Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Sep 16, 2018 - Chúa nhật 24 thường niên năm B Đau khổ mang lại ơn cứu rỗi. Các Bạn thân mến, Trong thời gian Đức Giesu đi rao giảng và tuyển mộ môn đệ, Ngài đã sống, giảng dạy, đi đây đó giữa loài người, mong để lại một thông điệp cho nhân loại, đó là viết nó vào lòng của các môn đệ, của một số người, nhưng nếu không ai thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, không nắm được thông điệp của Ngài, thì công lao của Ngài chẳng đi đến đâu, công cuộc cứu chuộc trần gian sẽ bế tắc. Nên vấn đề Đức Giesu phải đối đầu là cuộc sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng nào chưa? Ngài đã thực hiện được những gì? Đủ chưa? Dân chúng có khám phá ra Ngài là ai không? Vì thế trong thời gian này, Đức Giesu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm, để Ngài nghe từ chính họ và thăm dò dư luận quần chúng: 1. "Người ta nói Thầy là ai?": - Các ông đáp:"Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Gỉa, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." - Nghĩa là Ngài đã có ảnh hưởng đến dân chúng, dù suy nghĩ, nhận thức, phát biểu khác nhau nhưng đều cùng một ý là họ đã nhận ra Ngài là một người đặc biệt thuộc về Thiên Chúa. - Rồi Ngài quay ra hỏi các môn đệ:"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" - Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường, để đạt tới một xác tín cá nhân. - Thình lình ông Phero nhận ra được điều ông vẫn biết từ lâu nơi tâm lòng mình, ông nhanh nhẹn trả lời:"Thầy là Đấng Kito." - Khi tuyên xưng như vậy chắc chắn Phero đã biết Đức Giesu là Đấng Mesia, Chúa Cứu Thế, Đấng được Xức dầu, là Con Thiên Chúa. - Câu trả lời này, Đức Giesu rất hài lòng, vì chứng tỏ Ngài không thất bại. - Nhưng ngay sau đó, Đừc Giesu lại bảo các ông không được nói với ai về Ngài. - Vì trong suốt qúa trình tồn tại, dân Do Thái không bao giờ quên họ là tuyển dân của Thiên Chúa theo một ý nghĩa đặc biệt. Họ trông mong một địa vị độc tôn trong thế gian, bằng các phương tiện tự nhiên. - Họ mơ ước một ngày nào đó sẽ có một vị vua thuộc dòng dõi vua Davit, giúp họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực. - Tuy nhiên, thời gian dài trôi qua, họ chẳng chinh phục được ai, chẳng cai trị được nước nào, mà còn không biết đến tự do độc lập là gì. Bởi dân chúng bị đầy sang Asyri, vĩnh viễn thất lạc; người Balilon lại chinh phục Gierusalem, bắt dân Do Thái làm tù binh; rồi đến người Ba Tư cai trị họ, tiếp theo là người Hy Lạp, và người La Mã. - Nên càng ngày họ càng mơ ước, trông mong Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử họ bằng phương tiện siêu nhiên, để thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên đã không làm được. - Hầu xứ Palestin sẽ là trung tâm của địa cầu, cả thế gian sẽ qui phục nó, mọi dân tộc đều bị đè bẹp. Cuối cùng một thời đại mới hòa bình tốt đẹp sẽ đến với họ và tồn tại vĩnh cửu. - Đó là những ý niệm về Đấng Mesia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái trước và lúc Đức Giesu đến thế gian. - Các ý niệm ấy thật tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù. - Đức Giesu bị đặt trong bối cảnh ấy, nên chẳng có gì ngạc nhiên về những việc Ngài làm, cũng như Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa mới của Đấng Mesia, dù Ngài biết sẽ phải trả gía rất đắt. - Đức Giesu là ai? Là một câu hỏi được đặt ra không chỉ trong thời Đức Giesu còn tại thế, mà còn được đặt ra trong mọi thời đại, cho mọi người, đặc biệt là thời đại chúng ta. - Câu hỏi đó cũng không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về Đức Giesu, mà nó còn được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. - Thời nào Đức Giesu cũng nghe nhiều câu trả lời khác nhau, mỗi câu trả lời đều thể hiện quan niệm, sự hiểu biết và lối sống khác nhau. - Như khi xưa, nhiều người cũng nhìn nhận Đức Giesu là một vĩ nhân, đạo Ngài lập ra là đạo tốt. Nhưng đạo đó không giúp ích gì nhiều cho cuộc sống mà họ đang cần cơm áo tiền của, công danh, sự nghiệp, địa vị thế trần. Vì thế ai cũng chỉ quan tâm, lao mình vào cuộc sống vật chất, khi rảnh rang, về gìa, gần đất xa trời mới cần đến lý tưởng tôn giáo! - Cho đến hôm nay, sống trong cơn lốc của tiến bộ, nhưng con người vẫn ngại thăng tiến, nên vẫn không hiểu về Ngài. Nếu được hỏi, họ vẫn có những câu trả lời chỉ phản ảnh tính cách, công việc của trần thế, như Đức Giesu là: . vị thẩm phán khắt khe phải theo vì sợ bị khép vào tội này nọ rồi bị đầy ải. . vị thần tiên nhiều phép. Nếu phù hộ, thì đặt lên bàn thờ tôn kính, không thì mời đi chỗ khác! . vị lương y có thể trông cậy nhờ vả lúc ốm đau, già yếu, bệnh hoạn. . vị nào đó, tôi không biết, cũng chẳng tin, vì chết là hết! . v.v… - Thiên Chúa đau buồn biết bao khi tín hữu nhận định về Ngài như thế. Chẳng khác có Ngài cũng như không. - Riêng chúng ta, hãy nhìn lại quá khứ, hiện tại để xét xem Ngài đã làm gì cho mình, Ngài có thật sự là: Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù như dân Do Thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho chúng ta. - Từ đó đánh giá được chính mình hầu chấn chỉnh tư tưởng tình cảm và hành động của mình cho đúng đắn. 2. Đấng Mesia và sự đau khổ: - Nhờ câu tuyên xưng của Phero, Đức Giesu:"bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại." - Nghĩa là Ngài nói công khai, rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài. - Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bầy. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi Ngài - Khi Đức Giesu kết hợp chức vụ Đấng Mesia với sự đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ những điều khó tin, khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận, làm họ choáng váng thất vọng, nhưng đó là sự thật, là con đường dẫn đến hạnh phúc vĩnh cửu. - Mặc dù Ngài không muốn đau khổ, chẳng muốn chết, Ngài có quyền năng để xử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Nhưng Ngài đã không làm thế. - Ngài không chỉ là siêu nhân, mà còn là Con Thiên Chúa. Nên lý tưởng Ngài đề ra cho chúng ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vọng, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện lý tưởng đó dù phải trải qua nhiều gian truân. - Tuy nhiên, chính cái lý tưởng ấy khiến chúng ta sống xứng đáng là người. - Bởi với Đức Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng, cách thức chúng ta xử lý chúng. - Tuy không thể tránh được khổ đau nhưng có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn. - Nếu từ chối không chấp nhận khổ đau, chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu bắt chước Đức Giêsu can đảm nâng chúng lên, thì sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống. - Thật vậy, con người mà chỉ biết mải mê kiếm tìm, thu giữ, ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời, say sưa thỏa mãn nhục dục… thì chẳng khác gì con vật. - Đức Giesu muốn giúp chúng ta sống cao hơn con vật, xứng đáng là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ. - Nghĩa là phải bỏ thói hư tật xấu, vác thập gía mình mà đi theo Ngài, phải vươn lên, vươn cao hơn những nhu cầu vật chất tầm thường. - Đức Giesu xuống thế làm người, tiên phong sống như thế để giúp chúng ta cũng sống như vậy, là vâng theo hướng dẫn của Ngài:"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo." - Ngài cho chúng ta một hình ảnh về người Kito hữu, là người vác thập gía mình đi theo sau Đức Giesu vác thập gía. - Nên sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng. - Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt. a) Từ bỏ chính mình: - Thời nào cũng có những nhà hiền triết, những vĩ nhân, các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội luôn kêu gọi mọi người từ bỏ kiêu căng, ích kỷ, lòng tham, tiền tài, danh vọng bất chính. - Nhưng sự từ bỏ mà Đức Giesu kêu mời không chỉ có mục đích để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi từ bỏ mọi sự để dễ dàng đi theo Ngài, sống hiền lành, khiêm nhu, khó nghèo, nhịn nhục, hy sinh cho tha nhân. Sự từ bỏ này dẫn chúng ta đến một cuộc sống phong phú dồi dào có ý nghĩa hơn. - Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do, con người có quyền lựa chọn, nhưng lại là một điều kiện tiên quyết. - Không phải là tha hóa, vong thân, nhưng là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống mình, không còn là mình nữa để nên giống Đức Giesu. - Thực tế vấn đề đó đụng đến sự hy sinh, phải chịu thiệt thòi mất mát nhiều mặt. - Và cũng không phải hy sinh một vài lần, thiệt thòi một vài thứ, hoặc quyết định một lần thay cho suốt cả cuộc đời, mà là thái độ luôn sẵn sàng trong mọi giây phút của cuộc sống, như thế qủa thật không dễ! - Nên theo người đời thì đó là điên khùng, thua lỗ, ngu dại, nhưng đối với Thiên Chúa thì chúng ta chẳng điên chẳng lỗ chút nào. Mà là khôn ngoan, sáng suốt, vì khước từ cái mau qua để được cái vinh cửu, bỏ cái tương đối để được cái tuyệt đối, bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, như thế còn gì bằng? - Nhưng Đức Giesu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tận căn, tận gốc rễ của mọi sự từ bỏ, đó là từ bỏ chính mình, không phải chỉ một ít đồ vật, một ít ý riêng, một ít sở thích nào đó mà thôi. - Bởi cái tôi luôn có nguy cơ lớn lên song song không chỉ với con người, mà cả với lòng quảng đại hiến thân của chúng ta nữa. - Nên trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi bản ngã. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mỗi Kito hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, trí thức hay yếu kém. - Cũng nên biết thêm rằng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được; chỉ với ơn Chúa chúng ta mới có thể làm được điều khó khăn này. - Tuy thế hệ ngày nay không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại bị chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy ích kỷ, tham vọng…nên vấn đề từ bỏ mình lại càng khó khăn hơn. - Chỉ mình Thiên Chúa mới biết đường ngay nẻo chính để dẫn dắt, vậy hãy trông cậy và xin Ngài giúp đỡ để chúng ta luôn biết bỏ mình đi theo Ngài. b) Vác thập gía mình: - Là đón nhận mọi đau khổ, mọi khổ cực, mọi bất hạnh về tinh thần, tình cảm, thể xác của đời mình, không phân biệt nguồn gốc, lý do, thể loại, nguy hiểm. - Bởi đau khổ Chúa nói không phải để hành hạ con người, mà để dẫn con người đến đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc thật. - Thập gía và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người đựơc tái sinh và triển nở trong đời sống vĩnh cửu mới. - Nên người Kito hữu luôn tin rằng giữa những nỗi thống khổ luôn có tình yêu của Thiên Chúa. - Vì thế chính những thái độ đón nhận bất hạnh nói lên lòng tin vào lời hứa của Thiên Chúa, lòng cậy vào sự trung tín, và lòng mến Thiên Chúa. - Đem những ý tưởng ấy và ý tưởng đền tội vào việc chịu đau khổ sẽ giúp cho việc chịu đau khổ nhẹ nhàng, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. - Đau khổ như vậy được gọi là đau khổ giải thoát hay đau khổ mang lại ơn cứu rỗi. - Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi tín hữu phải có đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác nơi Chúa. - Thập gía của Đức Giesu là do Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Còn thập gía của chúng ta là do lãnh lấy sứ mạng rao truyền Tin Mừng và muốn làm chứng cho Ngài. - Đó là những ý cuối cùng của Tin Mừng hôm nay, không chỉ nhắm vào các môn đệ, mà nhắm đến tất cả Kito hữu, không phân biệt bậc sống. c) Cám dỗ: - Khi từ bỏ, vác thập gía mình tức là lúc chúng ta đau khổ, buồn bực; thường khi ấy có nhiều cám dỗ, của Sa tan, của người thân yêu muốn nâng đỡ, an ủi chúng ta mà không biết đó là cám dỗ. - Loại cám dỗ này thường nói với chúng ta bằng giọng ngọt ngào, có tình có lý. - Nhưng đó là loại cám dỗ nguy hiểm vì khó đề phòng, khó nhận biết, nó lại thường ẩn dưới dạng nhân nghĩa để tấn công. - Đây là một kinh nghiệm sống rất thực tế, mà ai cũng có thể thường gặp. - Như khi quyết định tiến hành một công việc to lớn, phải lẽ nào đó mà chắc chắn sẽ không tránh khỏi mất mát, rắc rối, nguy hiểm. - Đúng lúc ấy có thể người trong gia đình, hoặc bạn thân đến với ý định tốt, cố cản ngăn chúng ta với lý lẽ hợp tình hợp lý. Thế là chúng ta tháo lui, bỏ cuộc! - Rồi một điều rất nguy hiểm nữa là ngay cả khi chúng ta làm việc tốt lành, cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. - Cần sáng suốt để nhận ra tất cả những điều ấy đều"không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” - Đó cũng chính là chuyện đã xẩy ra với Đức Giesu mà Tin Mừng hôm nay ghi lại:"ông Phero liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người." - Không biết ông Phero nói gì với Đức Giesu, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành của ông. - Nhưng Đức Giesu đã thấy lời can ngăn như vậy thật nguy hiểm, Ngài nhận ra đó là cám dỗ của Sa tan, và liền quở trách Satan qua Phero:"Sa tan lại đằng sau Thầy!" - Hãy cảm tạ Đức Giêsu, vì phiền muộn, khổ đau sẽ biến thành nguồn sống, biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, thông hiểu kẻ khác hơn, mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng mơ ước. Lạy Đức Kito, Ngài dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo.” Nhưng thật khó, vì nhiều lúc chúng con quá đau khổ, quá cô đơn, tủi nhục…lại phải chống trả bản tính xác thịt thích an nhàn, hưởng thụ, sung sướng hạnh phúc, hơn là vất vả thiệt thòi, hy sinh; thích thu nhận tích trữ hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ. Xin dạy chúng con biết làm việc, chiến đấu, hy sinh, mà không đòi phần thưởng, phục vụ không cần đền đáp. Xin thánh gía trở nên gương mẫu cho chúng con, nhờ đó chúng con không coi đau khổ là một bất hạnh nữa, mà là dấu chỉ cho biết chúng con đang thuộc về Ngài. Vì Đứv Kito, Chúa chúng con. Amen Than men, duyenky


Sep  16,  2018 - Chúa  nhật  24  thường  niên  năm  B

Đau  khổ  mang  lại  ơn  cứu  rỗi.




https://youtu.be/Dg2mvWBgR1U
             
Các Bạn thân mến,
Trong thời gian Đức Giesu đi rao giảng và tuyển mộ môn đệ, Ngài đã sống, giảng dạy, đi đây đó giữa loài người, mong để lại một thông điệp cho nhân loại, đó là viết nó vào lòng của các môn đệ, của một số người, nhưng nếu không ai thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, không nắm được thông điệp của Ngài, thì công lao của Ngài chẳng đi đến đâu, công cuộc cứu chuộc trần gian sẽ bế tắc. Nên vấn đề Đức Giesu phải đối đầu là cuộc sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng nào chưa? Ngài đã thực hiện được những gì? Đủ chưa? Dân chúng có khám phá ra Ngài là ai không? Vì thế trong thời gian này, Đức Giesu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm, để Ngài nghe từ chính họ và thăm dò dư luận quần chúng:
 1.    "Người ta nói Thầy là ai?":
-     Các ông đáp:"Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Gỉa, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó."
-    Nghĩa là Ngài đã có ảnh hưởng đến dân chúng, dù suy nghĩ, nhận thức, phát biểu khác nhau nhưng đều cùng một ý là họ đã nhận ra Ngài là một người đặc biệt thuộc về Thiên Chúa.
-    Rồi Ngài quay ra hỏi các môn đệ:"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
-    Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường, để đạt tới một xác tín cá nhân.
-    Thình lình ông Phero nhận ra được điều ông vẫn biết từ lâu nơi tâm lòng mình, ông nhanh nhẹn trả lời:"Thầy là Đấng Kito."
-    Khi tuyên xưng như vậy chắc chắn Phero đã biết Đức Giesu là Đấng Mesia, Chúa Cứu Thế, Đấng được Xức dầu, là Con Thiên Chúa.
-    Câu trả lời này, Đức Giesu rất hài lòng, vì chứng tỏ Ngài không thất bại.
-    Nhưng ngay sau đó, Đừc Giesu lại bảo các ông không được nói với ai về Ngài.
-    Vì trong suốt qúa trình tồn tại, dân Do Thái không bao giờ quên họ là tuyển dân của Thiên Chúa theo một ý nghĩa đặc biệt. Họ trông mong một địa vị độc tôn trong thế gian, bằng các phương tiện tự nhiên.
-    Họ mơ ước một ngày nào đó sẽ có một vị vua thuộc dòng dõi vua Davit, giúp họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực.
-    Tuy nhiên, thời gian dài trôi qua, họ chẳng chinh phục được ai, chẳng cai trị được nước nào, mà còn không biết đến tự do độc lập là gì. Bởi dân chúng bị đầy sang Asyri, vĩnh viễn thất lạc; người Balilon lại chinh phục Gierusalem, bắt dân Do Thái làm tù binh; rồi đến người Ba Tư cai trị họ, tiếp theo là người Hy Lạp, và người La Mã.
-    Nên càng ngày họ càng mơ ước, trông mong Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử họ bằng phương tiện siêu nhiên, để thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên đã không làm được. 
-    Hầu xứ Palestin sẽ là trung tâm của địa cầu, cả thế gian sẽ qui phục nó, mọi dân tộc đều bị đè bẹp. Cuối cùng một thời đại mới hòa bình tốt đẹp sẽ đến với họ và tồn tại vĩnh cửu.
-    Đó là những ý niệm về Đấng Mesia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái trước và lúc Đức Giesu đến thế gian.
-    Các ý niệm ấy thật tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù.
-    Đức Giesu bị đặt trong bối cảnh ấy, nên chẳng có gì ngạc nhiên về những việc Ngài làm, cũng như Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa mới của Đấng Mesia, dù Ngài biết sẽ phải trả gía rất đắt.
-    Đức Giesu là ai? Là một câu hỏi được đặt ra không chỉ trong thời Đức Giesu còn tại thế, mà còn được đặt ra trong mọi thời đại, cho mọi người, đặc biệt là thời đại chúng ta.
-    Câu hỏi đó cũng không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về Đức Giesu, mà nó còn được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
-   Thời nào Đức Giesu cũng nghe nhiều câu trả lời khác nhau, mỗi câu trả lời đều thể hiện quan niệm, sự hiểu biết và lối sống khác nhau.
-    Như khi xưa, nhiều người cũng nhìn nhận Đức Giesu là một vĩ nhân, đạo Ngài lập ra là đạo tốt. Nhưng đạo đó không giúp ích gì nhiều cho cuộc sống mà họ đang cần cơm áo tiền của, công danh, sự nghiệp, địa vị thế trần. Vì thế ai cũng chỉ quan tâm, lao mình vào cuộc sống vật chất, khi rảnh rang, về gìa, gần đất xa trời mới cần đến lý tưởng tôn giáo!
-    Cho đến hôm nay, sống trong cơn lốc của tiến bộ, nhưng con người vẫn ngại thăng tiến, nên vẫn không hiểu về Ngài. Nếu được hỏi, họ vẫn có những câu trả lời chỉ phản ảnh tính cách, công việc của trần thế, như Đức Giesu là:
  .  vị thẩm phán khắt khe phải theo vì sợ bị khép vào tội này nọ rồi bị đầy ải.
      .  vị thần tiên nhiều phép. Nếu phù hộ, thì đặt lên bàn thờ tôn kính, không thì mời đi chỗ khác!
  . vị lương y có thể trông cậy nhờ vả lúc ốm đau, già yếu, bệnh hoạn.
  . vị nào đó, tôi không biết, cũng chẳng tin, vì chết là hết!
  . v.v…
-  Thiên Chúa đau buồn biết bao khi tín hữu nhận định về Ngài như thế. Chẳng khác có Ngài cũng như không.  
-    Riêng chúng ta, hãy nhìn lại quá khứ, hiện tại để xét xem Ngài đã làm gì cho mình, Ngài có thật sự là: Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù như dân Do Thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho chúng ta.
-   Từ đó đánh giá được chính mình hầu chấn chỉnh tư tưởng tình cảm và hành động của mình cho đúng đắn.
2.    Đấng Mesia và sự đau khổ:
 -    Nhờ câu tuyên xưng của Phero, Đức Giesu:"bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại."
-    Nghĩa là Ngài nói công khai, rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài.
-    Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bầy. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi Ngài
-    Khi Đức Giesu kết hợp chức vụ Đấng Mesia với sự đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ những điều khó tin, khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận, làm họ choáng váng thất vọng, nhưng đó là sự thật, là con đường dẫn đến hạnh phúc vĩnh cửu.
-    Mặc dù Ngài không muốn đau khổ, chẳng muốn chết, Ngài có quyền năng để xử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Nhưng Ngài đã không làm thế.
-    Ngài không chỉ là siêu nhân, mà còn là Con Thiên Chúa. Nên lý tưởng Ngài đề ra cho chúng ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vọng, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện lý tưởng đó dù phải trải qua nhiều gian truân.
-    Tuy nhiên, chính cái lý tưởng ấy khiến chúng ta sống xứng đáng là người.
-     Bởi với Đức Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng, cách thức chúng ta xử lý chúng.
-    Tuy không thể tránh được khổ đau nhưng có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
 -    Nếu từ chối không chấp nhận khổ đau, chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu bắt chước Đức Giêsu can đảm nâng chúng lên, thì sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống.
-    Thật vậy, con người mà chỉ biết mải mê kiếm tìm, thu giữ, ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời, say sưa thỏa mãn nhục dục… thì chẳng khác gì con vật.
-    Đức Giesu muốn giúp chúng ta sống cao hơn con vật, xứng đáng là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ.
-    Nghĩa là phải bỏ thói hư tật xấu, vác thập gía mình mà đi theo Ngài, phải vươn lên, vươn cao hơn những nhu cầu vật chất tầm thường.
-    Đức Giesu xuống thế làm người, tiên phong sống như thế để giúp chúng ta cũng sống như vậy, là vâng theo hướng dẫn của Ngài:"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo."
-    Ngài cho chúng ta một hình ảnh về người Kito hữu, là người vác thập gía mình đi theo sau Đức Giesu vác thập gía.
-     Nên sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng.
-    Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt.
     a) Từ bỏ chính mình: 
 -    Thời nào cũng có những nhà hiền triết, những vĩ nhân, các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội luôn kêu gọi mọi người từ bỏ kiêu căng, ích kỷ, lòng tham, tiền tài, danh vọng bất chính.
-    Nhưng sự từ bỏ mà Đức Giesu kêu mời không chỉ có mục đích để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi từ bỏ mọi sự để dễ dàng đi theo Ngài, sống hiền lành, khiêm nhu, khó nghèo, nhịn nhục, hy sinh cho tha nhân. Sự từ bỏ này dẫn chúng ta đến một cuộc sống phong phú dồi dào có ý nghĩa hơn.
-    Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do, con người có quyền lựa chọn, nhưng lại là một điều kiện tiên quyết.
-    Không phải là tha hóa, vong thân, nhưng là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống mình, không còn là mình nữa để nên giống Đức Giesu.
-    Thực tế vấn đề đó đụng đến sự hy sinh, phải chịu thiệt thòi mất mát nhiều mặt.
-    Và cũng không phải hy sinh một vài lần, thiệt thòi một vài thứ, hoặc quyết định một lần thay cho suốt cả cuộc đời, mà là thái độ luôn sẵn sàng trong mọi giây phút của cuộc sống, như thế qủa thật không dễ!
-    Nên theo người đời thì đó là điên khùng, thua lỗ, ngu dại, nhưng đối với Thiên Chúa thì chúng ta chẳng điên chẳng lỗ chút nào. Mà là khôn ngoan, sáng suốt, vì khước từ cái mau qua để được cái vinh cửu, bỏ cái tương đối để được cái tuyệt đối, bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, như thế còn gì bằng?
-    Nhưng Đức Giesu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tận căn, tận gốc rễ của mọi sự từ bỏ, đó là từ bỏ chính mình, không phải chỉ một ít đồ vật, một ít ý riêng, một ít sở thích nào đó mà thôi.
-    Bởi cái tôi luôn có nguy cơ lớn lên song song không chỉ với con người, mà cả với lòng quảng đại hiến thân của chúng ta nữa.
-    Nên trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi bản ngã. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mỗi Kito hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, trí thức hay yếu kém.
-    Cũng nên biết thêm rằng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được; chỉ với ơn Chúa chúng ta mới có thể làm được điều khó khăn này.
-    Tuy thế hệ ngày nay không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại bị chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy ích kỷ, tham vọng…nên vấn đề từ bỏ mình lại càng khó khăn hơn.
-    Chỉ mình Thiên Chúa mới biết đường ngay nẻo chính để dẫn dắt, vậy hãy trông cậy và xin Ngài giúp đỡ để chúng ta luôn biết bỏ mình đi theo Ngài.
     b)    Vác thập gía mình:
-    Là đón nhận mọi đau khổ, mọi khổ cực, mọi bất hạnh về tinh thần, tình cảm, thể xác của đời mình, không phân biệt nguồn gốc, lý do, thể loại, nguy hiểm.
-    Bởi đau khổ Chúa nói không phải để hành hạ con người, mà để dẫn con người đến đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc thật.
-    Thập gía và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người đựơc tái sinh và triển nở trong đời sống vĩnh cửu mới.
-    Nên người Kito hữu luôn tin rằng giữa những nỗi thống khổ luôn có tình yêu của Thiên Chúa.
-    Vì thế chính những thái độ đón nhận bất hạnh nói lên lòng tin vào lời hứa của Thiên Chúa, lòng cậy vào sự trung tín, và lòng mến Thiên Chúa.
-    Đem những ý tưởng ấy và ý tưởng đền tội vào việc chịu đau khổ sẽ giúp cho việc chịu đau khổ nhẹ nhàng, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
-    Đau khổ như vậy được gọi là đau khổ giải thoát hay đau khổ mang lại ơn cứu rỗi.
-    Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi tín hữu phải có đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác nơi Chúa.
 -    Thập gía của Đức Giesu là do Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Còn thập gía của chúng ta là do lãnh lấy sứ mạng rao truyền Tin Mừng và muốn làm chứng cho Ngài.
-    Đó là những ý cuối cùng của Tin Mừng hôm nay, không chỉ nhắm vào các môn đệ, mà nhắm đến tất cả Kito hữu, không phân biệt bậc sống.
       c)  Cám dỗ:
-    Khi từ bỏ, vác thập gía mình tức là lúc chúng ta đau khổ, buồn bực; thường khi ấy có nhiều cám dỗ, của Sa tan, của người thân yêu muốn nâng đỡ, an ủi chúng ta mà không biết đó là cám dỗ.
-    Loại cám dỗ này thường nói với chúng ta bằng giọng ngọt ngào, có tình có lý.
-    Nhưng đó là loại cám dỗ nguy hiểm vì khó đề phòng, khó nhận biết, nó lại thường ẩn dưới dạng nhân nghĩa để tấn công.
-    Đây là một kinh nghiệm sống rất thực tế, mà ai cũng có thể thường gặp.
-    Như khi quyết định tiến hành một công việc to lớn, phải lẽ nào đó mà chắc chắn sẽ không tránh khỏi mất mát, rắc rối, nguy hiểm.
-    Đúng lúc ấy có thể người trong gia đình, hoặc bạn thân đến với ý định tốt, cố cản ngăn chúng ta với lý lẽ hợp tình hợp lý. Thế là chúng ta tháo lui, bỏ cuộc!
-    Rồi một điều rất nguy hiểm nữa là ngay cả khi chúng ta làm việc tốt lành, cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình.
-    Cần sáng suốt để nhận ra tất cả những điều ấy đều"không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
-    Đó cũng chính là chuyện đã xẩy ra với Đức Giesu mà Tin Mừng hôm nay ghi lại:"ông Phero liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người."
-    Không biết ông Phero nói gì với Đức Giesu, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành của ông.
-    Nhưng Đức Giesu đã thấy lời can ngăn như vậy thật nguy hiểm, Ngài nhận ra đó là cám dỗ của Sa tan, và liền quở trách Satan qua Phero:"Sa tan lại đằng sau Thầy!" 
-   Hãy cảm tạ Đức Giêsu, vì phiền muộn, khổ đau sẽ biến thành nguồn sống, biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, thông hiểu kẻ khác hơn, mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Lạy Đức Kito, Ngài dạy:  “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo.” Nhưng thật khó, vì nhiều lúc chúng con quá đau khổ, quá cô đơn, tủi nhục…lại phải chống trả bản tính xác thịt thích an nhàn, hưởng thụ, sung sướng hạnh phúc, hơn là vất vả thiệt thòi, hy sinh; thích thu nhận tích trữ hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết làm việc, chiến đấu, hy sinh, mà không đòi phần thưởng, phục vụ không cần đền đáp.
Xin thánh gía trở nên gương mẫu cho chúng con, nhờ đó chúng con không coi đau khổ là một bất hạnh nữa, mà là dấu chỉ cho biết chúng con đang thuộc về Ngài. Vì Đứv Kito, Chúa chúng con. Amen
 Than men,
duyenky

Đau khổ mang lại ơn cứu rỗi.
             
Các Bạn thân mến,
Trong thời gian Đức Giesu đi rao giảng và tuyển mộ môn đệ, Ngài đã sống, giảng dạy, đi đây đó giữa loài người, mong để lại một thông điệp cho nhân loại, đó là viết nó vào lòng của các môn đệ, của một số người, nhưng nếu không ai thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, không nắm được thông điệp của Ngài, thì công lao của Ngài chẳng đi đến đâu, công cuộc cứu chuộc trần gian sẽ bế tắc. Nên vấn đề Đức Giesu phải đối đầu là cuộc sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng nào chưa? Ngài đã thực hiện được những gì? Đủ chưa? Dân chúng có khám phá ra Ngài là ai không? Vì thế trong thời gian này, Đức Giesu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm, để Ngài nghe từ chính họ và thăm dò dư luận quần chúng:
 1.    "Người ta nói Thầy là ai?":
-     Các ông đáp:"Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Gỉa, có kẻ thì bảo là ông Elia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó."
-    Nghĩa là Ngài đã có ảnh hưởng đến dân chúng, dù suy nghĩ, nhận thức, phát biểu khác nhau nhưng đều cùng một ý là họ đã nhận ra Ngài là một người đặc biệt thuộc về Thiên Chúa.
-    Rồi Ngài quay ra hỏi các môn đệ:"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
-    Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường, để đạt tới một xác tín cá nhân.
-    Thình lình ông Phero nhận ra được điều ông vẫn biết từ lâu nơi tâm lòng mình, ông nhanh nhẹn trả lời:"Thầy là Đấng Kito."
-    Khi tuyên xưng như vậy chắc chắn Phero đã biết Đức Giesu là Đấng Mesia, Chúa Cứu Thế, Đấng được Xức dầu, là Con Thiên Chúa.
-    Câu trả lời này, Đức Giesu rất hài lòng, vì chứng tỏ Ngài không thất bại.
-    Nhưng ngay sau đó, Đừc Giesu lại bảo các ông không được nói với ai về Ngài.
-    Vì trong suốt qúa trình tồn tại, dân Do Thái không bao giờ quên họ là tuyển dân của Thiên Chúa theo một ý nghĩa đặc biệt. Họ trông mong một địa vị độc tôn trong thế gian, bằng các phương tiện tự nhiên.
-    Họ mơ ước một ngày nào đó sẽ có một vị vua thuộc dòng dõi vua Davit, giúp họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực.
-    Tuy nhiên, thời gian dài trôi qua, họ chẳng chinh phục được ai, chẳng cai trị được nước nào, mà còn không biết đến tự do độc lập là gì. Bởi dân chúng bị đầy sang Asyri, vĩnh viễn thất lạc; người Balilon lại chinh phục Gierusalem, bắt dân Do Thái làm tù binh; rồi đến người Ba Tư cai trị họ, tiếp theo là người Hy Lạp, và người La Mã.
-    Nên càng ngày họ càng mơ ước, trông mong Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử họ bằng phương tiện siêu nhiên, để thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên đã không làm được. 
-    Hầu xứ Palestin sẽ là trung tâm của địa cầu, cả thế gian sẽ qui phục nó, mọi dân tộc đều bị đè bẹp. Cuối cùng một thời đại mới hòa bình tốt đẹp sẽ đến với họ và tồn tại vĩnh cửu.
-    Đó là những ý niệm về Đấng Mesia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái trước và lúc Đức Giesu đến thế gian.
-    Các ý niệm ấy thật tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù.
-    Đức Giesu bị đặt trong bối cảnh ấy, nên chẳng có gì ngạc nhiên về những việc Ngài làm, cũng như Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa mới của Đấng Mesia, dù Ngài biết sẽ phải trả gía rất đắt.
-    Đức Giesu là ai? Là một câu hỏi được đặt ra không chỉ trong thời Đức Giesu còn tại thế, mà còn được đặt ra trong mọi thời đại, cho mọi người, đặc biệt là thời đại chúng ta.
-    Câu hỏi đó cũng không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về Đức Giesu, mà nó còn được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
-   Thời nào Đức Giesu cũng nghe nhiều câu trả lời khác nhau, mỗi câu trả lời đều thể hiện quan niệm, sự hiểu biết và lối sống khác nhau.
-    Như khi xưa, nhiều người cũng nhìn nhận Đức Giesu là một vĩ nhân, đạo Ngài lập ra là đạo tốt. Nhưng đạo đó không giúp ích gì nhiều cho cuộc sống mà họ đang cần cơm áo tiền của, công danh, sự nghiệp, địa vị thế trần. Vì thế ai cũng chỉ quan tâm, lao mình vào cuộc sống vật chất, khi rảnh rang, về gìa, gần đất xa trời mới cần đến lý tưởng tôn giáo!
-    Cho đến hôm nay, sống trong cơn lốc của tiến bộ, nhưng con người vẫn ngại thăng tiến, nên vẫn không hiểu về Ngài. Nếu được hỏi, họ vẫn có những câu trả lời chỉ phản ảnh tính cách, công việc của trần thế, như Đức Giesu là:
  .  vị thẩm phán khắt khe phải theo vì sợ bị khép vào tội này nọ rồi bị đầy ải.
      .  vị thần tiên nhiều phép. Nếu phù hộ, thì đặt lên bàn thờ tôn kính, không thì mời đi chỗ khác!
  . vị lương y có thể trông cậy nhờ vả lúc ốm đau, già yếu, bệnh hoạn.
  . vị nào đó, tôi không biết, cũng chẳng tin, vì chết là hết!
  . v.v…
-  Thiên Chúa đau buồn biết bao khi tín hữu nhận định về Ngài như thế. Chẳng khác có Ngài cũng như không.  
-    Riêng chúng ta, hãy nhìn lại quá khứ, hiện tại để xét xem Ngài đã làm gì cho mình, Ngài có thật sự là: Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù như dân Do Thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho chúng ta.
-   Từ đó đánh giá được chính mình hầu chấn chỉnh tư tưởng tình cảm và hành động của mình cho đúng đắn.
2.    Đấng Mesia và sự đau khổ:
 -    Nhờ câu tuyên xưng của Phero, Đức Giesu:"bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại."
-    Nghĩa là Ngài nói công khai, rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài.
-    Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bầy. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi Ngài
-    Khi Đức Giesu kết hợp chức vụ Đấng Mesia với sự đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ những điều khó tin, khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận, làm họ choáng váng thất vọng, nhưng đó là sự thật, là con đường dẫn đến hạnh phúc vĩnh cửu.
-    Mặc dù Ngài không muốn đau khổ, chẳng muốn chết, Ngài có quyền năng để xử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Nhưng Ngài đã không làm thế.
-    Ngài không chỉ là siêu nhân, mà còn là Con Thiên Chúa. Nên lý tưởng Ngài đề ra cho chúng ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vọng, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện lý tưởng đó dù phải trải qua nhiều gian truân.
-    Tuy nhiên, chính cái lý tưởng ấy khiến chúng ta sống xứng đáng là người.
-     Bởi với Đức Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng, cách thức chúng ta xử lý chúng.
-    Tuy không thể tránh được khổ đau nhưng có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
 -    Nếu từ chối không chấp nhận khổ đau, chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu bắt chước Đức Giêsu can đảm nâng chúng lên, thì sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống.
-    Thật vậy, con người mà chỉ biết mải mê kiếm tìm, thu giữ, ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời, say sưa thỏa mãn nhục dục… thì chẳng khác gì con vật.
-    Đức Giesu muốn giúp chúng ta sống cao hơn con vật, xứng đáng là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ.
-    Nghĩa là phải bỏ thói hư tật xấu, vác thập gía mình mà đi theo Ngài, phải vươn lên, vươn cao hơn những nhu cầu vật chất tầm thường.
-    Đức Giesu xuống thế làm người, tiên phong sống như thế để giúp chúng ta cũng sống như vậy, là vâng theo hướng dẫn của Ngài:"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo."
-    Ngài cho chúng ta một hình ảnh về người Kito hữu, là người vác thập gía mình đi theo sau Đức Giesu vác thập gía.
-     Nên sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng.
-    Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt.
     a) Từ bỏ chính mình: 
 -    Thời nào cũng có những nhà hiền triết, những vĩ nhân, các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội luôn kêu gọi mọi người từ bỏ kiêu căng, ích kỷ, lòng tham, tiền tài, danh vọng bất chính.
-    Nhưng sự từ bỏ mà Đức Giesu kêu mời không chỉ có mục đích để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi từ bỏ mọi sự để dễ dàng đi theo Ngài, sống hiền lành, khiêm nhu, khó nghèo, nhịn nhục, hy sinh cho tha nhân. Sự từ bỏ này dẫn chúng ta đến một cuộc sống phong phú dồi dào có ý nghĩa hơn.
-    Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do, con người có quyền lựa chọn, nhưng lại là một điều kiện tiên quyết.
-    Không phải là tha hóa, vong thân, nhưng là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống mình, không còn là mình nữa để nên giống Đức Giesu.
-    Thực tế vấn đề đó đụng đến sự hy sinh, phải chịu thiệt thòi mất mát nhiều mặt.
-    Và cũng không phải hy sinh một vài lần, thiệt thòi một vài thứ, hoặc quyết định một lần thay cho suốt cả cuộc đời, mà là thái độ luôn sẵn sàng trong mọi giây phút của cuộc sống, như thế qủa thật không dễ!
-    Nên theo người đời thì đó là điên khùng, thua lỗ, ngu dại, nhưng đối với Thiên Chúa thì chúng ta chẳng điên chẳng lỗ chút nào. Mà là khôn ngoan, sáng suốt, vì khước từ cái mau qua để được cái vinh cửu, bỏ cái tương đối để được cái tuyệt đối, bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, như thế còn gì bằng?
-    Nhưng Đức Giesu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tận căn, tận gốc rễ của mọi sự từ bỏ, đó là từ bỏ chính mình, không phải chỉ một ít đồ vật, một ít ý riêng, một ít sở thích nào đó mà thôi.
-    Bởi cái tôi luôn có nguy cơ lớn lên song song không chỉ với con người, mà cả với lòng quảng đại hiến thân của chúng ta nữa.
-    Nên trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi bản ngã. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mỗi Kito hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, trí thức hay yếu kém.
-    Cũng nên biết thêm rằng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được; chỉ với ơn Chúa chúng ta mới có thể làm được điều khó khăn này.
-    Tuy thế hệ ngày nay không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại bị chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy ích kỷ, tham vọng…nên vấn đề từ bỏ mình lại càng khó khăn hơn.
-    Chỉ mình Thiên Chúa mới biết đường ngay nẻo chính để dẫn dắt, vậy hãy trông cậy và xin Ngài giúp đỡ để chúng ta luôn biết bỏ mình đi theo Ngài.
     b)    Vác thập gía mình:
-    Là đón nhận mọi đau khổ, mọi khổ cực, mọi bất hạnh về tinh thần, tình cảm, thể xác của đời mình, không phân biệt nguồn gốc, lý do, thể loại, nguy hiểm.
-    Bởi đau khổ Chúa nói không phải để hành hạ con người, mà để dẫn con người đến đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc thật.
-    Thập gía và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người đựơc tái sinh và triển nở trong đời sống vĩnh cửu mới.
-    Nên người Kito hữu luôn tin rằng giữa những nỗi thống khổ luôn có tình yêu của Thiên Chúa.
-    Vì thế chính những thái độ đón nhận bất hạnh nói lên lòng tin vào lời hứa của Thiên Chúa, lòng cậy vào sự trung tín, và lòng mến Thiên Chúa.
-    Đem những ý tưởng ấy và ý tưởng đền tội vào việc chịu đau khổ sẽ giúp cho việc chịu đau khổ nhẹ nhàng, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
-    Đau khổ như vậy được gọi là đau khổ giải thoát hay đau khổ mang lại ơn cứu rỗi.
-    Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi tín hữu phải có đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác nơi Chúa.
 -    Thập gía của Đức Giesu là do Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Còn thập gía của chúng ta là do lãnh lấy sứ mạng rao truyền Tin Mừng và muốn làm chứng cho Ngài.
-    Đó là những ý cuối cùng của Tin Mừng hôm nay, không chỉ nhắm vào các môn đệ, mà nhắm đến tất cả Kito hữu, không phân biệt bậc sống.
       c)  Cám dỗ:
-    Khi từ bỏ, vác thập gía mình tức là lúc chúng ta đau khổ, buồn bực; thường khi ấy có nhiều cám dỗ, của Sa tan, của người thân yêu muốn nâng đỡ, an ủi chúng ta mà không biết đó là cám dỗ.
-    Loại cám dỗ này thường nói với chúng ta bằng giọng ngọt ngào, có tình có lý.
-    Nhưng đó là loại cám dỗ nguy hiểm vì khó đề phòng, khó nhận biết, nó lại thường ẩn dưới dạng nhân nghĩa để tấn công.
-    Đây là một kinh nghiệm sống rất thực tế, mà ai cũng có thể thường gặp.
-    Như khi quyết định tiến hành một công việc to lớn, phải lẽ nào đó mà chắc chắn sẽ không tránh khỏi mất mát, rắc rối, nguy hiểm.
-    Đúng lúc ấy có thể người trong gia đình, hoặc bạn thân đến với ý định tốt, cố cản ngăn chúng ta với lý lẽ hợp tình hợp lý. Thế là chúng ta tháo lui, bỏ cuộc!
-    Rồi một điều rất nguy hiểm nữa là ngay cả khi chúng ta làm việc tốt lành, cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình.
-    Cần sáng suốt để nhận ra tất cả những điều ấy đều"không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
-    Đó cũng chính là chuyện đã xẩy ra với Đức Giesu mà Tin Mừng hôm nay ghi lại:"ông Phero liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người."
-    Không biết ông Phero nói gì với Đức Giesu, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành của ông.
-    Nhưng Đức Giesu đã thấy lời can ngăn như vậy thật nguy hiểm, Ngài nhận ra đó là cám dỗ của Sa tan, và liền quở trách Satan qua Phero:"Sa tan lại đằng sau Thầy!" 
-   Hãy cảm tạ Đức Giêsu, vì phiền muộn, khổ đau sẽ biến thành nguồn sống, biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, thông hiểu kẻ khác hơn, mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Lạy Đức Kito, Ngài dạy:  “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo.” Nhưng thật khó, vì nhiều lúc chúng con quá đau khổ, quá cô đơn, tủi nhục…lại phải chống trả bản tính xác thịt thích an nhàn, hưởng thụ, sung sướng hạnh phúc, hơn là vất vả thiệt thòi, hy sinh; thích thu nhận tích trữ hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết làm việc, chiến đấu, hy sinh, mà không đòi phần thưởng, phục vụ không cần đền đáp.
Xin thánh gía trở nên gương mẫu cho chúng con, nhờ đó chúng con không coi đau khổ là một bất hạnh nữa, mà là dấu chỉ cho biết chúng con đang thuộc về Ngài. Vì Đứv Kito, Chúa chúng con. Amen
 Than men,
duyenky

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét