Sep 16, 2018 - Chúa nhật 24 thường niên năm B
Các Bạn thân mến,
Trong thời gian Đức Giesu đi rao
giảng và tuyển mộ môn đệ, Ngài đã sống, giảng dạy, đi đây đó giữa loài người,
mong để lại một thông điệp cho nhân loại, đó là viết nó vào lòng của các môn
đệ, của một số người, nhưng nếu không ai thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, không
nắm được thông điệp của Ngài, thì công lao của Ngài chẳng đi đến đâu, công cuộc
cứu chuộc trần gian sẽ bế tắc. Nên vấn đề Đức Giesu phải đối đầu là cuộc sống
của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng nào chưa? Ngài đã thực hiện được những gì?
Đủ chưa? Dân chúng có khám phá ra Ngài là ai không? Vì thế trong thời gian này,
Đức Giesu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm, để Ngài nghe từ chính họ và thăm
dò dư luận quần chúng:
1.
"Người ta nói Thầy là ai?":
- Các ông đáp:"Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy Gỉa, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó."
- Nghĩa là Ngài
đã có ảnh hưởng đến dân chúng, dù suy nghĩ, nhận thức, phát biểu khác nhau
nhưng đều cùng một ý là họ đã nhận ra Ngài là một người đặc biệt thuộc về Thiên
Chúa.
- Rồi Ngài
quay ra hỏi các môn đệ:"Còn anh em, anh
em bảo Thầy là ai?"
- Câu hỏi này
nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường, để đạt tới một xác tín
cá nhân.
- Thình lình
ông Phero nhận ra được điều ông vẫn biết từ lâu nơi tâm lòng mình, ông nhanh
nhẹn trả lời:"Thầy là Đấng Kito."
- Khi tuyên
xưng như vậy chắc chắn Phero đã biết Đức Giesu là Đấng Mesia, Chúa Cứu Thế, Đấng
được Xức dầu, là Con Thiên Chúa.
- Câu trả lời
này, Đức Giesu rất hài lòng, vì chứng tỏ Ngài không thất bại.
- Nhưng ngay
sau đó, Đừc Giesu lại bảo các ông không được nói với ai về Ngài.
- Vì trong suốt qúa
trình tồn tại, dân Do Thái không bao giờ quên họ là tuyển dân của Thiên Chúa
theo một ý nghĩa đặc biệt. Họ trông mong một địa vị độc tôn trong thế gian,
bằng các phương tiện tự nhiên.
- Họ mơ ước
một ngày nào đó sẽ có một vị vua thuộc dòng dõi vua Davit, giúp họ trở thành vĩ
đại trong sự công chính và thế lực.
- Tuy nhiên,
thời gian dài trôi qua, họ chẳng chinh phục được ai, chẳng cai trị được nước
nào, mà còn không biết đến tự do độc lập là gì. Bởi dân chúng bị đầy sang
Asyri, vĩnh viễn thất lạc; người Balilon lại chinh phục Gierusalem, bắt dân Do
Thái làm tù binh; rồi đến người Ba Tư cai trị họ, tiếp theo là người Hy Lạp, và
người La Mã.
- Nên càng
ngày họ càng mơ ước, trông mong Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử họ bằng phương
tiện siêu nhiên, để thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên đã không làm được.
- Hầu xứ
Palestin sẽ là trung tâm của địa cầu, cả thế gian sẽ qui phục nó, mọi dân tộc
đều bị đè bẹp. Cuối cùng một thời đại mới hòa bình tốt đẹp sẽ đến với họ và tồn
tại vĩnh cửu.
- Đó là những
ý niệm về Đấng Mesia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái trước và lúc Đức
Giesu đến thế gian.
- Các ý niệm
ấy thật tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù.
- Đức Giesu bị
đặt trong bối cảnh ấy, nên chẳng có gì ngạc nhiên về những việc Ngài làm, cũng
như Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa mới của Đấng Mesia, dù Ngài
biết sẽ phải trả gía rất đắt.
- Đức Giesu là
ai? Là một câu hỏi được đặt ra không chỉ trong thời Đức Giesu còn
tại thế, mà còn được đặt ra trong mọi thời đại, cho mọi người, đặc biệt là thời
đại chúng ta.
- Câu hỏi đó
cũng không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về Đức Giesu, mà nó còn
được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống
của người trả lời.
- Thời nào Đức Giesu
cũng nghe nhiều câu trả lời khác nhau, mỗi câu trả lời đều thể hiện quan niệm,
sự hiểu biết và lối sống khác nhau.
- Như khi xưa,
nhiều người cũng nhìn nhận Đức Giesu là một vĩ nhân, đạo Ngài lập ra là đạo
tốt. Nhưng đạo đó không giúp ích gì nhiều cho cuộc sống mà họ đang cần cơm áo
tiền của, công danh, sự nghiệp, địa vị thế trần. Vì thế ai cũng chỉ quan tâm,
lao mình vào cuộc sống vật chất, khi rảnh rang, về gìa, gần đất xa trời mới cần
đến lý tưởng tôn giáo!
- Cho đến hôm nay, sống
trong cơn lốc của tiến bộ, nhưng con người vẫn ngại thăng tiến, nên vẫn không
hiểu về Ngài. Nếu được hỏi, họ vẫn có những câu trả lời chỉ phản ảnh tính cách,
công việc của trần thế, như Đức Giesu là:
. vị thẩm phán khắt khe phải theo vì sợ bị khép
vào tội này nọ rồi bị đầy ải.
. vị thần tiên nhiều phép.
Nếu phù hộ, thì đặt lên bàn thờ tôn kính, không thì mời đi chỗ khác!
. vị lương y
có thể trông cậy nhờ vả lúc ốm đau, già yếu, bệnh hoạn.
. vị nào đó, tôi không biết, cũng chẳng tin, vì chết là hết!
. v.v…
- Thiên Chúa đau buồn
biết bao khi tín hữu nhận định về Ngài như thế. Chẳng khác có Ngài cũng như
không.
- Riêng
chúng ta, hãy nhìn lại quá khứ, hiện tại để xét xem Ngài đã làm gì cho mình, Ngài
có thật sự là: Đức
Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và
báo thù như dân Do Thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay
cho chúng ta.
- Từ đó đánh giá được chính mình hầu
chấn chỉnh tư tưởng tình cảm và hành động của mình cho đúng đắn.
2. Đấng
Mesia và sự đau khổ:
- Nhờ câu
tuyên xưng của Phero, Đức Giesu:"bắt đầu
dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục,
thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị
giết chết và sau ba ngày, sống lại."
- Nghĩa là
Ngài nói công khai, rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài.
- Đây là điều
mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bầy. Ngài không dùng dụ ngôn nữa,
nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi Ngài
- Khi Đức
Giesu kết hợp chức vụ Đấng Mesia với sự đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng
định với các môn đệ những điều khó tin, khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận, làm
họ choáng váng thất vọng, nhưng đó là sự thật, là con đường dẫn đến hạnh phúc
vĩnh cửu.
- Mặc dù Ngài
không muốn đau khổ, chẳng muốn chết, Ngài có quyền năng để xử dụng cho việc
chinh phục và chiến thắng. Nhưng Ngài đã không làm thế.
- Ngài không
chỉ là siêu nhân, mà còn là Con Thiên Chúa. Nên lý tưởng Ngài đề ra cho chúng
ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vọng, Ngài thừa sức giúp chúng ta
thực hiện lý tưởng đó dù phải trải qua nhiều gian truân.
- Tuy nhiên,
chính cái lý tưởng ấy khiến chúng ta sống xứng đáng là người.
- Bởi với Đức Giêsu, điều quan trọng trong
cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến, mà chính là thái độ
chúng ta đáp ứng, cách thức chúng ta xử lý chúng.
- Tuy
không thể tránh được khổ đau nhưng có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay
vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt
đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
- Nếu
từ chối không chấp nhận khổ đau, chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình.
Ngược lại, nếu bắt chước Đức Giêsu can đảm nâng chúng lên, thì sẽ biến chúng
thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống.
- Thật vậy,
con người mà chỉ biết mải mê kiếm tìm, thu giữ, ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời,
say sưa thỏa mãn nhục dục… thì chẳng khác gì con vật.
- Đức Giesu
muốn giúp chúng ta sống cao hơn con vật, xứng đáng là con người được dựng nên
theo hình ảnh Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ.
- Nghĩa là phải
bỏ thói hư tật xấu, vác thập gía mình mà đi theo Ngài, phải vươn lên, vươn cao
hơn những nhu cầu vật chất tầm thường.
- Đức Giesu
xuống thế làm người, tiên phong sống như thế để giúp chúng ta cũng sống như vậy,
là vâng theo hướng dẫn của Ngài:"Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo."
- Ngài cho
chúng ta một hình ảnh về người Kito hữu, là người vác thập gía mình đi theo sau
Đức Giesu vác thập gía.
- Nên sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra
rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn
và cay đắng.
-
Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy
rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt.
a) Từ bỏ chính mình:
- Thời
nào cũng có những nhà hiền triết, những vĩ nhân, các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã
hội luôn kêu gọi mọi người từ bỏ kiêu căng, ích kỷ, lòng tham, tiền tài, danh
vọng bất chính.
- Nhưng sự từ
bỏ mà Đức Giesu kêu mời không chỉ có mục đích để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu
gọi từ bỏ mọi sự để dễ dàng đi theo Ngài, sống hiền lành, khiêm nhu, khó nghèo,
nhịn nhục, hy sinh cho tha nhân. Sự từ bỏ này dẫn chúng ta đến một cuộc sống
phong phú dồi dào có ý nghĩa hơn.
- Đây là một
lời mời gọi hoàn toàn tự do, con người có quyền lựa chọn, nhưng lại là một điều
kiện tiên quyết.
- Không phải
là tha hóa, vong thân, nhưng là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống mình, không còn
là mình nữa để nên giống Đức Giesu.
- Thực tế vấn đề đó
đụng đến sự hy sinh, phải chịu thiệt thòi mất mát nhiều mặt.
- Và cũng
không phải hy sinh một vài lần, thiệt thòi một vài thứ, hoặc quyết định một lần
thay cho suốt cả cuộc đời, mà là thái độ luôn sẵn sàng trong mọi giây phút của
cuộc sống, như thế qủa thật không dễ!
- Nên theo
người đời thì đó là điên khùng, thua lỗ, ngu dại, nhưng đối với Thiên Chúa thì
chúng ta chẳng điên chẳng lỗ chút nào. Mà là khôn ngoan, sáng suốt, vì khước từ
cái mau qua để được cái vinh cửu, bỏ cái tương đối để được cái tuyệt đối, bỏ
cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, như thế còn gì bằng?
- Nhưng Đức
Giesu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tận căn, tận gốc rễ của mọi sự từ bỏ, đó là
từ bỏ chính mình, không phải chỉ một ít đồ vật, một ít ý riêng, một ít sở thích
nào đó mà thôi.
- Bởi cái tôi
luôn có nguy cơ lớn lên song song không chỉ với con người, mà cả với lòng quảng
đại hiến thân của chúng ta nữa.
- Nên trở ngại
đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi bản ngã. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục
của mỗi Kito hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, trí thức hay yếu kém.
- Cũng nên
biết thêm rằng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết
bao công trạng mình đã lập được; chỉ với ơn Chúa chúng ta mới có thể làm được
điều khó khăn này.
- Tuy thế hệ
ngày nay không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại bị chìm ngập
trong nền văn hóa và lối sống đầy ích kỷ, tham vọng…nên vấn đề từ bỏ mình lại
càng khó khăn hơn.
- Chỉ mình
Thiên Chúa mới biết đường ngay nẻo chính để dẫn dắt, vậy hãy trông cậy và xin
Ngài giúp đỡ để chúng ta luôn biết bỏ mình đi theo Ngài.
b)
Vác thập gía mình:
- Là đón nhận
mọi đau khổ, mọi khổ cực, mọi bất hạnh về tinh thần, tình cảm, thể xác của đời
mình, không phân biệt nguồn gốc, lý do, thể loại, nguy hiểm.
- Bởi đau khổ
Chúa nói không phải để hành hạ con người, mà để dẫn con người đến đời sống
vĩnh cửu với hạnh phúc thật.
- Thập gía và
cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để
con người đựơc tái sinh và triển nở trong đời sống vĩnh cửu mới.
- Nên người
Kito hữu luôn tin rằng giữa những nỗi thống khổ luôn có tình yêu của Thiên Chúa.
- Vì
thế chính những thái độ đón nhận bất hạnh nói lên lòng tin vào lời hứa của
Thiên Chúa, lòng cậy vào sự trung tín, và lòng mến Thiên Chúa.
- Đem những ý
tưởng ấy và ý tưởng đền tội vào việc chịu đau khổ sẽ giúp cho việc chịu đau khổ
nhẹ nhàng, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
- Đau khổ như vậy
được gọi là đau khổ giải thoát hay đau khổ mang lại ơn cứu rỗi.
- Mang lấy gánh
nặng của cuộc sống đòi hỏi tín hữu phải có đức tin kiên trì và một tâm hồn tín
thác nơi Chúa.
- Thập gía của Đức Giesu là
do Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Còn thập gía của chúng ta là do lãnh lấy sứ
mạng rao truyền Tin Mừng và muốn làm chứng cho Ngài.
- Đó là những ý
cuối cùng của Tin Mừng hôm nay, không chỉ nhắm vào các môn đệ, mà nhắm đến tất
cả Kito hữu, không phân biệt bậc sống.
c) Cám
dỗ:
- Khi từ bỏ, vác
thập gía mình tức là lúc chúng ta đau khổ, buồn bực; thường khi ấy có nhiều cám
dỗ, của Sa tan, của người thân yêu muốn nâng đỡ, an ủi chúng ta mà không biết đó
là cám dỗ.
- Loại cám dỗ này thường
nói với chúng ta bằng giọng ngọt ngào, có tình có lý.
- Nhưng đó là loại
cám dỗ nguy hiểm vì khó đề phòng, khó nhận biết, nó lại thường ẩn dưới dạng
nhân nghĩa để tấn công.
- Đây là một
kinh nghiệm sống rất thực tế, mà ai cũng có thể thường gặp.
- Như khi quyết
định tiến hành một công việc to lớn, phải lẽ nào đó mà chắc chắn sẽ không tránh
khỏi mất mát, rắc rối, nguy hiểm.
- Đúng lúc ấy
có thể người trong gia đình, hoặc bạn thân đến với ý định tốt, cố cản ngăn
chúng ta với lý lẽ hợp tình hợp lý. Thế là chúng ta tháo lui, bỏ cuộc!
- Rồi một điều rất
nguy hiểm nữa là ngay cả khi chúng ta làm việc tốt lành, cũng bị cám dỗ vì
chính lòng tận tụy trung tín của mình.
- Cần sáng
suốt để nhận ra tất cả những điều ấy đều"không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
- Đó cũng
chính là chuyện đã xẩy ra với Đức Giesu mà Tin Mừng hôm nay ghi lại:"ông Phero liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách
Người."
- Không biết
ông Phero nói gì với Đức Giesu, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy
tình yêu thương chân thành của ông.
- Nhưng Đức
Giesu đã thấy lời can ngăn như vậy thật nguy hiểm, Ngài nhận ra đó là cám dỗ của
Sa tan, và liền quở trách Satan qua Phero:"Sa
tan lại đằng sau Thầy!"
- Hãy
cảm tạ Đức Giêsu, vì phiền muộn, khổ đau sẽ biến thành nguồn sống, biến đổi chúng
ta thành người tốt hơn, thông hiểu kẻ khác hơn, mở mắt cho chúng ta thấy được
cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Lạy Đức Kito, Ngài dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập gía mình mà theo.” Nhưng thật khó, vì nhiều lúc
chúng con quá đau khổ, quá cô đơn, tủi nhục…lại phải chống trả bản tính xác
thịt thích an nhàn, hưởng thụ, sung sướng hạnh phúc, hơn là vất vả thiệt thòi,
hy sinh; thích thu nhận tích trữ hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết làm việc, chiến đấu, hy sinh, mà không
đòi phần thưởng, phục vụ không cần đền đáp.
Xin thánh gía trở nên gương mẫu cho chúng con, nhờ đó chúng
con không coi đau khổ là một bất hạnh nữa, mà là dấu chỉ cho biết chúng con đang
thuộc về Ngài. Vì Đứv Kito, Chúa chúng con. Amen
Than men,
duyenky
Đau khổ mang lại ơn cứu rỗi.
Các Bạn thân mến,
Trong thời gian Đức Giesu đi rao
giảng và tuyển mộ môn đệ, Ngài đã sống, giảng dạy, đi đây đó giữa loài người,
mong để lại một thông điệp cho nhân loại, đó là viết nó vào lòng của các môn
đệ, của một số người, nhưng nếu không ai thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, không
nắm được thông điệp của Ngài, thì công lao của Ngài chẳng đi đến đâu, công cuộc
cứu chuộc trần gian sẽ bế tắc. Nên vấn đề Đức Giesu phải đối đầu là cuộc sống
của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng nào chưa? Ngài đã thực hiện được những gì?
Đủ chưa? Dân chúng có khám phá ra Ngài là ai không? Vì thế trong thời gian này,
Đức Giesu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm, để Ngài nghe từ chính họ và thăm
dò dư luận quần chúng:
1.
"Người ta nói Thầy là ai?":
- Các ông đáp:"Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy Gỉa, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó."
- Nghĩa là Ngài
đã có ảnh hưởng đến dân chúng, dù suy nghĩ, nhận thức, phát biểu khác nhau
nhưng đều cùng một ý là họ đã nhận ra Ngài là một người đặc biệt thuộc về Thiên
Chúa.
- Rồi Ngài
quay ra hỏi các môn đệ:"Còn anh em, anh
em bảo Thầy là ai?"
- Câu hỏi này
nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường, để đạt tới một xác tín
cá nhân.
- Thình lình
ông Phero nhận ra được điều ông vẫn biết từ lâu nơi tâm lòng mình, ông nhanh
nhẹn trả lời:"Thầy là Đấng Kito."
- Khi tuyên
xưng như vậy chắc chắn Phero đã biết Đức Giesu là Đấng Mesia, Chúa Cứu Thế, Đấng
được Xức dầu, là Con Thiên Chúa.
- Câu trả lời
này, Đức Giesu rất hài lòng, vì chứng tỏ Ngài không thất bại.
- Nhưng ngay
sau đó, Đừc Giesu lại bảo các ông không được nói với ai về Ngài.
- Vì trong suốt qúa
trình tồn tại, dân Do Thái không bao giờ quên họ là tuyển dân của Thiên Chúa
theo một ý nghĩa đặc biệt. Họ trông mong một địa vị độc tôn trong thế gian,
bằng các phương tiện tự nhiên.
- Họ mơ ước
một ngày nào đó sẽ có một vị vua thuộc dòng dõi vua Davit, giúp họ trở thành vĩ
đại trong sự công chính và thế lực.
- Tuy nhiên,
thời gian dài trôi qua, họ chẳng chinh phục được ai, chẳng cai trị được nước
nào, mà còn không biết đến tự do độc lập là gì. Bởi dân chúng bị đầy sang
Asyri, vĩnh viễn thất lạc; người Balilon lại chinh phục Gierusalem, bắt dân Do
Thái làm tù binh; rồi đến người Ba Tư cai trị họ, tiếp theo là người Hy Lạp, và
người La Mã.
- Nên càng
ngày họ càng mơ ước, trông mong Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử họ bằng phương
tiện siêu nhiên, để thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên đã không làm được.
- Hầu xứ
Palestin sẽ là trung tâm của địa cầu, cả thế gian sẽ qui phục nó, mọi dân tộc
đều bị đè bẹp. Cuối cùng một thời đại mới hòa bình tốt đẹp sẽ đến với họ và tồn
tại vĩnh cửu.
- Đó là những
ý niệm về Đấng Mesia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái trước và lúc Đức
Giesu đến thế gian.
- Các ý niệm
ấy thật tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù.
- Đức Giesu bị
đặt trong bối cảnh ấy, nên chẳng có gì ngạc nhiên về những việc Ngài làm, cũng
như Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa mới của Đấng Mesia, dù Ngài
biết sẽ phải trả gía rất đắt.
- Đức Giesu là
ai? Là một câu hỏi được đặt ra không chỉ trong thời Đức Giesu còn
tại thế, mà còn được đặt ra trong mọi thời đại, cho mọi người, đặc biệt là thời
đại chúng ta.
- Câu hỏi đó
cũng không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về Đức Giesu, mà nó còn
được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống
của người trả lời.
- Thời nào Đức Giesu
cũng nghe nhiều câu trả lời khác nhau, mỗi câu trả lời đều thể hiện quan niệm,
sự hiểu biết và lối sống khác nhau.
- Như khi xưa,
nhiều người cũng nhìn nhận Đức Giesu là một vĩ nhân, đạo Ngài lập ra là đạo
tốt. Nhưng đạo đó không giúp ích gì nhiều cho cuộc sống mà họ đang cần cơm áo
tiền của, công danh, sự nghiệp, địa vị thế trần. Vì thế ai cũng chỉ quan tâm,
lao mình vào cuộc sống vật chất, khi rảnh rang, về gìa, gần đất xa trời mới cần
đến lý tưởng tôn giáo!
- Cho đến hôm nay, sống
trong cơn lốc của tiến bộ, nhưng con người vẫn ngại thăng tiến, nên vẫn không
hiểu về Ngài. Nếu được hỏi, họ vẫn có những câu trả lời chỉ phản ảnh tính cách,
công việc của trần thế, như Đức Giesu là:
. vị thẩm phán khắt khe phải theo vì sợ bị khép
vào tội này nọ rồi bị đầy ải.
. vị thần tiên nhiều phép.
Nếu phù hộ, thì đặt lên bàn thờ tôn kính, không thì mời đi chỗ khác!
. vị lương y
có thể trông cậy nhờ vả lúc ốm đau, già yếu, bệnh hoạn.
. vị nào đó, tôi không biết, cũng chẳng tin, vì chết là hết!
. v.v…
- Thiên Chúa đau buồn
biết bao khi tín hữu nhận định về Ngài như thế. Chẳng khác có Ngài cũng như
không.
- Riêng
chúng ta, hãy nhìn lại quá khứ, hiện tại để xét xem Ngài đã làm gì cho mình, Ngài
có thật sự là: Đức
Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và
báo thù như dân Do Thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay
cho chúng ta.
- Từ đó đánh giá được chính mình hầu
chấn chỉnh tư tưởng tình cảm và hành động của mình cho đúng đắn.
2. Đấng
Mesia và sự đau khổ:
- Nhờ câu
tuyên xưng của Phero, Đức Giesu:"bắt đầu
dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục,
thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị
giết chết và sau ba ngày, sống lại."
- Nghĩa là
Ngài nói công khai, rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài.
- Đây là điều
mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bầy. Ngài không dùng dụ ngôn nữa,
nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi Ngài
- Khi Đức
Giesu kết hợp chức vụ Đấng Mesia với sự đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng
định với các môn đệ những điều khó tin, khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận, làm
họ choáng váng thất vọng, nhưng đó là sự thật, là con đường dẫn đến hạnh phúc
vĩnh cửu.
- Mặc dù Ngài
không muốn đau khổ, chẳng muốn chết, Ngài có quyền năng để xử dụng cho việc
chinh phục và chiến thắng. Nhưng Ngài đã không làm thế.
- Ngài không
chỉ là siêu nhân, mà còn là Con Thiên Chúa. Nên lý tưởng Ngài đề ra cho chúng
ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vọng, Ngài thừa sức giúp chúng ta
thực hiện lý tưởng đó dù phải trải qua nhiều gian truân.
- Tuy nhiên,
chính cái lý tưởng ấy khiến chúng ta sống xứng đáng là người.
- Bởi với Đức Giêsu, điều quan trọng trong
cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến, mà chính là thái độ
chúng ta đáp ứng, cách thức chúng ta xử lý chúng.
- Tuy
không thể tránh được khổ đau nhưng có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay
vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt
đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
- Nếu
từ chối không chấp nhận khổ đau, chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình.
Ngược lại, nếu bắt chước Đức Giêsu can đảm nâng chúng lên, thì sẽ biến chúng
thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống.
- Thật vậy,
con người mà chỉ biết mải mê kiếm tìm, thu giữ, ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời,
say sưa thỏa mãn nhục dục… thì chẳng khác gì con vật.
- Đức Giesu
muốn giúp chúng ta sống cao hơn con vật, xứng đáng là con người được dựng nên
theo hình ảnh Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ.
- Nghĩa là phải
bỏ thói hư tật xấu, vác thập gía mình mà đi theo Ngài, phải vươn lên, vươn cao
hơn những nhu cầu vật chất tầm thường.
- Đức Giesu
xuống thế làm người, tiên phong sống như thế để giúp chúng ta cũng sống như vậy,
là vâng theo hướng dẫn của Ngài:"Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo."
- Ngài cho
chúng ta một hình ảnh về người Kito hữu, là người vác thập gía mình đi theo sau
Đức Giesu vác thập gía.
- Nên sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra
rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn
và cay đắng.
-
Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy
rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt.
a) Từ bỏ chính mình:
- Thời
nào cũng có những nhà hiền triết, những vĩ nhân, các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã
hội luôn kêu gọi mọi người từ bỏ kiêu căng, ích kỷ, lòng tham, tiền tài, danh
vọng bất chính.
- Nhưng sự từ
bỏ mà Đức Giesu kêu mời không chỉ có mục đích để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu
gọi từ bỏ mọi sự để dễ dàng đi theo Ngài, sống hiền lành, khiêm nhu, khó nghèo,
nhịn nhục, hy sinh cho tha nhân. Sự từ bỏ này dẫn chúng ta đến một cuộc sống
phong phú dồi dào có ý nghĩa hơn.
- Đây là một
lời mời gọi hoàn toàn tự do, con người có quyền lựa chọn, nhưng lại là một điều
kiện tiên quyết.
- Không phải
là tha hóa, vong thân, nhưng là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống mình, không còn
là mình nữa để nên giống Đức Giesu.
- Thực tế vấn đề đó
đụng đến sự hy sinh, phải chịu thiệt thòi mất mát nhiều mặt.
- Và cũng
không phải hy sinh một vài lần, thiệt thòi một vài thứ, hoặc quyết định một lần
thay cho suốt cả cuộc đời, mà là thái độ luôn sẵn sàng trong mọi giây phút của
cuộc sống, như thế qủa thật không dễ!
- Nên theo
người đời thì đó là điên khùng, thua lỗ, ngu dại, nhưng đối với Thiên Chúa thì
chúng ta chẳng điên chẳng lỗ chút nào. Mà là khôn ngoan, sáng suốt, vì khước từ
cái mau qua để được cái vinh cửu, bỏ cái tương đối để được cái tuyệt đối, bỏ
cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, như thế còn gì bằng?
- Nhưng Đức
Giesu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tận căn, tận gốc rễ của mọi sự từ bỏ, đó là
từ bỏ chính mình, không phải chỉ một ít đồ vật, một ít ý riêng, một ít sở thích
nào đó mà thôi.
- Bởi cái tôi
luôn có nguy cơ lớn lên song song không chỉ với con người, mà cả với lòng quảng
đại hiến thân của chúng ta nữa.
- Nên trở ngại
đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi bản ngã. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục
của mỗi Kito hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, trí thức hay yếu kém.
- Cũng nên
biết thêm rằng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết
bao công trạng mình đã lập được; chỉ với ơn Chúa chúng ta mới có thể làm được
điều khó khăn này.
- Tuy thế hệ
ngày nay không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại bị chìm ngập
trong nền văn hóa và lối sống đầy ích kỷ, tham vọng…nên vấn đề từ bỏ mình lại
càng khó khăn hơn.
- Chỉ mình
Thiên Chúa mới biết đường ngay nẻo chính để dẫn dắt, vậy hãy trông cậy và xin
Ngài giúp đỡ để chúng ta luôn biết bỏ mình đi theo Ngài.
b)
Vác thập gía mình:
- Là đón nhận
mọi đau khổ, mọi khổ cực, mọi bất hạnh về tinh thần, tình cảm, thể xác của đời
mình, không phân biệt nguồn gốc, lý do, thể loại, nguy hiểm.
- Bởi đau khổ
Chúa nói không phải để hành hạ con người, mà để dẫn con người đến đời sống
vĩnh cửu với hạnh phúc thật.
- Thập gía và
cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để
con người đựơc tái sinh và triển nở trong đời sống vĩnh cửu mới.
- Nên người
Kito hữu luôn tin rằng giữa những nỗi thống khổ luôn có tình yêu của Thiên Chúa.
- Vì
thế chính những thái độ đón nhận bất hạnh nói lên lòng tin vào lời hứa của
Thiên Chúa, lòng cậy vào sự trung tín, và lòng mến Thiên Chúa.
- Đem những ý
tưởng ấy và ý tưởng đền tội vào việc chịu đau khổ sẽ giúp cho việc chịu đau khổ
nhẹ nhàng, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
- Đau khổ như vậy
được gọi là đau khổ giải thoát hay đau khổ mang lại ơn cứu rỗi.
- Mang lấy gánh
nặng của cuộc sống đòi hỏi tín hữu phải có đức tin kiên trì và một tâm hồn tín
thác nơi Chúa.
- Thập gía của Đức Giesu là
do Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Còn thập gía của chúng ta là do lãnh lấy sứ
mạng rao truyền Tin Mừng và muốn làm chứng cho Ngài.
- Đó là những ý
cuối cùng của Tin Mừng hôm nay, không chỉ nhắm vào các môn đệ, mà nhắm đến tất
cả Kito hữu, không phân biệt bậc sống.
c) Cám
dỗ:
- Khi từ bỏ, vác
thập gía mình tức là lúc chúng ta đau khổ, buồn bực; thường khi ấy có nhiều cám
dỗ, của Sa tan, của người thân yêu muốn nâng đỡ, an ủi chúng ta mà không biết đó
là cám dỗ.
- Loại cám dỗ này thường
nói với chúng ta bằng giọng ngọt ngào, có tình có lý.
- Nhưng đó là loại
cám dỗ nguy hiểm vì khó đề phòng, khó nhận biết, nó lại thường ẩn dưới dạng
nhân nghĩa để tấn công.
- Đây là một
kinh nghiệm sống rất thực tế, mà ai cũng có thể thường gặp.
- Như khi quyết
định tiến hành một công việc to lớn, phải lẽ nào đó mà chắc chắn sẽ không tránh
khỏi mất mát, rắc rối, nguy hiểm.
- Đúng lúc ấy
có thể người trong gia đình, hoặc bạn thân đến với ý định tốt, cố cản ngăn
chúng ta với lý lẽ hợp tình hợp lý. Thế là chúng ta tháo lui, bỏ cuộc!
- Rồi một điều rất
nguy hiểm nữa là ngay cả khi chúng ta làm việc tốt lành, cũng bị cám dỗ vì
chính lòng tận tụy trung tín của mình.
- Cần sáng
suốt để nhận ra tất cả những điều ấy đều"không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
- Đó cũng
chính là chuyện đã xẩy ra với Đức Giesu mà Tin Mừng hôm nay ghi lại:"ông Phero liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách
Người."
- Không biết
ông Phero nói gì với Đức Giesu, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy
tình yêu thương chân thành của ông.
- Nhưng Đức
Giesu đã thấy lời can ngăn như vậy thật nguy hiểm, Ngài nhận ra đó là cám dỗ của
Sa tan, và liền quở trách Satan qua Phero:"Sa
tan lại đằng sau Thầy!"
- Hãy
cảm tạ Đức Giêsu, vì phiền muộn, khổ đau sẽ biến thành nguồn sống, biến đổi chúng
ta thành người tốt hơn, thông hiểu kẻ khác hơn, mở mắt cho chúng ta thấy được
cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Lạy Đức Kito, Ngài dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập gía mình mà theo.” Nhưng thật khó, vì nhiều lúc
chúng con quá đau khổ, quá cô đơn, tủi nhục…lại phải chống trả bản tính xác
thịt thích an nhàn, hưởng thụ, sung sướng hạnh phúc, hơn là vất vả thiệt thòi,
hy sinh; thích thu nhận tích trữ hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết làm việc, chiến đấu, hy sinh, mà không
đòi phần thưởng, phục vụ không cần đền đáp.
Xin thánh gía trở nên gương mẫu cho chúng con, nhờ đó chúng
con không coi đau khổ là một bất hạnh nữa, mà là dấu chỉ cho biết chúng con đang
thuộc về Ngài. Vì Đứv Kito, Chúa chúng con. Amen
Than men,
duyenky
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét