CHỨNG MINH
( Chúa nhật XXIV TN, năm B)
Chứng minh là hình thức
suy luận để xác định tính chân lý của một vấn đề bằng cách đưa ra các dẫn chứng
cụ thể. Trong văn chương có loại luận văn chứng minh, chẳng hạn muốn chứng minh
câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, người ta cần dẫn chứng bằng các
trường hợp điển hình trong cuộc sống đời thường – cách “mài sắt” để có được
“cây kim”.
Tương tự, đức tin cũng cần
có cách thể hiện cụ thể, nếu không thì chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đức
tin thực sự quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Albert Camus (1913-1960, triết
gia và ký giả người Pháp) có cách lý luận thú vị về niềm tin: “Tôi thà sống cả
đời TIN có Thần Linh rồi chết mà phát hiện không có, còn hơn sống cả đời KHÔNG
TIN rồi chết mới phát hiện CÓ Thần Linh”.
Cuộc sống thế gian có nhiều
thứ trái ngược hoặc đối lập (phải – trái, trên – dưới, cao – thấp, tốt – xấu, …),
một trong các cặp đôi đối lập “đặc biệt” là Yêu – Ghét. Đó là hai động thái
trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá
mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu,
và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Chắc chắn rằng không ai lại
ghét chính mình, có lẽ vì thế mà đôi khi người ta lại yêu mình thái quá. Đó là
tự ái – tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy phải “ghét mình” và “yêu tha
nhân” (quên mình mới có thể quan tâm người khác). Chúa Giêsu luôn có kiểu “ngược
đời” như vậy, nhưng xét cho cùng thì rất có lý. Liệu Ngài có quá đáng hoặc xúi
giục chúng ta làm điều dại dột?
Cứ cho là cũng có thể
“hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai mà chỉ
nói thật. Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chúng ta dễ ỷ lại, thích tự
tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ sinh tật, khó thuần hóa, thế
nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói bướng bỉnh của
chúng ta. Mà cũng rất hợp lý, bởi vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám
chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!
Trình thuật Is 50:4-8 là
bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở trần
ai khoai củ, te tua tơi tả. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những
trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những
con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt
thông một cách oan ức nhưng vẫn kiên quyết tới cùng!
Nói về Người Tôi Trung,
ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một
người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người
đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức
Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng
tháo lui” (Is 50:4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không
“tham sanh, úy tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và
đó chính là hình bóng của Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Tiếp tục ngôn sứ Isaia tường
thuật: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Rất tự tin, rất hiên
ngang. Mọi gian truân chẳng là cái gì ráo trọi! Tại sao vậy? Ông cho biết rõ
ràng về động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi
đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn
thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50:7-8a). Càng
lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng dù gặp đủ thứ gian nan khốn
khó. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng
với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is
50:8b). Rất mạnh mẽ và kiên cường, bởi vì sống công chính thì chẳng có gì phải
sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi vẫn cứ là chính mình!
Thật vậy, nếu theo Chúa
và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói chắc
chắn: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng
tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116:1-2). Và mặc dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt,
lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116:3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà
tiến bước, không hề chùn chân hoặc thối chí. Nếu có gặp gian truân sầu khổ thì
vẫn một mực thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!”
(Tv 116:4). Chắc chắn Ngài sẽ thương mà giải thoát ngay, vì Ngài luôn đồng hành
với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Vả lại, Ngài chính
là Thiên Chúa tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ
xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là
luôn giữ lời hứa. Thánh Vịnh gia đã minh chứng cụ thể và sống động: “Chúa cứu gỡ
mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt
chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv
116:8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết,
toàn năng và bất biến.
Một kiểu đặt vấn đề rất
thú vị của Thánh Giacôbê: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo
đức tin, nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2:14),
và ngài phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và
không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình
an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang
cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:16). Tất nhiên đời sống tâm linh của chúng
ta cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và
26). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và tuyệt vời. Quả thật
là vậy, và vấn đề rất rạch ròi: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử
cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để
cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18). Chỉ có nước cứng họng, chẳng ai có thể
đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất
thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.
Một lần nọ, Chúa Giêsu đã
từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh,
mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7:9-10).
Nghe rồi thì chỉ có nước câm miệng chứ ai có thể phản biện được gì? Đó là cách
sống yêu thương, sống đức tin, sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), và là cách thể
hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau,
cũng như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc
thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).
Tất nhiên, Ngài không nói với các nữ giới mà nói với mọi người – bất kể ai.
Và rồi vào một dịp khác,
khi Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường,
Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27). Các ông đáp: “Họ bảo
Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một
ngôn sứ nào đó” (Mc 8:28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy
là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29).
Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”,
và cũng thật kỳ lạ!
Vậy mà Thầy Giêsu liền
nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Sau đó, Ngài
không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy
cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế
cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Mác-cô cho
biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở. Sự thật không thể khác
được, mặc dù đó là điều rất buồn!
Ôi chao, có lẽ Phêrô nhà
ta “cụt hứng” nên ông liền kéo riêng Thầy ra và bắt đầu trách. Nhưng Ngài quay
lại nhìn các môn đệ và thẳng thắn trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng
sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của
loài người” (Mc 8:33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị
giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì
khen mà dở thì phang ngay, không thiên tư hoặc vị nể chi hết. Tuyệt! Thật vậy,
những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn giáo hoàng Phêrô bị
nguyền rủa là Satan. Quá nặng, nhưng phải nghiêm khắc chấn chỉnh như thế mới có
thể nên người được!
Chúa Giêsu nói xong thì
thôi, không hề để bụng. Rồi Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và
nói: “Ai MUỐN THEO tôi, PHẢI TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình mà theo” (Mc
8:34). Thuận ngôn thì nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi là Chúa! Thế nhưng Ngài vẫn
thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn CỨU mạng sống mình thì sẽ MẤT; còn ai liều MẤT
mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ CỨU được mạng sống ấy” (Mc 8:35).
Hoán vị từ ngữ rất độc đáo. Thế nhưng Ngài không ép, hoàn toàn cho phép tự do
chọn lựa. Tùy ý mỗi người. Thích thì chiều. Vấn đề quan trọng không là thưa
“có” hoặc nói “không”, mà là phải chứng minh được điều đó bằng động thái cụ thể,
rạch ròi!
Liên quan việc chứng
minh, Hc 46:13-14 cho biết về ông Samuel: Ông là người được Chúa yêu thương, là
ngôn sứ, là người thiết lập nền quân chủ, là người xức dầu tấn phong các vị
lãnh đạo dân, có quyền xét xử cộng đồng theo Luật Chúa. Trước khi qua đời, ông
đã chứng minh trước mặt Chúa và Đấng được xức dầu: “Của cải, thậm chí cả giày
dép, tôi đã không lấy của một ai!”. Và chẳng có ai cáo tội ông. Một tấm gương
sáng về tính liêm khiết.
Lạy Chúa Tể càn khôn,
chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, thế mà lúc nào cũng tìm dịp “nổi dậy”
bằng lắm chiêu nhiều cách, chỉ đòi được Ngài thương mà không muốn yêu tha nhân,
không muốn bị ghen ghét mà lúc nào cũng liếc xéo hoặc mỉa mai tha nhân. Chúng
con thật hồ đồ và đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con chứng
minh bằng cách từ bỏ chính mình theo đúng ý Con Một Ngài. Chúng con cầu xin
nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét