PHO - MÁT
Theo huyền thoại thì pho
mát được một nhà kinh doanh tình cờ khám phá ra cách nay nhiều ngàn năm. Trong
một chuyến đi buôn xa, ông mang theo nhiều lương thực, trong đó có sữa đựng
trong một cái bao tử lạc đà khô.
Một hôm, lấy sữa ra uống
thì thấy sữa đã đông đặc dưới ảnh hưởng của hơi nóng mặt trời và vài hóa chất
còn dính lại ở bao tử lạc đà. Nếm thử “cục sữa” ông ta thấy ngon và béo. Thế là
ông ta tìm hiểu thêm rồi sản xuất món sữa đông rắn này và làm giầu.
Từ đó pho mát được nhiều
quốc gia trên thế giới sản xuất và trở thành món ăn rất phổ thông trong bữa ăn
chính, để tráng miệng, ăn khai vị cũng như ăn vặt trong ngày.
Cách làm
Pho mát có thể làm từ bất
cứ loại sữa động vật nào như cừu, dê, trâu, lạc đà, lừa... nhưng thông thường
nhất vẫn là từ sữa bò.
Nguyên tắc làm cũng giản dị.
Vi khuẩn Lactobacilli hoặc Streptococci được
cho thêm vào sữa để chuyển hóa lactose và tạo ra acid lactic. Acid này làm chất
đạm casein của sữa đóng bánh. Một diếu tố lấy từ bao tử bò non được thêm vào rồi
để lắng đọng khoảng 24 giờ. Thời gian lắng đọng càng lâu thì pho mát càng chắc
hơn.
Sau đó cục casein được vắt
bớt nước đi rồi đun nóng cho bay hơi, làm pho mát cứng hơn nữa.
Thế là ta đã có miếng pho
mát tươi. Loại pho mát này chưa ngấu, dễ hư nên cần được để trong tủ lạnh và chỉ
dùng trong dăm ngày. Pho mát được ăn chung với sà lách, bánh mì hoặc để nấu.
Muốn có phó mát ngấu, phải lấy bớt chất lỏng
ra bằng muối rồi chế thêm vi khuẩn Penicillum camembert (pho mát Camembert,
Brie) hoặc vi khuẩn Penicillium roquefort (pho mát Roquefort, Blue cheese).
Chế biến pho mát là một
phương thức giúp chúng ta chuyển một thực phẩm dễ hư là sữa, sang một thực phẩm
ít bị hư hơn và đồng thời cũng là cách để dành sữa dưới dạng có thể giữ được
lâu.
Các loại pho mát
Pho mát được phân loại
theo nhiều cách.
Pho mát tươi như cream,
cottage cheese và pho mát ngấu như Chedda, Swiss, Camembert, Gorganzola,
Thông thường nhất là phân
loại tùy theo sự cứng mềm hoặc độ ẩm của pho mát:
Pho mát mềm như Cottage,
Ricotta, cream; Trung bình như Morazella, Blue, Camembert, Pizza, Edam, Swiss,
Chedda, Provolone; Cứng như Dry Ricotta, Mysost, Romano, Parmesan.
Dinh
dưỡng
Pho mát giữ nguyên được
các chất dinh dưỡng từ sữa đã sản xuất ra chúng: chất đạm với các amino acid cần
thiết, ít chất béo và cholesterol hơi cao. Hầu hết pho mát có nhiều sinh tố A.
Calci có nhiều trong pho mát rắn, ít trong pho mát mềm.
Trung bình 30gr pho mát
cung cấp 100 calori, 180mg calci, 8gr chất béo, 9gr chất đạm.
Chất béo làm pho mát có
hương vị hấp dẫn đặc biệt nhưng cũng gây ra vài không tốt cho sức khỏe. Ngày
nay có pho mát ít chất béo hoặc pho mát làm từ sữa đậu nành.
Ăn pho mát
Pho mát thường được dùng
như món ăn chơi hoặc trộn lẫn với thực phẩm khác như đậu, rau, mì sợi, bánh mì,
chứ không dùng làm món ăn chính, mặc dù có nhiều chất dinh dưỡng.
Vài
điểm cần lưu ý.
a-Một vài loại pho mát
như Cheddar, Swiss, Rocquefort có thể bảo vệ răng khỏi bị sâu. Pho mát kích
thích nước miếng tiết ra để trung hòa acid do vi sinh vật trong miệng tác dụng
trên thức ăn kẹt trong răng. Acid này ăn mòn men răng, khiến răng mau hư.
b-Bác sĩ thường khuyên
người bị cao huyết áp, cao cholesterol, nặng quá ký không nên ăn pho mát vì có
nhiều chất béo và muối sodium.
c-Ai bị dị ứng với
Penicillin không nên ăn blue cheese vì pho mát này được làm với tác dụng của nấm
penicillin.
đ-Pho mát có nhiều tyramine, một hóa chất làm
động mạch co thắt và có thể gây ra cơn cao máu bất thình lình, nhất là ở bệnh
nhân dùng thuốc trị trầm cảm dạng ức chế monoamine oxidase inhibitors (MAO
inhibitor).
Tyramine có nhiều trong
các loại pho-mát Camembert, Cheddar, Roquefort, Blue; rất ít trong Cottage,
cream cheese.
e-Khi mua, lựa pho mát bầy
trong ngăn tủ lạnh, coi kỹ ngày bán và ngày tiêu thụ; không mua loại bị mốc
meo, ngoại trừ khi meo là thành phần cấu tạo của pho mát như blue cheese.
g-Về nhà nên cất pho mát
vào tủ lạnh, gói kín để khỏi khô. Cất gói cẩn thận, pho mát rắn có thể để dành
sáu tháng, còn pho mát mềm nên dùng trong vòng một tuần.
KEM.
Kem (Ice cream) vẫn là món tráng miệng được ưa
thích của nhiều người.
Có nhiều loại kem khác nhau, nhưng thông dụng
nhất là vanilla, chocolate, dâu, xoài riêng. Kem sữa bột ngô (custard), nước
trái cây (Sherbet) và sữa để đông lạnh cũng là những món tráng miệng hấp dẫn.
Theo tiêu chuẩn, kem phải
có ít nhất 10% chất béo và 20% chất đạm của sữa.
Chất béo tạo ra một hương
vị ngầy ngậy và vẻ mịn mặt của kem. Càng nhiều chất béo, kem càng ngon.
Chất đạm là phần chính
trong cấu trúc của kem.
Kem có nhiều calci, một ít riboflavin và sinh
tố A.
Một nửa cup kem vanilla có 180 calori, 12gr chất
béo, 2gr chất dạm, 76mg calci.
Kem cần được giữ kín
trong bình giấy hoặc bình nhựa ở nhiệt độ đông lạnh. Giữ như vậy có thể dùng dần
được một tuần. Khi hộp kem đã mở, thì phải đậy cho kín để tránh bốc hơi, kem sẽ
bị khô.
BƠ
Bơ được làm bằng cách
đánh nhuyễn chất béo của sữa đã khử trùng.
Theo tiêu chuẩn chung, bơ
phải có ít nhất 80% chất béo của sữa. Chất béo của bơ có 62% là béo bão hòa,
35% đơn bất bão hòa và 4% đa bất bão hòa.
Một muỗng ăn canh bơ có
11gr chất béo, 7gr chất béo bão hòa, 31gr cholesterol và 1100 IU sinh tố A.
Bơ có thể có muối hoặc không có. Khi không có
muối thì phải ghi rõ là bơ không muối mà nhiều người quen gọi là bơ ngọt.
Bơ được phân chia ra làm
loại A và AA. Loại AA thì thơm, dịu ngọt, mịn mặt và dễ phết mỏng hơn loại A.
Nên giữ bơ trong giấy bao
kín để tránh không khí và lẫn mùi thực phẩm khác trong tủ lạnh. Mặc dù để trong
tủ lạnh, chất béo trong bơ cũng tác dụng với oxy làm bơ có mùi dầu khét. Ánh
sáng và hơi nóng cũng làm bơ mau khét.
Gói kín cất trong tủ đá,
bơ để dành được cả bốn, năm tháng.
Bơ cũng được dùng để rán
thực phẩm nhưng đun lửa quá nóng bơ sẽ bốc khói và thành mầu vàng cháy. Bơ
không dùng để chiên ngập (deep fried)
như dầu mỡ được.
Margarin
Vì bơ có nhiều chất béo
bão hòa, có nguy cơ gây ra nhiều bệnh tim mạch, ung thư nên nhiều người đã chuyển
sang dùng margarin. Hầu hết margarin được chế biến từ dầu thực vật.
Margarin được một nhà hóa
học Pháp là Hippolyte Mege-Mouries chế tạo ra vào năm 1870 khi hoàng đế Nã Phá
Luân III (1808 – 1873) treo giải thưởng
cho ai có thể làm ra một loại bơ khác với bơ từ sữa bò.
Margarin được làm bằng
cách trộn đánh chất béo lỏng với sữa không chất béo đã khử trùng, rồi thêm một
vài gia vị thơm.Thường thường khoảng 15,000 IU sinh tố A được cho thêm vào
margarine.
Năm 1993, các nhà nghiên
cứu tại Đại Học Harvard đã nêu ra một nghi vấn về sự an toàn của margarin và
cho là một vài loại có thể gây ra bệnh tim nhiều hơn là bơ thật.
Thông tin này làm cho người tiêu thụ cảm thấy
bối rối, không biết nên dùng bơ hay margarin. Có điều chắc chắn là bơ cho nhiều
hương vị hơn là margarin. Nhưng margarin có nhiều chất béo bất bão hòa hơn bơ
do đó lành hơn, nhất là loại margarin mềm. Nếu margarin lại được làm từ dầu cây
canola, hướng dương (sunflower), dầu ngô thì lại càng tốt hơn nữa.
Cả bơ và margarin đều cho một số calori bằng
nhau.
Khi margarin lỏng được
chuyển sang rắn thì lại có nhiều chất béo bão hòa Trans Fatty acid. Đây là chất
mà nhiều người cho là có thể làm tăng cholesterol trong máu.
Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét