, hoặc
xem ra đang nói loanh quanh, như người phụ nữ Samaria. Người phụ nữ này giống
như con chim chúng tôi có ở Nam Mỹ: nó quác quác ở một nơi nhưng tổ của nó thì ở
nơi khác. Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn.
Chúng ta phải học hỏi từ
các cha giải tội biết giúp các hối nhân cảm nhận được việc sửa đổi bằng cách bước
những bước tiến nhỏ, như Chúa Giêsu, Đấng đã đưa ra một việc đền tội thích đáng
và biết đánh giá cao người phung cùi trở lại cảm ơn Người, một người được Chúa
ban nhiều hơn. Chúa Giêsu đã không tính toán với người bại liệt, nhưng Người đã
làm cho người đàn ông mù và người phụ nữ Syro-Phoenician phải kêu xin. Đối với
Người, không thành vấn đề nếu họ không lưu ý đến Người, giống như người bại liệt
tại hồ bơi Bethzatha, hoặc nói với người khác những gì Người ra lệnh cho họ đừng
nói, kết quả chính Người trở thành người phong cùi, vì Người không thể vào các
thị trấn hay vì kẻ thù của Người tìm lý do để kết án Người. Người chữa lành người
ta, tha thứ tội lỗi của họ, xoa dịu nỗi đau của họ, cho họ nghỉ ngơi và làm họ
cảm nhận được hơi thở an ủi của Thần Khí.
Có lẽ một số anh em đã
nhe điều tôi sắp kể. Ở Buenos Aires, tôi biết một tu sĩ dòng Capuchin. Hiện
ngài còn sống. Ngài nhỏ tuổi hơn tôi và là một cha giải tội vĩ đại. Luôn luôn
có một hàng nối đuôi dài trước tòa giải tội của ngài, nhiều người xưng tội – đủ
loại người, giầu và nghèo, linh mục và nữ tu– suốt ngày. Ngài thực sự tốt lành
trong việc tha thứ. Ngài luôn tìm cách để tha thứ và đem người ta tiến theo. Quả
là một hồng phúc thực sự của Thần Khí. Nhưng thỉnh thoảng có khi sinh ra bối rối
về việc tha thứ dễ dàng như thế. Có lần, trong khi trò chuyện, ngài nói với
tôi: "Đôi khi con bối rối quá".
Do đó, tôi hỏi ngài: "cha làm gì khi
cha bối rối như thế?" Ngài trả lời: "con đến trước nhà tạm, con nhìn Chúa chúng ta và con thưa với Người
‘Lạy Chúa, xin tha tội cho con, hôm nay con đã tha thứ rất nhiều. Nhưng chúng
ta hãy làm rõ việc này, tất cả đều là lỗi của Chúa, vì Chúa đã làm gương xấu
cho con!’” Ngài đã thêm lòng thương xót vào lòng thương xót.
Cuối cùng, liên quan tới
việc xưng tội, tôi có hai lời khuyên nhỏ. Thứ nhất, không bao giờ hành động giống
như một viên chức hay một quan tòa, một người chỉ thấy các "trường hợp" phải xử lý. Lòng thương xót giải phóng chúng
ta khỏi thứ linh mục này, thứ linh mục quen thuộc với việc phán xử các "trường hợp" đến nỗi hết nhạy
cảm với những con người, với những khuôn mặt. Khi tôi học năm thần học thứ hai,
tôi quen cùng các bạn cùng lớp tới nghe các cuộc khảo hạch công khai các sinh
viên thần học năm thứ ba, những người sắp sửa chịu chức thánh. Chúng tôi đi để
học hỏi và luôn học được một điều gì đó. Có lần, tôi còn nhớ, một sinh viên được
hỏi về đức công bình, nhưng câu hỏi quá khó hiểu và không hiện thực đến nỗi
sinh viên này trả lời một cách rất khiêm tốn rằng: “Nhưng thưa cha, điều này không bao giờ xẩy ra ở đời thực!”. Sinh
viên này được trả lời: “Nhưng nó có trong
sách vở!”. Đúng là luân lý sách vở, chẳng liên quan gì tới kinh nghiệm.
Quy tắc của Chúa Giêsu là
"đừng phán xét để khỏi bị phán xét". Đây là chìa khóa để chúng ta
phán xử: chúng ta phải đối xử với những người khác một cách xứng đáng, chúng ta
không được hạ giá hoặc ngược đãi họ, chúng ta giúp nâng họ dậy, và chúng ta đừng
bao giờ quên rằng Chúa sử dụng chúng ta, dù chúng ta yếu đuối, làm khí cụ của
Người. Không nhất thiết vì phán xử của chúng ta "tốt nhất", nhưng vì
nó chân thành và có thể xây dựng được một mối quan hệ tốt.
Mẩu lời khuyên nữa của
tôi là không nên tò mò ở trong tòa giải tội. Thánh Therese cho chúng ta biết:
khi các đệ tử của bà tâm sự với bà, bà rất cẩn thận không hỏi sự việc kết quả
ra sao. Bà không xoi mói linh hồn người ta (Xem Truyện Một Linh Hồn, thủ bản C,
gửi Mẹ Gonzaga, c. XII, 32r.). Đặc điểm của lòng thương xót là che tội lỗi bằng
chiếc áo choàng của nó, để không làm tổn thương phẩm giá của người ta. Giống
như hai con trai của Nôê, đã dùng chiếc áo choàng che sự trần truồng của cha
mình khi ông say rượu (xem St 9:23).
Chiều kích xã hội của các việc thương xót
Giờ đây, ta hãy nói đôi
điều về chiều kích xã hội của các việc thương xót.
Vào cuối cuốn Linh Thao,
Thánh Inhaxiô viết bài "chiêm niệm để
đạt được tình yêu", một bài nối kết điều cảm nghiệm được trong lời cầu
nguyện với cuộc sống hàng ngày. Ngài làm chúng ta suy niệm về việc phải đặt
tình yêu vào việc làm nhiều hơn vào lời nói. Những việc làm này là các việc
thương xót mà Chúa Cha "đã chuẩn bị
từ trước làm cách sống của chúng ta" (Ep 2:10), những việc mà Chúa
Thánh Thần linh hứng nơi mỗi người vì lợi ích chung (xem 1Cr12: 7). Trong lúc cảm
tạ Chúa vì tất cả những hồng phúc chúng ta nhận được từ lòng rộng rãi của Người,
chúng ta xin ơn biết mang đến cho tất cả nhân loại lòng thương xót vốn đã cứu rỗi
chúng ta.
Về chiều kích xã hội
này, tôi đề nghị chúng ta suy niệm về một
trong những đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng. Ở đấy, chính Chúa nối kết giữa điều
chúng ta nhận được và điều chúng ta được kêu gọi cho đi. Chúng ta có thể đọc những
kết luận này với chìa khóa "các việc
thương xót", những việc từng cụ thể hóa thời của Giáo Hội, thời trong
đó Chúa Giêsu phục sinh sống, hướng dẫn, sai đi và kêu gọi sự tự do của chúng
ta, một sự tự do tim thấy nơi Người sự thể hiện cụ thể hàng ngày.
Thánh Mátthêu nói với
chúng ta rằng Chúa gửi các Tông Đồ của Người ra đi để làm cho mọi dân tộc trở
thành môn đệ bằng cách "dạy họ giữ hết
mọi điều Thầy đã truyền dạy" (28:20). Việc "mở dạy kẻ mê muội" này chính là một trong các việc
thương xót. Nó tỏa lan như ánh sáng đối với các việc khác: những việc được liệt
kê trong Tin Mừng Mátthêu chương 25, tức các việc liên quan nhiều hơn với những
điều gọi là "các việc thương người về
phần xác", và với mọi điều răn và lời khuyên Phúc Âm, như "tha thứ", "anh em sửa chữa
cho nhau", an ủi người buồn sầu, và chịu đựng sự bách hại...
Tin Mừng Maccô kết thúc với
hình ảnh về Chúa, Đấng "hợp
tác" với các Tông Đồ và "xác
nhận lời nói bằng những dấu lạ kèm theo". Những "dấu chỉ" này rất giống với các việc thương xót. Trong số
nhiều điều khác, Thánh Maccô nói đến việc chữa lành người bệnh và xua đuổi ma
quỉ (xem 16: 17-18).
Thánh Luca tiếp tục Tin Mừng
của ngài bằng cuốn "Công Vụ"
- tức các thực hành - của Các Tông Đồ, thuật lại lịch sử các ngài hành động ra
sao và các việc các ngài làm, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh.
Tin Mừng Thánh Gioan kết
thúc bằng cách đề cập đến "nhiều việc
khác" (21:25) hay "các dấu
lạ" (20:30) mà Chúa Giêsu đã làm. Các hành động của Chúa, các việc Người
làm, không phải chỉ là những việc làm mà đều là những dấu lạ qua đó, bằng một
cách hoàn toàn có tính bản thân, Người tỏ bầy tình yêu và lòng thương xót của
Người cho mỗi người.
Chúng ta có thể chiêm ngắm
Chúa, Đấng sai chúng ta đi thi hành sứ vụ này, bằng cách dùng bức ảnh Chúa
Giêsu hay thương xót như đã được tiết lộ với Nữ Tu Faustina. Trong bức ảnh này,
chúng ta có thể nhìn thấy lòng thương xót như một tia sáng duy nhất phát xuất từ
thẳm sâu Thiên Chúa, băng qua trái tim Chúa Kitô, và xuất hiện thành nhiều màu
sắc đa dạng, mỗi mầu đại diện cho một việc thương xót.
Các việc thương xót thì
vô tận, nhưng mỗi việc mang dấu ấn của một khuôn mặt đặc thù, một lịch sử bản
thân. Chúng không phải chỉ là những bản danh sách liệt kê bảy việc phần xác và
bảy việc phần hồn của lòng thương xót. Các danh sách này giống như các nguyên vật
liệu - vật liệu của chính cuộc sống – sau khi được nhào nặn bởi bàn tay thương
xót, biến thành một sáng tạo nghệ thuật cá nhân. Mỗi việc sẽ được hóa nhiều giống
như bánh mì trong các giỏ; mỗi việc đem lại sự phát triển phong phú như hạt cải.
Vì lòng thương xót vốn sinh hoa trái và có tính bao gồm.
Chúng ta thường nghĩ đến
những việc thương xót một cách cá thể và trong tương quan với một sáng kiến
chuyên biệt: bệnh viện cho người nghèo, nhà bếp nấu cháo cho người đói ăn, nơi
tạm trú cho người vô gia cư, trường học cho những người cần được giáo dục, hướng
dẫn xưng tội và linh đạo cho những người cần huấn đạo và tha thứ ... Nhưng nếu
nhìn vào các việc thương xót như một toàn thể, chúng ta sẽ thấy rằng đối tượng
của thương xót là chính sự sống của con người và tất cả mọi thứ nó bao trùm.
Chính sự sống, vì là một "xác thịt",
nên biết đói biết khát; nó cần phải được mặc quần áo, cung cấp chỗ ở và được viếng
thăm, ấy là chưa nói tới việc được chôn cất tươm tất, một điều không một ai
trong chúng ta, dù giầu có bao nhiêu, có thể tự làm cho chính mình. Ngay cả những
người giàu có nhất, trong cái chết, cũng trở thành kẻ khốn cùng; không hề có xe
dọn đồ trong đoàn xe tang. Chính sự sống, vì là một "tinh thần", nên cần được giáo dục, sửa trị, khuyến khích
và an ủi. Chữ cuối cùng vừa rồi rất quan trọng trong Thánh Kinh; anh em hãy
nghĩ tới Sách An Ủi Israel trong Isaia. Chúng ta cần người khác để huấn đạo
chúng ta, tha thứ cho chúng ta, chịu đựng chúng ta và cầu nguyện cho chúng ta.
Gia đình là nơi những việc thương xót này được thực hành một cách bình thường
và khiêm tốn đến nỗi chúng ta thậm chí không nhận ra. Ấy thế nhưng, một khi một
gia đình có trẻ nhỏ mất đi người mẹ, mọi sự bắt đầu tan rã. Hình thức nghèo nàn
độc ác nhất và tàn nhẫn nhất là hình thức các trẻ em đường phố, không cha mẹ và
làm mồi cho đủ thứ kền kền.
Chúng ta đã xin được ơn
trở nên dấu chỉ và dụng cụ. Bây giờ chúng ta phải "hành động", không chỉ bằng những cử chỉ, nhưng còn bằng
các dự án và cơ cấu, bằng cách tạo ra một nền văn hóa thương xót. Nền văn hóa
này không y hệt như nền văn hóa từ thiện; ta cần phân biệt hai loại văn hóa
này. Một khi đã bắt đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được ngay lập tức rằng Thần Khí
lên sinh lực và nâng đỡ các việc này. Thần Khí làm việc này bằng cách sử dụng
các dấu chỉ và dụng cụ Người muốn, ngay cả đôi khi các dấu chỉ và dụng cụ này
xem ra không phải là những dấu chỉ và dụng cụ thích đáng nhất. Thậm chí, người
ta còn có thể nói được rằng, để thực hiện các việc thương xót, Thần Khí có xu
hướng lựa chọn những dụng cụ nghèo nàn nhất, khiêm tốn nhất và vô nghĩa nhất,
những dụng cụ chính chúng cũng cần các tia thương xót đầu tiên của Thiên Chúa hơn
cả. Chúng là những dụng cụ có thể được lên khuôn và chuẩn bị tốt nhất để phục vụ
hữu hiệu và tốt đẹp nhất. Niềm vui khi nhận ra rằng chúng ta là "đầy tớ vô dụng" được Chúa
chúc phúc với tính sinh hoa trái của của ân sủng Người, được Người cho ngồi tại
bàn ăn của Người và dọn Thánh Thể cho chúng ta, là một xác nhận rằng chúng ta
đang tham gia vào các việc thương xót của Người.
Các tín hữu của chúng ta
rất vui được tụ tập quanh các việc thương xót. Chỉ cần tới dự triều kiến chung
vào các hôm Thứ Tư, anh em sẽ thấy rất nhiều nhóm và hiệp hội dấn thân vào các
việc thương xót. Trong các cuộc cử hành sám hối và lễ hội, và trong các hoạt động
giáo dục và từ thiện, tín hữu của chúng ta tự nguyện đến với nhau và để được
chăn dắt theo những cách không luôn được nhìn nhận hoặc đánh giá cao, trong khi
rất nhiều kế hoạch mục vụ trừu tượng và có tính học thuật hơn của chúng ta
không tiến hành được. Sự hiện diện lớn lao của tín hữu chúng ta trong các đền
thánh và các cuộc hành hương là một sự hiện diện ẩn danh, nhưng chỉ ẩn danh vì
nó bao gồm rất nhiều khuôn mặt và trong một mong muốn đơn giản chỉ để được Chúa
Giêsu và Đức Mẹ nhìn một cách thương xót. Cũng có thể nói tương tự như thế về rất
nhiều những cách, trong đó tín hữu giáo dân ta tham gia vào rất nhiều sáng kiến
liên đới; điều này cũng cần được chúng ta nhìn nhận, đánh giá cao và cổ vũ. Tôi
rất thích thú ngạc nhiên khi khám phá ra rằng ở Ý các tổ chức loại này rất mạnh
và mời gọi được rất nhiều người.
Là linh mục, chúng ta xin
hai ân sủng của Đấng Chăn Chiên Lành, là để ta được hướng dẫn bởi cảm thức đức
tin (fidei sensus) của tín hữu giáo dân chúng ta, và được hướng dẫn bởi "cảm thức người nghèo" của họ.
Cả hai "cảm thức" này phải
liên hệ với cảm thức Chúa Kitô (sensus Christi) mà Thánh Phaolô từng nói tới, với
tình yêu Chúa Kitô và đức tin vào Người của các tín hữu giáo dân chúng ta.
Chúng ta hãy kết luận bằng
cách đọc kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô (Anima Christi), lời cầu nguyện đẹp đẽ này
vốn nài xin lòng thương xót của Chúa, Đấng đã đến giữa chúng ta bằng xác thịt
và nhân từ nuôi dưỡng chúng ta bằng mình và máu của Người. Chúng ta xin Người tỏ
lòng thương xót đối với chúng ta và đối với dân của Người. Chúng ta xin linh hồn
của Người "thánh hóa chúng
con", thịt Người "cứu vớt
chúng con", máu của Người làm "say
sưa chúng con" và loại khỏi ta mọi cơn khát khác không phải là khát
Người. Chúng ta xin nước chảy ra từ cạnh sườn Người "rửa sạch chúng con", sự thống khổ của Người "củng cố chúng con". Lạy Chúa
chịu đóng đinh, xin Chúa an ủi dân của Chúa! Xin các vết thương của Chúa "che chở chúng con" ... Lạy
Chúa, xin ban ơn cho dân Chúa, để họ không bao giờ bị lìa xa Chúa. Xin đừng để
điều nào và người nào có thể tách chúng con ra khỏi lòng thương xót của Chúa, một
lòng thương xót bảo vệ chúng khỏi các cạm
bẫy của kẻ thù độc ác. Nhờ đó, lạy Chúa, chúng con sẽ hát ca những sự thương
xót của Chúa, cùng với mọi vị thánh của Chúa khi Chúa mời gọi chúng con đến với
Chúa.
[Đọc Kinh Lạy Linh Hồn
Chúa Kitô]
Thỉnh thoảng tôi nghe nhận
định của các linh mục nói rằng: "Đức
Giáo Hoàng này luôn la rầy chúng ta, luôn luôn la mắng chúng ta". Quả
có đôi chút thật. Nhưng tôi phải nói rằng tôi đã được xây dựng bởi một số linh
mục tốt lành! Bởi những vị - và tôi đã biết họ - thời trước khi có máy trả lời,
ngủ với máy điện thoại trên chiếc bàn ban đêm của các ngài. Không ai chết mà
không được chịu bí tích; khi điện thoại reo vào bất cứ giờ nào, các ngài cũng đều
đứng dậy và ra đi. Các linh mục tốt lành! Và tôi cảm ơn Chúa vì ơn phúc này. Tất
cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, nhưng chúng ta có thể nói rằng có rất nhiều
linh mục tốt lành và thánh thiện, những vị hoạt động âm thầm và không ai thấy.
Đôi khi có vụ tai tiếng xẩy ra, nhưng, như chúng ta đã biết, một cây khi nó đổ
gây nhiều ồn ào hơn cả một cánh rừng đang mọc.
Hôm qua tôi nhận được một
lá thư. Tôi để nó trên bàn của tôi với các thư từ cá nhân. Tôi mở nó hôm nay,
ngay trước khi đến đây và tôi tin rằng Chúa muốn tôi làm việc này. Nó đến từ một
linh mục ở Ý, một mục tử của ba thị trấn nhỏ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên lắng
nghe chứng từ này từ một trong những người anh em của chúng ta.
Nó được viết vào ngày 29
tháng 5, chỉ vài ngày trước đây thôi.
"Xin
lỗi con đã làm phiền Đức Thánh Cha. Con lợi dụng một người bạn linh mục đang tới
Rome để dự Năm Thánh của các linh mục để đơn giản gửi tới Đức Thanh Cha, trong
tư cách một linh mục bình thường phụ trách ba giáo xứ nhỏ miền núi, một vài suy
nghĩ về việc mục vụ của riêng con. Chúng được gợi ra bởi một số điều Đức Thánh
Cha đã nói, vốn thách thức con hàng ngày phải hồi tâm, và vì điều này con xin cảm
ơn Đức Thánh Cha. Con biết con không nói với Đức Thánh Cha bất cứ điều gì mới;
chắc chắn đây là những điều Đức Thánh Cha đã nghe trước cả rồi. Nhưng con cảm
thấy tự con phải nói ra.
Con
thường bỡ ngỡ bởi lời kêu gọi của Đức Thánh Cha muốn các chủ chăn chúng con có
mùi của chiên. Con đang ở trên vùng núi, vì vậy con biết rất rõ điều đó có
nghĩa gì. Chúng con trở thành linh mục để biết mùi đó, mùi thực sự là nước hoa
của đoàn chiên. Sẽ là điều tuyệt vời nếu việc tiếp xúc hàng ngày và các cuộc viếng
thăm đoàn chiên của chúng ta, vốn là lý do đích thực cho ơn gọi của chúng ta,
không bị thay thế bởi các trách nhiệm hành chính và bàn giấy tại các giáo xứ,
trường học và vv. Con may mắn có được những giáo dân tốt và có khả năng đảm nhiệm
những điều này. Nhưng là người đại diện hợp pháp duy nhất của giáo xứ, với tất
cả mọi trách nhiệm của mình, vị mục tử luôn kết cục phải chạy đôn chạy đáo, đôi
khi phải cho các cuộc viếng thăm người bệnh và các gia đình xuống dưới chót.
Con nói điều này về bản thân con. Đôi khi, quả ngã lòng khi thấy trong đời sống
linh mục của con, con đã bị liên lụy vào các vấn đề hành chính và bàn giấy, mà
giáo dân của con, mà đoàn chiên nhỏ đã được ủy thác cho con chăm sóc, hầu như
phải tự lo liệu lấy cho bản thân họ. Thưa Đức Thánh Cha, xin Đức Thánh Cha tin
con khi con nói rằng việc ấy làm cho con đến phát khóc. Chúng con cố gắng tổ chức
sự việc, nhưng cuối cùng, chỉ gặp những cơn lốc trong công việc hàng ngày.
Một
điều khác Đức Thánh Cha đã nói đến là thiếu tình cha con. Người ta bảo xã hội
ngày nay thiếu những người cha và người mẹ. Điều làm con ngỡ ngàng là cả chúng
con cũng có thể đã từ bỏ tư cách làm cha tinh thần, tự để cho mình bị giản lược
thành những ông bàn giấy thánh thiêng, với kết quả đáng buồn là chúng con cảm
thấy bị bỏ rơi và cô độc. Như thế, khó khăn của chúng con trong việc làm cha có
những vang dội không thể tránh khỏi đối với các bề trên của chúng con, những vị
có các trách nhiệm và những vấn đề riêng của các ngài. Mối liên hệ của các ngài
với chúng con cũng có thể có nguy cơ trở thành hoàn toàn có tính hình thức
trang trọng, liên quan đến việc quản trị cộng đồng, chứ không liên quan gì đến
cuộc sống của chúng con như những con người, những tín hữu và những linh mục.
Tất
cả điều này - và ở đây con xin kết luận – không lấy mất điều gì khỏi niềm vui
và sự phấn khích của con được làm một linh mục cho mọi người và với mọi người.
Nếu có những lúc, trong tư cách một mục tử, con không có mùi chiên, con vẫn cảm
động khi nhận ra rằng đoàn chiên của con không mất mùi của vị mục tử của mình!
Thưa Đức Thánh Cha, quả là một điều tuyệt vời khi nhận ra rằng đoàn chiên không
bỏ chúng con cô độc. Họ có thể đo lường mức độ chúng con có đó cho họ, và nếu
không may vị mục tử lạc xa đường và mất hướng đi, họ sẽ đi tìm ngài và lấy tay
nắm lấy ngài. Con luôn cảm ơn Chúa vì Người luôn cứu chúng con qua bầy chiên, bầy
chiên được trao phó cho chúng con, tất cả những con người tốt lành, tầm thường,
khiêm tốn và thanh thản, đoàn chiên là phước lành thật sự của mọi người chăn
chiên.
Con
muốn gửi cho Đức Thánh Cha những suy nghĩ đơn giản nhỏ mọn này vì Đức Thánh Cha
gần gũi với đoàn chiên. Đức Thánh Cha có thể hiểu chúng con và có thể tiếp tục
giúp đỡ và nâng đỡ chúng con. Con cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và con cảm ơn Đức
Thánh Cha, về việc thỉnh thoảng "trách mắng" mà con cảm thấy cần thiết
cho cuộc hành trình của con. Thưa Đức Giáo Hoàng Phanxicô, xin Đức Giáo Hoàng
chúc lành cho con và cầu nguyện cho con và cho giáo xứ của con.
"
Ngài đã ký bức thư rồi,
cuối cùng, viết thêm, như mọi mục tử tốt lành: "con để lại cho Đức Thánh Cha một tặng phẩm nhỏ. Xin Đức Thánh Cha
cầu nguyện cho cộng đồng của con, đặc biệt cho các người bệnh nặng và một vài
gia đình có khó khăn tài chính, và không chỉ khó khăn tài chánh. Cảm ơn Đức
Thánh Cha!"
Đây là một trong những
người anh em của chúng ta. Có rất nhiều người khác như vị này! Hiển nhiên nhiều
vị đang ở đây giữa chúng ta. Nhiều lắm. Ngài chỉ đường cho chúng ta. Vì vậy,
chúng ta hãy tiến lên phía trước! Đừng quên cầu nguyện. Hãy cầu nguyện bao
nhiêu có thể, và nếu anh em ngủ gục trước nhà tạm, thì cứ ngủ đi. Nhưng hãy cầu
nguyện! Đừng bao giờ để mất việc này. Đừng bao giờ quên để mình được Đức Mẹ ngắm
nhìn, và luôn giữ lấy ngài làm Mẹ của anh em. Đừng bao giờ mất lòng nhiệt thành
của anh em, cả sự gần gũi và sẵn sàng có đó cho giáo dân của anh em. Và điều
này nữa, tôi xin phép nói: Đừng bao giờ mất cảm thức hài hước ... Vì vậy, hãy
tiến lên phía trước!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét