LUẬT VĨNH HẰNG
(Chúa Nhật III Mùa Chay, năm B)
(Mon,
26/02/2018 - Trầm Thiên Thu)
Văn hào Victor Marie Hugo
(1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp luật;
đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Còn văn thi sĩ Johann
Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn:
pháp luật và đạo đức”. Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác định: “Chính nhân
cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Và chắc chắn
chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119 (rất dài, với 176 câu).
Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa
thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).
Trong xã hội loài người,
bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ
là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc
nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế giới
gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên cần phải
có luật để tái lập trật tự.
Bởi vì luật có sau con
người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi
là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá
lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười
Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.
Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có thể
thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây là
SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.
Xin “mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các ngày Chúa nhật
(và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều răn…” thay vì Năm Điều
Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần thiết về giáo huấn của
Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử dụng kinh Năm Điều Răn Hội
Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con họp nhau kính
lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời
cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là “năm”. Chuyện nhỏ mà… không nhỏ.
Lệch pha!
BIẾT LUẬT
Cựu Ước có đề cập Thập Giới
(Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng thời
trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi đất
Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự
do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có
luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối
nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời
cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ”
(Xh 20:3-4).
Các Phúc Âm nhất lãm lặp
lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc
như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó
là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều
Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi
sự”.
Tiếp theo, Thiên Chúa
nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta,
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài
là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ
ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có
phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước”
mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?
Có lẽ chúng ta cảm thấy
cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là Đấng
giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà Ngài hứa
chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm
nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và công bằng,
Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh vực khác.
Đó là công lý. Chính
Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay
trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rất rõ
ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất
xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh
20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Đối với các Giới răn từ
thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ
ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm
mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như
con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.
Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong
đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày
Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu
trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được giết
người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG được
làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG
được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của
người ta”. Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ ràng,
rất rạch ròi.
Là Kitô hữu, ai cũng biết
luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì
không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).
GIỮ LUẬT
Giữ luật không chỉ là duy
trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng
hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu
biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật
Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ
sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv
19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và
đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa
hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch”
để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).
Thánh Vịnh gia cũng chân
nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự
“quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv
19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người
ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn
từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân,
là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái
với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại”.
Trong cuộc sống đời thường,
chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói rằng chín
người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu
nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực
khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một
Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận,
và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy
tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành, … chứ ai lại
ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người
ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc
chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí
ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù
là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!
Quả thật, Chúa Giêsu là
“dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn
khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng
“mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu rộng”,
nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí
là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận
là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ.
Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại, và rồi
có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới
thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”,
không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ dù vẫn
biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại người đó là “đầu đất” hoặc
“đầu tôm”. Tồi tệ thật!
Đối với “nhà thông thái”
Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý”
kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên
Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn
hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên Chúa đã xác
định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các
ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối
của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng
các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn, và chẳng bao giờ
phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài. Nhưng Ngài rất công minh chính trực,
công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ” cho những người chịu thua thiệt ở đời
này.
HƯỞNG
LUẬT
Trình thuật theo Thánh sử
Gioan cho biết rằng…
Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành
Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán
chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi
mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những
người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Bản tính thẳng thắn và
nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ
này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó,
các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo
việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa
Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông
lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga
2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba
ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).
Ui da! Ngôi Đền Thờ
Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại
chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!”. Bó toàn thân luôn
chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn,
“nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân
thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã
từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, đúng ra là họ
phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ
mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!
Tất cả còn trong “bức màn
bí ẩn”. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam
tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài
nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài
vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ,
vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chắc chắn chúng ta cũng
chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi
“đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và
muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện
mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị
thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”. Quả thật, đó là điều chúng ta phải suy
tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho đến
bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?”
(Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!
Lạy Thiên Chúa duy nhất
mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày
nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có
nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần
quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi”. Đôi khi con còn mắc những chứng bệnh trầm
kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên con vẫn làm ngơ
những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị
tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin Ngài thương giúp con
nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương xót họ bằng
chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp con can đảm chấp nhận mọi
thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu
độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Hội Thánh có năm điều
răn:
– Thứ nhất: Dự lễ và
kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc;
– Thứ hai: Xưng tội trong
một năm ít là một lần;
– Thứ ba: Rước Mình Thánh
Chúa trong mùa Phục Sinh;
– Thứ bốn: Giữ chay và
kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc;
– Thứ năm: Góp công góp của
xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét