TÌNH LIÊN ĐỚI
Mon,
31/10/2016 - Trầm Thiên Thu
Ngày nay, nhân loại đang
phải đối mặt với rất nhiều loại khủng hoảng và thuộc mọi lĩnh vực khác nhau.
Tình trạng khủng hoảng có thể tạo ra các nguy cơ nhưng đồng thời cũng kiến tạo
những cơ hội để con người có thể xích lại gần nhau, cùng nhau chung tay đắp xây
tình người – tình liên đới.
Tình liên đới không chỉ nối
kết con người với nhau, mà còn là mối tương quan hài hòa giữa mỗi chúng ta với
Thiên Chúa và vạn vật. Thánh GH Gioan Phaolô II nhận định: “Tình liên đới phải
góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa trên bình diện cá nhân lẫn
bình diện xã hội, quốc gia và quốc tế” (Sollicitudo Rei Socialis, số 40, năm
1987).
Theo Học thuyết Xã hội của
Giáo hội Công giáo, sự liên đới là một nguyên tắc cốt lõi: “Liên đới nhấn mạnh
đặc biệt đến bản tính xã hội nội tại của con người, sự bình đẳng của mọi người
về phẩm giá và các quyền và con đường chung của các cá nhân và các dân tộc hướng
đến một sự hợp nhất ngày gắn bó hơn... Việc gia tăng tương thuộc giữa các cá
nhân và các dân tộc cần phải được kèm theo những nỗ lực mãnh liệt không kém
trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu quả nguy hiểm của việc đưa bất
công lên tầm mức toàn cầu. Việc tăng tốc tình trạng tương thuộc giữa các cá
nhân và các dân tộc cần phải được đi kèm với những nỗ lực mãnh liệt không kém
trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu quả nguy hiểm của việc đem bất
công lên phạm vi toàn cầu” (Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược
Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 192, năm 2005).
Sự liên đới (solidarité,
solidarity) là gì? Sự liên đới được xây dựng trên căn bản triết lý về quan niệm
của con người như một hữu thể xã hội, một thành phần của nhân loại, và đặc biệt
là một nhân vị. Vận mệnh của mỗi người được nối kết và gắn chặt với vận mệnh của
những người khác. Vì vậy, mối tương quan và sự liên đới là chiều kích sâu thẳm
của những con người chung sống với nhau trong xã hội.
Cuộc sống có nhiều thứ
liên đới với nhau: thực phẩm, kiến thức, dụng cụ, tình cảm,… Rất nhiều và rất
nhiều lĩnh vực. Nhưng có hai lĩnh vực nổi bật là Sự Nghèo Khó và Tội Lỗi.
I. LIÊN ĐỚI VỀ SỰ NGHÈO KHÓ
Tình liên đới muốn đề cập
ở đây bao hàm ý tưởng hiệp nhất, chia sẻ cảnh ngộ, cảm thương những phận đời hẩm
hiu, đồng thời tự cảm thấy có một thứ trách nhiệm nào đó trước những nỗi bất hạnh
của đồng loại. Vì vậy, cố gắng tiếp tay giải quyết vấn đề bằng công tác xã hội,
tương thân tương ái hoặc đấu tranh, nhằm thực hiện công bằng xã hội và cải tổ
cơ cấu bất công.
Đối với Giáo huấn Xã hội
Công giáo, nguyên tắc liên đới cùng với nguyên tắc công ích ưu tiên chọn lựa
người nghèo để định hướng mối tương quan giữa người với người, giữa các xã hội
với nhau.
Theo nguyên tắc nhập thể
của Đức Kitô, Công đồng Vatican II long trọng cam kết mối liên đới của Giáo hội
với con người và thế giới hôm nay: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ
và âu lo của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo và của những ai
đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, buồn khổ và âu lo của các môn đệ Đức
Kitô. Không có gì đích thực nhân loại mà lại không có âm vang nơi cõi lòng người
môn đệ Đức Kitô” (Vatican II, Gaudium et Spes, số 1).
Người nghèo bị xã hội coi
là kẻ hèn hạ nên coi thường hoặc khinh miệt. Tuy nhiên, người nghèo là những
người quan trọng đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã căn dặn: “Khi đãi tiệc, hãy
mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14:13). Có lẽ chúng
ta nghĩ là Ngài “nói đùa”. Không hề! Ngài nói thật, nói rõ, nói theo nghĩa đen
luôn chứ chẳng bóng gió gì đâu.
Điều này đã được Mẹ Thánh
Teresa Calcutta (1910-1997) học và hành đúng với lời khuyên của Chúa Giêsu: phục
vụ những người nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Bí quyết sống vì người
nghèo của Mẹ Teresa thế này: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu
bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể”.
Người nghèo xuất hiện
nhãn tiền ở bất cứ xã hội nào, đất nước nào, mọi nơi và mọi lúc. Đúng như Chúa
Giêsu đã nói trước: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga
12:8). Chúng ta có sự liên đới với nghèo, họ nghèo vì chúng ta không nâng đỡ họ.
Khi cần kíp thì chúng ta có thể cho họ con cá, nhưng chúng ta cần giúp họ cái cần
câu, quan trọng hơn nữa là chúng ta phải giúp họ có thái độ sống tích cực. Dù
là người đời, nhưng tiền nhân Việt Nam cũng đã nhận định chính xác, rạch ròi,
và nhân bản, qua câu ca dao tục ngữ này:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn
Nhiễu điều phủ lấy giá
gương
Người trong một nước phải
thương nhau cùng
Nói về sự khó nghèo,
chúng ta không thể không đề cập Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963). Khi ngày nhận
chức thượng phụ Venezia năm 1953, ngài chia sẻ: “Đời Giám mục mà cứ phải ngồi
bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào
tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình (72 tuổi). Từ nay tôi nghèo hơn
trước, một vị hồng y nghèo lo giúp người nghèo... Tôi thấy mình như một bà mẹ
nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo. Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ
tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung
đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng
vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì
gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ của Chúa”.
Không chỉ vậy, ngài còn rộng
mở cả tấm lòng. Điều này được chứng minh rõ ràng qua lời căn dặn này: “Bất luận
tôi đi đâu, nếu ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, họ sẽ thấy cửa
sổ tôi luôn có ngọn đèn sáng. Xin đừng ngại, hãy cứ gõ cửa. Tôi sẽ không hỏi
anh em là Công Giáo hay không, nhưng chỉ xin người anh em cứ vào, sẽ có đôi tay
thân ái đón tiếp và tấm lòng bạn hữu nồng hậu chào mời”.
Khi tuổi già, sức yếu,
ngài viết chúc thư với lời lẽ đơn sơ và chân thành: “Sinh trưởng trong sự nghèo
nàn, ở một gia đình giản dị nhưng được trọng kính, tôi rất sung sướng được chết
trong sự nghèo nàn, vì theo sự đòi hỏi và các trường hợp sinh sống của cuộc đời
giản dị và hèn mọn của tôi, tôi đã phân phát cho người nghèo và Giáo Hội đã
nuôi dưỡng tôi, những gì ít ỏi của tôi đã có, trong những năm làm linh mục và
giám mục”. Cuối cùng, “cụ già nhân từ” Gioan XXIII nghiêm túc xác định: “Sinh
nghèo, do cha mẹ nghèo nhưng khả kính, tôi đặc biệt sung sướng được chết
nghèo”.
Với xã hội nhân loại, người
nghèo thuộc hạ lưu, thậm chí còn bị coi không bằng thú cưng của họ. Nhưng với
không thể, người nghèo là vĩ nhân, họ thực sự can đảm. Thánh Giacôbê căn dặn
chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (x. Gc 2:1-9). Thánh Giacôbê xác quyết:
“Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người
có tội về hết mọi điểm” (Gc 2:10).
II. LIÊN ĐỚI VỀ TỘI
LỖI
Liên đới với cái xấu được
gọi là liên lụy. Vì thế, chúng ta gọi là “liên lụy tội lỗi”.
Liên lụy tội lỗi có liên
quan “cấu trúc tội”. “Cấu trúc tội” là điều mà những người sống phóng khoáng
dùng để che giấu thực tế trách nhiệm cá nhân đối với tội lỗi đã phạm. Tất cả
các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân.
Tuy nhiên, tội lỗi ảnh hưởng
nhiều hơn tội nhân. Nó ảnh hưởng mọi người. Khi một chi thể trong Nhiệm thể
Chúa Kitô phạm tội, tất cả chúng ta đều chịu đau khổ. Một số người ảnh hưởng trực
tiếp, nhưng tất cả chúng ta đều yếu đuối. Do đó, khi chúng ta muốn hòa giải với
Thiên Chúa, chúng ta cũng phải giải hòa với cả Giáo hội, không chỉ với người
này hay người nọ mà có thể chúng ta đã làm tổn thương. Vì thế có “chiều kích xã
hội” đối với tội lỗi.
Có “chiều kích xã hội” vì
nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không
chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do
người khác phạm trực tiếp.
Chúng ta liên lụy hoặc
liên can tội lỗi của người khác bằng cách nào? Chúng ta phạm tội qua hành động
của người khác bằng nhiều cách. LM John Zuhlsdorf cho biết thế này:
1. TƯ VẤN: Nếu bạn tư vấn hoặc xúi người khác làm điều
tội lỗi, và họ làm, bạn đã phạm tội bằng cách can dự vào tội lỗi của người đó.
2. MỆNH LỆNH: Nếu bạn có quyền trên người khác, và bạn
ép buộc người khác phạm tội, trong khi người đó có thể giảm tội, còn bạn thì
không.
3.
ƯNG THUẬN: Nếu người ta yêu cầu bạn mà bạn nghĩ tội lỗi là điều tốt có thể
làm, bạn có thể chủ động với tình huống đó, và nếu bạn cho phép hoặc ưng thuận
thì bạn đã phạm tội.
4. KHIÊU KHÍCH: Bạn khiêu khích hoặc thách thức người khác
làm điều xấu mà họ không muốn.
5. NỊNH BỢ: Khá
rõ ràng. Đây là cách khác để phạm tội.
6. CHE GIẤU: Một
người phạm tội và rồi bạn giúp người đó che giấu chứng cớ hoặc động thái.
7. ĐỒNG LÕA: Một
người khác là người chính có liên can, nhưng bạn có mặt ở đó hỗ trợ hành vi tội
lỗi. Chẳng hạn, một người giúp bác sĩ phá thai, một chính khách giúp nhà cầm quyền
hoặc nói về việc nhận thức đối với “hôn nhân” trái tự nhiên bằng cách ủng hộ.
8. IM LẶNG: Có
một câu nói rất thường gặp: “Im lặng là đồng ý”. Nếu một người có quyền thế hoặc
có quyền về luân lý có nhiệm vụ ngăn chặn tội lỗi, nhưng lại im lặng và bàng
quan, điều đó có thể cấu thành việc can dự vào tội lỗi. Điều này quỷ quyệt mới
nghĩ ra được, nhưng đó không chỉ là sự im lặng quở trách. Có thể là can dự làm
giảm nhẹ tình huống, chẳng hạn như sự xâm chiếm Vatican, bắt Giáo hoàng và tiêu
diệt Giáo hội ở nhiều nơi. Trong khi đó, ai đó có thể im lặng làm ngơ. Tuy
nhiên, ai đó không làm được gì. Một điểm khác có thể được cân nhắc: Luật về việc
sửa lỗi anh em. Điều này không thể là vị trí của bạn để sửa lỗi người khác, tùy
trường hợp.
9. BIỆN HỘ: Khá rõ ràng. Đó là bạn biện hộ để ủng hộ tội lỗi.
Nhưng điều này không giống như luật sư biện hộ trước tòa cho người phạm tội.
Thiết tưởng mỗi chúng ta
cần thường xuyên xem lại các điểm trên đây để có những lúc chúng ta thực sự
chân thành kiểm tra lương tâm của mình. Tất cả chúng ta đều vướng vào những
tình huống khó khăn hoặc mơ hồ về luân lý, thế nên chúng ta cứ bị giằng co khi
phải chọn lựa giữa điều tốt hay xấu, giữa điều xấu nhiều hoặc xấu ít.
Cuối cùng, chúng ta phải
theo dõi chính mình, vì không ai biết rõ mình hơn chính mình, đồng thời cần
tương tác với người khác để khả dĩ cẩn trọng hai điều này:
a) Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng
cách can dự vào tội lỗi của người khác.
b) Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người
khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.
III.
LIÊN ĐỚI VỀ CẦU NGUYỆN
Giáo Hội Công Giáo hiệp
nhất mang tính liên đới giữa ba “giai cấp” các thánh: Giáo Hội Vinh Hiển (các
thánh trên Thiên Đàng), Giáo Hội Đau Khổ (các thánh nơi Luyện Hình, chắc chắn sẽ
được làm công dân của Nước Trời), và Giáo Hội Chiến Đấu (các thánh nơi Trần
Gian, hy vọng sẽ được làm công dân Nước Trời sau cuộc lữ hành khổ ải trần gian
này).
Đừng ngạc nhiên về cách
nói “các thánh nơi trần gian”. Tại sao chúng ta cũng là các thánh? Hãy nghe
Thiên Chúa truyền lệnh: “Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là
Đấng Thánh” (Lv 11:44; Lv 19:2; Lv 20:7). Chính Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh:
“Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt
5:48).
Sự liên đới giữa ba Giáo
Hội rất cần thiết và quan trọng, kỳ diệu là hiệu quả: Giáo Hội Vinh Hiển có thể
nguyện giúp cầu thay cho chúng ta, Giáo Hội Chiến Đấu có thể nguyện giúp cầu
thay cho Giáo Hội Đau Khổ. Giáo Hội Đau Khổ không thể làm gì cho họ nhưng lại
có thể nâng đỡ Giáo Hội Chiến Đấu. Tình liên đới hiệu quả giữa ba Giáo Hội chứng
tỏ rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa bao la vô hạn, cho chúng ta nhiều cơ hội
để trở nên công dân của Nước Trời.
Thánh Phó Tế Ephraem
(306-373), người Syria, là Tiến Sĩ Giáo Hội, là nhà soạn thánh ca và thần học
gia, ngài cho chúng ta biết chuỗi liên đới trong cuộc lữ hành trần gian: “Các
nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện: Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, lời cầu
nguyện ngăn chặn sự tức giận, lời cầu nguyện ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ, lời
cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng”.
Lời cầu nguyện thật là kỳ diệu biết bao!
Vâng, cầu nguyện là điều
quan trọng, vì thế mà cần phải cầu nguyện liên lỉ, mọi nơi và mọi lúc. Bác học
André-Marie Ampère (1775-1836) chia sẻ kinh nghiệm: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi
chúng ta cầu nguyện”. Còn Mẹ Thánh Terese Avila (1515-1582, người Tây Ban Nha),
Tiến Sĩ Giáo Hội, nói: “Thiên Chúa yêu thích những linh hồn khẳng khái nhưng có
ước vọng vĩ đại”.
Chúng ta có thể hình dung
Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng Tam Vị Nhất Thể, như một tam giác đều, trong đó các Cạnh-Liên-Đới
nối kết nhau tạo nên các Góc-Yêu-Thương, các cạnh và các góc không thể tách rời
nhau. Tình liên đới tâm linh mầu nhiệm quá!
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét