Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019


DỰ  TIỆC  CƯỚI  CỦA  ĐÔI  VỢ  CHỒNG  LẤY  NHAU  KHÔNG  CÓ  PHÉP  CƯỚI  TRONG  GIÁO  HỘI  THÌ  BỊ  VẠ  TUYỆT  THÔNG?
 (Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)

Có hai người gọi và nói cho tôi biết 2 việc “lạ đời” sau đây, xin nói lại một lần nữa.

1- Bên Việt Nam, có nơi cha xứ đã đe ra vạ tuyệt thông cho ai đi dự tiệc cưới của đôi hôn phối nào không được làm phép cưới trong nhà thờ vì lý do nào đó nhưng cứ lấy nhau và tổ chức tiệc cưới ở nhà hàng.

2-Một linh mục đang coi một Cộng Đoàn Việt Nam ở Mỹ (Bắc California) đã rửa tội cho người dự tòng ngày Thứ sáu Tuần Thánh (Good Friday) lấy cớ là Cộng Đoàn không có Lễ Vọng Phục Sinh tối thứ bảy. Linh mục này còn “thêm sức” cho người dự tòng nhưng nói đó là “tạm thêm sức” thôi, chờ ngày được Giám Mục cho thêm sức thiệt!

Xin cha giải thích giúp những việc nói trên có hợp lý không?

Tôi thực quá ngạc nhiên và không hiểu được về 2 việc kể trên. Nhưng nếu đó là sự thật đã và đang xảy ra như người ta đã kể lại thì quả thực đây là những điều sai trái nghiêm trọng về giáo luật, cần giải thích để mọi người được biết.

I- Trước hết, về vấn đề vạ Tuyệt Thông (Anathema= Ex-communication):

 Đây là một hình phạt nặng nhất mà Giáo Hội bất đắc dĩ  phải tạm thời áp dụng cho một thành viên nào của Giáo Hội như giáo sĩ ( Giám mục, linh mục, phó tê) tu  sĩ hay giáo dân đã mắc phạm một trong những điều giáo luật cấm không được làm.. Bất đắc dĩ vì không còn chọn lựa nào khác đối với ai đã cố tình vi phạm một trong những điều luật cấm và  ngoan cố không chịu nhìn nhận lỗi đã phạm liên quan đến các phạm vi tín lý, giáo lý, luân lý,  giáo luật, phụng vụ    kỷ luật bí tích của Giáo Hội. 

Căn cứ theo bộ Giáo Luật mới ban hành năm 1983 thì có một số trường hợp nghiêm trong phải áp dụng vạ tuyệt thông tiền kết như sau:

 Nhưng trước hết, Giáo luật số 1318 qui định rõ rằng: “Nhà lập pháp chỉ nên ngăm đe hình phạt tiền kết (Latae sententiae) khi phải chống lại vài tội phạm đặc biệt cố tình phạm, hoặc chúng có thể gây gương xấu lớn , hay không thể phạt hữu hiệu bằng hình phạt hậu kết (Ferendae sententiae).. Ngoài ra chỉ nên thiết lập các vạ, nhất là vạ tuyệt thông một cách hết sức hạn chế và dành cho những tội khá nặng mà thôi.”

Như thế có nghĩa là không phải ai muốn ra vạ tuyệt thông thì cứ tùy tiện mà làm, không cần biết xem có được phép và có lý do chính đáng để làm hay không. Cũng cần nói ngay ở đây là giáo quyền địa phương- cụ thể là Giám mục Giáo phận- chỉ có thể ra vạ tuyệt thông hậu kết (ferendae sententiae) sau khi đã thất bại trong cố gắng thuyết phục can phạm nhìn nhận lỗi nặng đã phạm và tỏ thiện  chí muốn hối cải

Sau đây là những trường hợp vi phạm năng phải áp dụng vạ tuyệt thông tiền kết (Latae sententiae) theo Giáo luật mới năm 1983, áp dụng chung trong toàn Giáo Hội Công Giáo:

1-Giáo luật số 1364, triệt 1 nói rõ “người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết.

2-Giáo luật số 1367 phạt vạ tuyệt thông tiền kết cho ai ném bỏ Bánh Thánh (bánh đã được truyền phép trong Thánh lễ Tạ Ơn) lấy hoặc giữ  mang về nhà với mục đích phạm thánh. (Sacrilege)

3-Giáo luật số 1382 phạt vạ tuyệt thông tiền kết cho Giám mục nào truyền chức Giáo mục cho người khác mà không có ủy nhiệm thư của Đức Thánh Cha. Người được truyền chức cũng bị chung vạ này

4-Giáo luật số 1370. Triệt 1 phạt vạ tuyệt thông tiền kết cho ai hành hung Đức Thánh Cha

5-Giáo luật số 1388, triệt 1 phạt vạ tuyệt thông tiền kết cho Linh mục nào giải tội mà vi phạm trực tiếp ấn bí tích  ấn tòa giải tội = Seal of confessions) tức là tiết lộ cho người khác điều mình nghe trong tòa giải tội.

Triệt 2: thông dịch viên giúp cha giải tội mà tiết lộ bí mật nghe được từ người xưng tội cũng có thể bị vạ tuyệt thông.

6-Giáo luật số 1398 phạt vạ tuyệt thông tiền kết cho ai phá thai hoặc giúp người khác phá thai có kết quả. Tội này trước đây chỉ dành cho Đức Thánh Cha được tháo gỡ, nhưng nay Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho phép các linh mục trong toàn Giáo Hội được tha vạ này.

7-Giáo luật số 1378 phạt vạ tuyệt thông tiền kết cho:

a- Linh mục giải tội cho đồng lõa phạm tội nghích điều răn thứ sáu

b-không phải là linh mục mà dám cử hành Thánh Lễ cũng như giải tội cho người khác.

Cũng xin giải thích thêm là vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae) là vạ tự động (automatic excommunication) áp dụng cho người vi phạm điều gì đã cấm và chỉ Tòa Thánh được tháo gỡ mà thôi. Nghĩa là ai vi phạm một trong những điều giáo luật cấm thì đương nhiên hay tự động mắc vạ tiền kết.

Ngoài 7 trường hợp trên đây, tôi không thấy có khoản giáo luật nào cho phép phạt vạ tuyệt thông cho ai đi dự tiệc cưới của đôi vợ chồng không kết hôn theo đúng phép Đạo.

Nhưng thử hỏi: ai không kết hôn hợp pháp theo giáo luật, hay nói nôm na là hợp phép Đạo, thì có tức khắc bị vạ tuyệt thông tiền kết không, hay chỉ tạm thời không được phép xưng tội và rước Mình Thánh bao lâu tình trạng hôn phối chưa được giải quyết theo giáo luật?

Nếu kết hôn không hợp pháp theo giáo luật, tức là “rối” mà không tức khắc bị vạ tuyệt thông thì tại sao người đi dự tiệc cưới lại bị hình phạt nặng nhất này?

Giáo luật số 1347, triệt 1 nói rõ: Không thể tuyên kết cách hữu hiệu một vạ, nếu trước đó phạm nhân đã không được khuyến cáo ít là một lần để chấm dứt sự cố chấp và được dành một thời gian xứng hợp để hối cải.

Đành rằng việc trai gái sống chung không kết hôn, (rất thông thường ở Mỹ và  Âu Châu)  hoặc vợ chồng  không kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội là gương xấu phải tránh, và ai sống trong tình trạng này là sống trong tội, nên tạm thời không được thông công với hai bí tích hòa giải và Thánh Thể. Nhưng chắc chắn đây không phải là tội lớn lao đến mức phải bị vạ tuyệt thông tiền kết hay hậu kết được, vì không có khoản giáo luật cũ mới nào cho phép làm việc này. Lại càng vô lý và bất công khi phạt những người đi dự tiệc cưới của họ. Trong thực tế thì ở đâu cũng vậy, ai được mời dự tiệc cưới thì người ta cứ đi chứ có ai đi hỏi giấy phép của đôi tân hôn xem họ có lấy nhau hợp phép Đạo hay không. Và có nơi nào cha xứ đã cấp giấy phép này cho ai chưa, và có luật nào buộc những người muốn dự tiệc cưới của ai phải hỏi giấy phép này trước khi đi để khỏi bị vạ tuyệt thông?

Chắc chắn là không có nơi nào trong toàn Giáo Hội có luật “quải đản” này.

Thêm nữa, nếu cha xứ rao trên tòa giảng rằng đôi vợ chông nào đó đã không kết hôn đúng phép đạo và ra vạ tuyệt thông cho ai đi dự tiệc cưới của họ, thì đó là hành vi bêu xấu công khai người khác (ở Mỹ có thể bị truy tố ra tòa  tội phạm đến danh dự và đời tư của người khác) mà không linh mục nào được phép làm vì lỗi đức ái và vi phạm đời tư của người khác. Linh mục - đặc biệt là cha xứ - chỉ có bổn phận nói hay giải thích rõ cho giáo dân biết là phải kết hôn đúng theo giáo luật đòi hỏi thì mới được thông công bí tích với Giáo hội. Nghĩa là ai không tuân giữ thì không được thông công, hay cụ thể là tạm không được xưng tội và rước Mình Thánh Chúa cho đến khi tình trạng hôn phối được giải quyết thỏa đáng theo giáo luật.

Không hề có luật nào trục xuất họ ra khỏi Giáo Hội với vạ tuyệt thông cả. Ở Mỹ, có biết bao cặp vợ chồng đã sống chung và có con cái nhưng không chịu kết hôn trong Giáo Hội mà có cha xứ nào dám nêu tên tuổi của họ ra cho giáo dân biết hoặc từ chối không cho họ vào nhà thờ để dự lễ và cầu nguyện đâu? Hay ngược lại, chỉ cố gắng khuyên bảo và giúp họ sớm hợp thức hóa tình trạng hôn phối để được thông công bí tích với mọi người trong giáo xứ hay cộng đoàn.

Như vậy, nếu ở đâu làm chuyện “ngược đời” là ra vạ tuyệt thông như câu hỏi được đặt ra thì chắc chắn giáo quyền của địa phương ấy đã lạm dụng quyền (abuse of power) để tự ban hành giáo luật riêng áp dụng cho địa phương mình. Nhưng thử hỏi: giáo quyền địa phượng có được phép tự tiện làm việc này không ?? chắc chắn là không có luật nào cho phép giáo quyền địa phương tự ý ngăm đe ra hình phạt vạ tuyệt thông cho ai cả. Chỉ khi nào có ai vi phậm luật cắm mà không chịu nhìn nhận lỗi của mình dù đã được cảnh cáo ít là một lần mà vẫn không tỏ thiện chí muốn hối lỗi thì khi đó mới có thể áp dụng hình phạt vạ tuyết thông hậu kết. Liên quan đến việc này, người ta nhớ lại cách nay trên 30 năm ở Bắc Cali có xảy ra vụ lộn xộn trong một cộng đoàn Viêt Nam kia, giám mục địa phương đã đe vạ tuyệt thông hậu kết cho một vài người bị coi là có trách nhiệm trong vụ rắc rối đó… Nhưng sau đó, mọi việc được giải quyết êm đẹp nên giáo quyền địa phương đã bỏ ý đinh ra vạ tuyệt thông hậu kết như đã ngăm đe.

Như vậy, nếu không phải là lỗi nặng khiến phải ngăm đe hình phạt vạ tuyết thông, thì giáo quyền địa phương không thể tự ý đe dọa hình phạt vạ tuyệt thông này cho ai. Hay tại vì sống trong một xã hội mà luật pháp quốc gia không thống nhất áp dụng đồng đều ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ, nên “luật của giáo Hội địa phương” cũng tùy tiện lạm dụng theo luật pháp của xã hội? Thế thì còn gì là hiệp nhất (unity) và hiệp thông (communion) với Giáo Hội trong mọi phạm vi giáo lý, tín lý, luân lý , giáo luật và phụng vụ nữa?

Nhưng thử hỏi: nếu lấy lý do tránh gương xấu để phạt vạ tuyệt thông hậu kết cho những người đi ăn cưới của đội tân hôn không kết hôn theo phép Đạo, thì tại sao những việc khác không những là tai tiếng, là gương xấu to lớn công khai mà còn có tội về luân lý và giáo luật, mà  không bị vạ tuyệt thông? Cụ thể như linh mục công khai có vợ con mà vẫn làm mục vụ trong bao nhiêu năm, công khai ra ứng cử vào cơ quan công quyền, hoặc làm tay sai cho chế độ để trục lợi cá nhân, buôn thánh bán thánh (tội Simonia) vì đặt ra: “lễ đời đời” để lấy nhiều tiền của giáo dân không am hiểu về giá trị thiêng liêng của Lễ Misa cử hành trong Giáo Hội

Vậy tại sao Giám mục địa phương không ra vạ tuyệt thông cho những người này để làm gương cho người khác và bảo vệ uy tín và giáo luật của Giáo Hội?

Chưa hết, tại một số địa phương bên nhà, cha xứ đã áp dụng cứng và không công bằng luật cấm đồng tế trong tang lễ hay lễ cưới, dù cho linh mục là họ hàng thân thích của người quá cố hay của đôi tân hôn. Nhưng “khi quen biết“ và là người giầu có  thì lại cho hàng mấy chục linh mục đồng tế, cho mang quan tài vào trong nhà thờ cũng như cha xứ  thân hành  ra nghĩa trang để làm nghi thức cuối cùng,  thay vì  không cho đem quan tài vào trong nhà thờ và chi có “nghi thức ông Trùm” ( ông trùm ra làm nghi thức cuối cùng) như áp dụng cho những người nghèo, không thân quen cha xứ ở một số nơi bên nhà !!

 Như vậy, công bằng và bác ái ở đâu, và nhất là có tránh được hay còn tạo thêm gương xấu khiến giáo dân phải xa lìa Giáo Hội vì chủ chăn không công bằng khi áp dụng lề luật của Giáo Hội???

 Và như thế thì còn gì là hiệu quả của việc Phúc Âm hóa môi trường, tức là rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để mời gọi thêm nhiều người nhận biết Chúa Kitô và gia nhập Giáo Hội của Chúa để nhận lãnh ơn cứu độ của Ngườii? Chúa nói:” ai có tai nghe thì nghe”. (Mc 4: 23; Lc 8:8)



II- Chuện “lạ đời” thứ hai ở một Công Đoàn Công giáo Việt Nam ở Mỹ.

Tôi thực không hiểu ông linh mục nào đang làm mục vụ ở đây đã học Thần học Bí tích ở đâu mà thực hành “ngược đời” như một giáo dân thuộc Công Đoàn đã tố cáo trong bài này.

Theo luật phụng vụ, thì ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday) là ngày dành riêng để kinh nhớ cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu trên thập giá, nên cấm cử mọi hành mọi nghi thức phụng kể cả tang lễ hay lễ cưới trong ngày này.

Vậy tai sao lại rửa tội cho người dự tòng (catechumen) vào ngày tưởng niệm Chúa chết???

Nếu Cộng Đoàn không có Lễ Vọng Phục Sinh (Vigil Easter) thì có thể rửa tội vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh hay một ngày nào khác trong tuần, chứ tại sao lại làm trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh?

Sở dĩ Giáo Hội dạy rửa tội, thêm sức cho người dự tòng (catechumens) trong lễ Vọng Phục Sinh (tối thứ bảy Tuân Thánh) vì trong đêm này nước và lửa được làm phép để thắp sáng Nến Phục Sinh là Ánh Sáng Chúa Kitô Phục Sinh (Lumen Christi) và cử hành nghi thức khai tâm  cho người mới nhập Đạo qua Phép rửa, nên không những phải  rửa tội cho người dự tòng trong đêm này mà các giáo hữu đã được rửa tội rồi cũng phải tuyên xưng lại những lời hứa khi được rửa tội lúc còn bé. Lại nữa, theo nghi thức khai tâm nhập Đạo (RICA) dành cho người dự tòng (catechumen), thì họ được lãnh 3 bí tích trong đêm Vọng Phục Sinh là rửa tội, thêm sức và rước Mình Thánh Chúa lần đầu. Ở các Giáo Phận, mọi linh mục đều được Giám Mục của mình ủy quyền (delegate) cho phép cử hành bí tích Thêm sức cho người dự tòng và việc ban bí tích này là thành sự và hợp pháp (validly and licitly). Nghĩa là không hề có luật bí tích hay giáo luật nào nói là linh mục chỉ được “tạm thêm sức” chờ ngày được giám mục cho Thêm Sức thiệt cả!

Do đó, ai làm như vậy là không hiểu gì về Thần học bí tích và luật phụng vụ của Giáo Hội áp dụng thống nhất ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội.

Tóm lại, mọi linh mục đều được mong đợi học hành đến nới đến chốn để khi ra làm mục vụ không tự ý mình làm những việc sai trái về phụng vụ và bí tích khiến gây hoang mang và thiệt hại cho giáo dân chẳng may rơi vào trách nhiệm mục vụ của những linh mục này.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra. Amen

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, MDiv, MA, DMin.

Houston, Texas, USA.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét